Phát triển du lịch gắn với bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa vật thể tại Hải Dương - Pdf 25

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
……………… NGUYỄN THỊ SAO PHÁT TRIỂN DU LỊCH GẮN VỚI BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ CỦA DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ TẠI
HẢI DƯƠNG
Chuyên ngành: Du lịch
(Chương trình đào tạo thí điểm)

LUẬN VĂN THẠC SỸ DU LỊCH


Chƣơng 2.THỰC TRẠNG BẢO TỒN DI SẢN VÀ KHAI THÁC DU
LỊCH TẠI CÁC DI TÍCH TIÊU BIỂU Ở HẢI DƢƠNG 25
2.1Khái quát về tỉnh Hải Dƣơng 25
2.1.1 Điều kiện tự nhiên 25
2.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội 27
2.2 Các di sản văn hoá vật thể tiêu biểu tại tỉnh Hải Dƣơng 29
2.2.1 Di tích chùa Côn Sơn 29
2.2.2 Di tích lịch sử đền Kiếp Bạc 36
2.2.3 Đền thờ Chu Văn An 40
2.2.4 Văn Miếu Mao Điền 43
2.3 Hoạt động du lịch tại các di sản văn hoá vật thể tại Hải Dƣơng 48
2.3.1 Về tổ chức quản lý 48
2.3.2 Về xây dựng sản phẩm 51
2.3.3 Về du khách 53
2.3.4 Về hiệu quả kinh tế xã hội 54
2.4 Mối tƣơng tác giữa bảo tồn di sản và hoạt động du lịch tại Hải
Dƣơng 56
2.4.1 Khái quát hiện trạng hoạt động du lịch tại Hải Dương 56 2
2.4.2 Tác động của hoạt động du lịch tại các di sản văn hoá vật thể
tiêu biểu ở Hải Dương tới bảo tồn di sản văn hoá 61
2.5 Những vấn đề đặt ra cho công tác bảo tồn di sản văn hoá 65
2.5.1 Vấn đề phát triển du lịch tại các di sản 65
2.5.2 Vấn đề quản lý và bảo tồn các di sản 68
2.6 Những thuận lợi và khó khăn trong việc bảo tồn di sản văn hoá
trong hoạt động du lịch 71
2.6.1 Thuận lợi 71
2.6.2 Khó khăn 74

BQL : Ban quản lý
BVHTT : Bộ Văn hóa thể thao
DSVH : Di sản văn hóa
GS.TS : Giáo sư tiến sỹ
NXB : Nhà xuất bản
QLDT : Quản lý di tích
VHTT : Văn hóa Thông tin
UBND : Ủy ban nhân dân DANH MỤC BẢNG BIỂU

TT
Bảng
Nội dung bảng
Trang
1
Bảng 2.1
Hệ thống cơ quan quản lý về du lịch tại các di tích ở Hải
Dương
53
2
Bảng 2.2
Số liệu khách tham quan khu di tích Côn Sơn – Kiếp ,
Bạc, đền Chu Văn An, Văn Miếu Mao Điền
58
3

và sự trân trọng của chúng ta đối với lịch sử dân tộc, mà cũng là thái độ
của chúng ta đối với quá trình phát triển, với sự nghiệp xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã ra nghị quyết TW 5, khoá 8 xác định:
“Văn hoá là nền tảng của sự phát triển”; Nghị quyết đại hội lần thứ IX
khẳng định: Bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá dân tộc, các giá trị văn
học, nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết và thuần phong mỹ tục của các dân tộc;
Tôn tạo các di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh; Khai thác các
kho tàng văn hoá cổ truyền trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là nhiệm vụ sống còn của Đảng
và Nhà nước ta hiện nay.

Với sự phát triển mạnh mẽ và những đóng góp to lớn cho nền kinh
tế quốc dân, hoạt động du lịch đang ngày càng phát triển và chiếm một
vai trò quan trọng. Hoạt động du lịch góp phần bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hoá. Nhìn nhận một cách đầy đủ thì bản thân du lịch còn là
một hoạt động văn hoá. Giữa văn hoá và du lịch có những mối liên hệ,
sự gắn kết vô hình, bản thân văn hoá chính là sức hút cấu thành nên sản 5
phẩm du lịch. Trong quá trình sáng tạo, sản phẩm du lịch có sự đóng góp
của tài nguyên nhân văn. Sự đa dạng của tài nguyên nhân văn tạo nên sự
đa dạng của các sản phẩm du lịch. Song chủ yếu và dễ nhìn nhận nhất
đó là việc khai thác các di sản văn hoá truyền thống bản địa để cấu thành
nên sản phẩm du lịch.Từ sự gắn kết này đã hình thành nên mối liên hệ
tương tác giữa các giá trị văn hoá lịch sử của các di sản với du lịch.

Di tích chùa Côn Sơn, đền Kiếp Bạc, đền Chu Văn An, Văn Miếu
Mao Điền là các di tích lịch sử văn hóa và danh thắng đặc biệt quan

sẽ góp phần bảo tồn và làm cho hoạt động du lịch Hải Dương thêm phát
triển. Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển du lịch gắn với
bảo tồn di sản tại đây, người viết đã chọn đề tài: “Phát triển du lịch gắn
với bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa vật thể tại Hải Dương
” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành du lịch học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp có thể vận dụng góp phần phát triển du
lịch gắn với bảo tồn và phát huy giá trị của di tích Côn Sơn, Kiếp Bạc,
Chu Văn An, Văn Miếu Mao Điền tại Hải Dương.
* Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu cơ sở lý thuyết về bảo tồn di sản văn hóa
- Nghiên cứu hoạt động bảo tồn di sản và mối tương quan trong
khai thác di sản để phục vụ phát triển du lịch cả tích cực và tiêu cực tại
các di tích tiêu biểu trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
- Tìm hiểu thực trạng phát triển du lịch tại Hải Dương, việc khai
thác gia trị văn hoá lịch sử tại các di tích trong phát triển du lịch; Nhận
diện các vấn đề đặt ra cho công tác bảo tồn di sản văn hóa tại các di tích
này.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động du
lịch vào quá trình bảo tồn và phát huy các giá trị của các di tích Côn Sơn,
Kiếp Bạc, Chu Văn An, Văn Miếu Mao Điền của tỉnh Hải Dương
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 7
*Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động khai thác các di sản
văn hóa vật thể tiêu biểu trên địa bàn tỉnh Hải Dương và hoạt động bảo
tồn di tích bao gồm cụm di tích Côn Sơn, Kiếp Bạc, đền Chu Văn An,

công tác bảo tồn và phát triển du lịch tại các di tich; văn bản pháp lý của
Sở VHTT & Du lịch, Tổng cục Du lịch và văn bản liên quan trực tiếp tới
việc phát triển du lịch của tỉnh Hải Dương.
- Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp:Tìm hiểu các vấn đề
đã được xác định trên cơ sở nguồn tư liệu đã thu thập và giá trị văn hóa
tại các di tích.
- Phương pháp khảo sát thực tế tại khu di tích: Áp dụng các kỹ
năng phỏng vấn, thống kê, quan sát, miêu tả, ghi hình… Nghiên cứu
thực trạng đồng thời thu thập, phân tích cứ liệu về các di tích
- Phương pháp chuyên gia: đóng vai trò quan trọng trong việc
định hướng nhằm đưa ra kết luận, kiến nghị và lựa chọn phương án
phát triển với những thông tin lượng hóa chính xác. Việc tranh thủ ý
kiến chủ đạo của các cấp lãnh đạo địa phương, các ngành – lĩnh vực
có liên quan, cùng với đội ngũ cán bộ khoa học, cán bộ nghiên cứu
trong lĩnh vực du lịch, địa lí, văn hóa…Áp dụng những ý kiến thu thập
được vào việc này đẩy mạnh hoạt động phát triển du lịch và công tác
bảo tồn tại các di tích
5. Bố cục của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung chính của luận văn gồm ba chương như sau:
- Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về bảo tồn di sản văn hóa trong kinh
doanh du lịch
- Chƣơng 2: Thực trạng bảo tồn di sản và khai thác du lịch tại các
di tích tiêu biểu ở Hải Dương
- Chƣơng 3: Định hướng và giải pháp góp phần phát triển du lịch
gắn với bảo tồn di sản văn hóa ở Hải Dươ
9


10
thái tồn tai của các di sản trong thời điểm hiện tại. Trong luận văn này
tác giả chỉ nghiên cứu về các di sản văn hóa vật thể nên chỉ đưa ra khái
niệm về di sản văn hóa vật thể.
Di sản văn hóa vật thể là: “ DSVH vật thể là những sản phẩm vật
chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền lâu đời trong
đời sống của các dân tộc, bao gồm các di tích lịch sử - văn hóa, các công
trình xây dựng kiến trúc, mỹ thuật, các danh lam thắng cảnh, các di vật,
cổ vật, bảo vật quốc gia” [33,13].
1.2. Vai trò của di sản văn hoá trong kinh doanh du lịch
Di sản văn hóa là nguồn lực cho phát triển du lịch. Văn hóa có vai
trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển toàn diện của đất nước về
kinh tế, chính trị, xã hội trong đó có du lịch, một ngành kinh tế quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong kỷ
nguyên mới.
Nhiều người cho rằng nếu không có truyền thống, vẻ đẹp độc đáo,
những giá trị của các công trình kiến trúc, văn hóa thì du lịch Việt Nam
sẽ không phát triển mạnh được, sẽ mất đi sự hấp dẫn riêng có của nó. Cả
du lịch và văn hóa đều gặp nhau ở tính “lạ”. Vì tính “lạ”, tính khác biệt
là điều kiện để văn hóa tồn tại, còn du lịch cần tính lạ để thu hút nhu cầu
khám phá của du khách.
Trong Luật Du lịch ban hành năm 2005, thì tài nguyên du lịch được
xác định là “cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn
hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn
khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ
bản để hình thành các khu du lịch, tuyến du lịch, độ thị du lịch”.
Với nhận định trên, có thể khẳng định rằng phần lớn tài nguyên du
lịch là các giá trị, các công trình kiến trúc, điêu khắc…của dân tộc trong
sự gắn bó với môi trường tự nhiên và xã hội. Bên cạnh đó, di sản văn

lịch thì thánh địa Mỹ Sơn lại trở thanh điểm tham quan du lịch thu hút
đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước tới tham quan, tìm hiểu. 12
Ngày nay, xu hướng du lịch sinh thái, du lịch cảnh quan và du lịch
văn hóa đang trở thành những loại hình du lịch chủ yếu. Ở nhiều nước
trên thế giới kinh nghiệm cho thấy rằng nếu quốc gia nào có truyền
thống văn hóa lâu đời, có nhiều di sản văn hóa thì quốc gia đó sẽ là điểm
đến hấp dẫn.
Di sản văn hóa còn góp phần cấu thành nên môi trường văn hóa cho
hoạt động du lịch. Văn hóa làm cho khách du lịch sung sướng, vừa lòng,
có những tình cảm tốt lành, những kỷ niệm đẹp cho khách sau những
chuyến đi thú vị. Văn hóa cung cấp, tri thức, các phép ứng xử văn minh
lịch sự cho hoạt động du lịch.
1.3. Các nguyên tắc của bảo tồn di sản văn hoá và bảo tồn di sản văn
hóa trong du lịch
1.3.1. Nguyên tắ c bả o tồ n di sả n văn hó a
Các di sản văn hóa là các di sản của thời gian, được truyền lại qua
nhiều thế hệ và trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Di sản văn hóa cần
được bảo vệ vì nó là một thành tố quan trọng trong việc hình thành nên
bản sắc văn hóa của một cộng đồng. Các di sản này được truyền, đã trải
quan sự thử thách của thời gian cũng như được những sáng tạo mới làm
phong phú thêm và trở thành một kho báu văn hóa có gía trị lớn. Sự
dung hòa các yếu tố văn hóa hiện tại và truyền thống sẽ làm phong phú
kho tàng văn hóa nói chung và chính các gía trị văn hóa truyền thống
cùng với tiến trình phát triển của nó luôn là nền tảng vững chắc nhất cho
sự phát triển kế tiếp của các giá trị văn hóa hiện đại. Chính vì lẽ đó nảy
sinh ra yêu cầu phải bảo tồn các di sản văn hóa trong đời sống hiện đại.
Bảo tồn các di sản văn hóa là một hoạt động nhằm mục đích lưu

tiêu hoạt động.
1.3.2. Nguyên tắ c bả o tồ n di sả n văn hó a gắ n vớ i phá t triể n du
lịch
Khi gắn kết các di sản với hoạt động du lịch, không thể chỉ nhìn
thấy lợi ích trước mắt là nguồn lợi kinh tế mà khai thác cạn kiệt các di
sản văn hóa, mà bỏ qua việc, khai thác kết hợp với tái đầu tư cho hoạt 14
động bảo tồn và cho bản thân các di sản. Nguyên tắc này liên quan tới
khâu tổ chức quản lý, khai thác sản xuất và lưu thông các sản phẩm du
lịch. Tại các di sản văn hóa cần hình thành tổ chức bộ máy chuyên trách
quản lý bảo tồn và phát huy các giá trị của các di sản
Phát triển du lịch bền vững cũng được coi là nguyên tắc cần đảm
bảo trông bảo tồn di sản văn hóa. Hiện nay việ c không tuân thủ cá c
nguyên tắ c trong phá t triể n du lịch bề n vữ ng là nguyên nhân dẫn đến
việc trùng tu và phục dựng tùy tiện, thiếu khoa học, hoặc làm biến dạng,
đánh mất tính nguyên gốc của các di sản. Dưới tác động của xu hướng
này, công tác bảo tồn di sản mang nặng tính thực dụng. Còn có xu hướng
"xã hội hóa di sản" nhưng đã bị hiểu sai và tiến hành tùy tiện, nên việc
thực hiện giao khoán công tác bảo tồn di sản ở các địa phương cho các
hội quần chúng cơ sở, thiếu sự giám sát, không có sự hỗ trợ của chuyên
gia văn hóa, đã đưa đến những hệ quả ngoài ý muốn.
Di sản là những giá trị được hình thành qua quá trình lịch sử, phản
ánh đời sống của cộng đồng; bao gồm những giá trị vật thể và phi vật
thể. Bảo tồn di sản văn hóa là hoạt động bảo vệ, gìn giữ các giá trị đó,
tránh sự mai một, xuống cấp và biến mất. Phát triển, bảo tồn di sản có
mục tiêu chủ yếu là: tôn vinh các giá trị truyền thống, phát huy nó trong
điều kiện xã hội mới. Sự tách biệt giữa bảo tồn và phát huy chỉ có ý
nghĩa về nhận thức, bởi nó là hai mặt của một vấn đề. Sự quá đề cao mặt

nhất cần phải có sự tham gia của cồng đồng trong kinh doanh du lịch và
bảo tồn di sản văn hóa. Ngoài ra cần tăng cường cho người dân điạ
phương nhận thức về di sản văn hóa.
Sự tham gia của cộng đồng dân cư trong kinh doanh du lịch và
bảo tồn di sản là rất quan trọng nó được thể hiện ở việc cư dân địa
phương được tham gia vào các hoạt động kinh doanh du lịch như cung
cấp các dịch vụ ăn uống, lưu trú, bán hàng lưu niệm, các sản vật địa
phương cho du khách để thu lợi nhuận và được chia sẻ các quyền lợi 16
khác từ hoạt động du lịch như việc đón khách du lịch tại các ngôi nhà cổ
ở làng cổ Đường Lâm, công ty du lịch và người dân đều được lợi.Từ đó
cư dân địa phương có ý thức bảo vệ các di sản văn hóa và có trách nhiệm
bảo tồn các di sản văn hóa hơn.
Muốn bảo tồn và phát huy được gía trị của các di sản một cách tốt
nhất trước hết phải tập trung vào việc nhận thức cộng đồng, phải để họ
hiểu một cách sâu sắc giá trị của di sản mà mình đang nắm giữ và khả
năng lhai thác của nó. Muốn nâng cao ý thức của cộng đồng về bảo tồn
di sản trước hết cần thông qua các hoạt động tuyên truyền của địa
phương phối hợp với các tổ chức, đơn vị chức năng. Sau đó là sự vận
động của các cấp quản lý. Việc tăng cường nhận thức của người dân địa
phương khoogn chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền mà cần phải có các
chương trình giáo dục nhận thức về di sản cụ thể. Con người được coi là
trung tâm của quá trình phát triển. Và do đó, di sản văn hóa phải được
gắn với con người và cộng đồng cư dân địa phương (với tư cách là chủ
thể sáng tạo văn hóa và chủ sở hữu tài sản văn hóa), coi việc đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt văn hóa lành mạnh của đông đảo công chúng trong xã
hội là mục tiêu hoạt động.
Có thể nói, dù với bất cứ lý do nào, việc bảo vệ, bảo tồn, tôn tạo di

như một ngôi đền được tôn tạo thường tạo dáng mái ngói cong cổ kính,
nhưng bên trong lại nhìn rõ những dầm bê tông nặng nề chống đỡ. Hoặc
các ban thờ của đình miếu, chùa chiền vẫn thường được xây bằng xi
măng, mặt được lát bằng gạch men Những cái đó thường có tác động
phản cảm rõ rệt đối với du khách. Du khách chắc chắn sẽ không chê các
giá trị văn hoá của di sản, nhưng sẽ có ấn tượng về sự cẩu thả, làm mất
đi cảm hứng và sự thụ cảm trọn vẹn những giá trị văn hoá đặc sắc mà lẽ
ra di sản đã có thể cung cấp cho du khách.
Cần quan tâm xây dựng nội dung giới thiệu giá trị của di sản, bảo
vệ, tôn tạo di sản phải nhằm mục đích giới thiệu di sản đến với công
chúng. Do vậy cần chuẩn bị tốt nội dung giới thiệu về di sản. Đây cũng
là yêu cầu của phục vụ phát triển du lịch. Trong quy hoạch tổng thể bảo 18
tồn và phát huy giá trị di sản - văn hoá đến 2020 của Bộ Văn hoá -
Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) cũng đã nêu rõ về
vấn đề này. Trong phần định hướng cụ thể, mục 2.1.4 đã nêu rõ: “Ưu
tiên cho công tác tư liệu hoá qua việc xây dựng hồ sơ khoa học, phim,
ảnh tư liệu hoặc hình thức ghi nhận sự kiện bằng bia, đài kỷ niệm”. Nội
dung giới thiệu cho du khách không cần thiết phải thật sự chi tiết, nhưng
phải đầy đủ và chọn lọc. Ngoài ra cũng có thể sử dụng những hình thức
giới thiệu đa dạng khác.
Tuy nhiên hiện nay, việc chuẩn bị nội dung giới thiệu về giá trị
của các di sản cho khách du lịch vẫn còn nhiều bất cập. Có nhiều bản
giới thiệu thay vì diễn giải, phân tích, thì lại nặng về phần ca ngợi chung
chung. Những bản giới thiệu như thế thường không đem lại sự hài lòng
cho du khách. Có những điểm du lịch là hang động đẹp, thì trong nội
dung giới thiệu bên cạnh yếu tố huyền thoại với những chuyện kể mang
sắc thái cổ tích, thì cũng cần thiết phải có những thông tin mang tính

trong đó có nguyên nhân từ nhận thức. Nhiều người còn quan niệm, suy
nghĩ lệch lạc cho rằng xây dựng đề án bảo vệ di tích luôn đi liền với
trùng tu, khôi phục, làm như vậy để thu hút khách du lịch.
Bên cạnh đó cũng còn nhiều di tích có giá trị văn hoá, lịch sử quan
trọng đã không được quan tâm đầu tư tôn tạo đúng mức. Do vậy đã
không phát huy được hiệu quả khai thác trong giáo dục truyền thống
cũng như trong phục vụ phát triển du lịch. Ví dụ, Khu quần thể di tích
chùa Dâu ở Bắc Ninh là một khu di tích quan trọng bậc nhất Việt Nam,
là trung tâm Phật giáo sớm nhất nước ta. Tuy nhiên khu di tích này vẫn
chưa được quan tâm tôn tạo, bảo trì.
Bảo vệ môi trường khu vực di tích, di sản là yêu cầu quan trọng
trong phát triển du lịch. Môi trường ở đây phải được hiểu theo nghĩa
rộng, bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội nhân văn.
Môi trường du lịch tự nhiên bao gồm môi trường nước, môi trường
không khí, môi trường đất, tình hình nước thải, chất thải rắn Môi
trường xã hội nhân văn trong khu di tích, di sản thể hiện qua tình hình 20
quản lý khu di tích, tình hình trật tự trị an khu vực Môi trường tự nhiên
bị ô nhiễm, cũng như môi trường văn hoá xã hội thiếu lành mạnh sẽ làm
giảm tính hấp dẫn của di sản đối với khách du lịch, và đương nhiên làm
giảm tính hiệu quả trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản. Do vậy
trong nội dung công tác bảo tồn, tôn tạo di sản, di tích cũng phải có
nghiên cứu đánh giá tác động môi trường và có những giải pháp khả thi
nhằm bảo vệ, tôn tạo và phát triển môi trường di tích.
Du lịch được xác định là ngành kinh tế quan trọng của đất nước.
Việc đa dạng các loại hình, sản phẩm du lịch văn hoá trên cơ sở khai
thác hiệu quả các giá trị của Di sản văn hóa là việc làm cấp thiết. Bởi vì,
du lịch không chỉ đơn thuần là một hoạt động kinh tế, nó còn mang nội

thuần. Bên cạnh đó thì du lịch cũng được coi là phương tiện để làm sống
lại các giá trị của di sản và làm cho các giá trị của di sản được mọi người
biết đến rộng rãi hơn.
1.4.1. Những tác động tích cực của du lịch tới bảo tồn các di sản
Giữa du lịch và văn hóa luôn có mối quan hệ biện chứng và trực
tiếp, mối quan hệ này càng thể hiện rõ hơn trong sự liên hệ giữa việc bảo
vệ và phát huu giá trị của các di tích lịch sử văn hóa – một bộ phận của
tài sản văn hóa và đồng thời là một trong những bộ phận quan yếu nhất
của nguồn tài nguyên du lịch.
Giao lưu là một trong những thuộc tính cơ bản của văn hóa và
đượng biểu hiện sinh động trong các di sản văn hóa mà du lich đã, đang
và sẽ góp phần không nhỏ giao lưu văn hóa. Du lịch là cầu nối giữa các
bộ phận dân cư thuộc các nền văn hóa khác nhau trên thế giới, đồng thời
tạo lập mối quan hệ trực tiếp giữa quá khư, hiện tại, tương lai của mỗi
dân tộc. Sự phát triển của du lịch tác động trực tiếp vào việc chấn hưng
và bảo tồn các di sản văn hóa. Doanh thu của các hoạt động du lịch được
sử dụng cho việc tu bổ các di tích, chỉnh lý các bảo tàng, đồng thời khôi
phục các di sản văn hóa. Du lịch góp phần làm cho các di tích sống lại,
vì du lịch không chỉ đưa di sản văn hóa đến với công chúng mà còn tiếp
sức cho di sản bằng nguồn lợi ích mà nó khai thác từ di sản, góp phần tái 22
tu bổ di tích. Di sản là minh chứng hủng hồn cho bề dày văn hóa của mỗi
quốc gia và du lịch với các hoạt động của mình sẽ góp phần quảng bá
văn hóa của quốc gia đến thế giới.
Tuy nhiên việc khai thác du lịch kết hợp với bảo tồn di sản cần có
những quy trình nhất định, được tuân thủ nghiêm ngặt nhằm đảm bảo
những lợi ích và tác động từ cả hai phía, không triệt tiêu lẫn nhau không
kìm chế sự phát triển về kinh tế và văn hóa mà trái lại còn có thể bổ sung

vấn đề tác động của du lịch đến môi trường. Hoạt động du lịch ồ ạt có
nguy cơ làm suy thoái tài nguyên du lịch tự nhiên. Sự tập trung quá
nhiều người và thường xuyên tại địa điểm du lịch làm cho thiên nhiên
không kịp phục hồi và đi đến chỗ bị huỷ hoại. Ngày nay, khi đến Vịnh
Hạ Long, Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Động Phong Nha, … du
khách có thể thấy các loài thú đặc trưng, nhũ đá trong các hang động bị
mất dần vẻ tự nhiên và hoang sơ, trở nên nhẵn nhụi do bị du khách va
chạm nhiều lần hay bị mất đi vẻ tự nhiên do hệ thống ánh sáng được lắp
đặt quá mức. Hiện tượng tàn phá môi trường do việc mua, lấy các tiêu
bản tự nhiên để làm kỷ niệm cho chuyến đi như phong lan, nhũ đá vẫn
còn tồn tại. Không ít du khách để lại dấu ấn về sự có mặt của mình tại
nơi du lịch. Tại nhiều điểm, do ý thức của du khách, trách nhiệm của
người làm du lịch, sự quan tâm đầu tư và quản lý của chính quyền chưa
tốt nên tình trạng xả rác thải bừa bãi trong mùa du lịch đã đến mức báo
động. Chúng ta có thể nhận thấy điều này tại các di sản như Hạ Long,
Phong Nha - Kẻ Bàng của Việt Nam hay tại một số di sản khác trên thế
giới như Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc. Mặt khác, do số lượng
công trình phục vụ khách tăng lên nhanh chóng tại các điểm du lịch, đặc
biệt là tại các điểm có di sản vượt quá khả năng chịu tải của cơ sở hạ
tầng nên chúng bị xuống cấp trầm trọng, góp phần gia tăng mức ô nhiễm
môi trường.
Việc hợp tác giữa các cơ quan bảo tồn di sản và các đơn vị khai thác
du lịch chưa thực hiện có hiệu quả. Vì quyền lợi cục bộ của mình, những
cơ quan này đã trực tiếp hay gián tiếp gây nên những hậu quả vừa làm 24
ảnh hưởng đến bảo tồn di sản và phát triển du lịch bền vững. Trong khi
đơn vị khai thác chỉ chú tâm đến lơi nhuận từ kinh doanh mà không chú
ý đến nguồn vốn tái đầu tư cho việc bảo tồn, dẫn đến việc xuống cấp của


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status