Báo cáo nghiên cứu khoa học " Dịch vụ công với phát triển kinh tế - xã hội " doc - Pdf 15

Dịch vụ công với phát triển kinh tế - xã hội
Theo nghĩa hẹp, dịch vụ công được hiểu là những hàng hóa và dịch vụ mà chính
phủ có trách nhiệm cung cấp hoặc quản lý việc cung cấp nhằm đảm bảo lợi ích của
công dân Theo đó, dịch vụ công là loại dịch vụ do nhà nước trực tiếp thực hiện
hoặc ủy quyền cho đơn vị ngoài nhà nước thực hiện dưới sự giám sát của tổ chức
công quyền. Có thể hiểu dịch vụ công là dịch vụ do nhà nước chịu trách nhiệm
phục vụ những yêu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân không vì mục tiêu
lợi nhuận. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, dịch vụ công bao gồm cả dịch vụ công
cộng lẫn dịch vụ hành chính công.
1. Khái quát về dịch vụ công và xu thế vận dụng ở một số quốc gia
Theo nghĩa hẹp, dịch vụ công được hiểu là những hàng hóa và dịch vụ mà
chính phủ có trách nhiệm cung cấp hoặc quản lý việc cung cấp nhằm đảm bảo lợi
ích của công dân Theo đó, dịch vụ công là loại dịch vụ do nhà nước trực tiếp
thực hiện hoặc ủy quyền cho đơn vị ngoài nhà nước thực hiện dưới sự giám sát
của tổ chức công quyền. Có thể hiểu dịch vụ công là dịch vụ do nhà nước chịu
trách nhiệm phục vụ những yêu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân không
vì mục tiêu lợi nhuận. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, dịch vụ công bao gồm cả
dịch vụ công cộng lẫn dịch vụ hành chính công. Nhóm dịch vụ công cộng liên
quan đến dịch vụ xã hội như trường học, bệnh viện, hoạt động nghiên cứu ; dịch
vụ công ích bao gồm cả cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường, giao thông công
cộng Nhóm dịch vụ hành chính công gồm cấp phép, chứng nhận, xác nhận, thu
các khoản đóng góp vào ngân sách, quỹ nhà nước; giải quyết khiếu nại, tố cáo và
xử lý vi phạm hành chính, luật pháp (Nguyễn Đình Phan - “Nâng cao chất lượng
dịch vụ hành chính công thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu hội nhập” - Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội 2009).
Từ những khái niệm nêu trên, có thể phân dịch vụ công thành nhiệm vụ
hành chính mà nhà nước phải thực hiện và thứ hai là cung cấp những sản phẩm
thiết yếu cho đời sống và những thứ nằm ngoài dịch vụ cơ bản, do nhà nước đảm
nhận hoặc giao cho các tổ chức khác cung ứng cho công chúng. Người sử dụng
dịch vụ công không chỉ là người tiêu dùng thông thường mà còn là người nộp thuế,
họ có quyền và nghĩa vụ công dân trong khuôn khổ luật pháp quy định. Với tư

hóa xã hội, thông tin truyền thông, thể thao, giải trí, nghiên cứu khoa học kỹ thuật
và vệ sinh môi trường ); 3) Dịch vụ an ninh, trật tự xã hội (Hoàng Văn Hải -“Xu
hướng hiện đại trong quản trị dịch vụ thuộc khu vực công” - Hà Nội tháng 6 năm
2010).
Tại Ấn Độ, khu vực công là bộ phận xã hội được điều khiển bởi chính
quyền trung ương, bang và địa phương. Loại hình tổ chức gồm có các cơ quan
thuộc chính quyền các cấp và những cơ quan tự quản hoạt động trong các lĩnh vực
sản xuất, tài chính, vận tải, phúc lợi công cộng, dịch vụ và thương mại, nông
nghiệp, điện lực
Tại Thái Lan, khu vực công gồm cơ quan hành chính trung ương, tỉnh, địa
phương và các tổ chức tự quản. Mục tiêu chiến lược phát triển khu vực công của
Thái Lan trong giai đoạn 2008 - 2012 đã tập trung vào phản ứng lại sự thay đổi,
tham dự, thông minh và hoàn hảo. Việc soạn thảo và ban hành chiến lược cho khu
vực công ở Thái Lan đã thể hiện cách tiếp cận tương tự như đối với khu vực doanh
nghiệp. Xuất phát từ thực thi nhiệm vụ nhà nước, các mục tiêu chiến lược đã thể
hiện rõ, khu vực công phải lấy nền tảng là phục vụ khách hàng; người dân cần
được tham dự vào cung cấp dịch vụ công. Giống như khách hàng của doanh
nghiệp, công dân đòi hỏi sự hoàn hảo chứ không đơn thuần chấp nhận những gì
người khác đưa cho mình.
Tại Singapore, khu vực công bao gồm các cơ quan chính quyền nhà nước,
các tổ chức dịch vụ (hạ tầng cơ sở, chính sách, giáo dục đào tạo, luật pháp, trật tự
và quốc phòng) và doanh nghiệp chính phủ. Giáo dục phổ thông và dịch vụ y tế cơ
bản được nhà nước cung cấp. Tuy nhiên, nhiều định chế thương mại đã trở thành
những công ty lớn, một số chiếm vị thế độc quyền. Với trách nhiệm trong quản lý
và giám sát các công ty này, Chính phủ Singapore tránh đưa ra những mệnh lệnh
về giá mà thay vào đó giảm gánh nặng tăng giá cho công chúng sử dụng dịch vụ
thông qua hỗ trợ bằng tiền và chuyển trực tiếp cho những gia đình gặp khó khăn.
Cách làm này tránh cho chính phủ can thiệp quá sâu vào giá cả thị trường và hiệu
suất kinh tế. Mặt khác, tạo được sự cạnh tranh giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ
thông qua cấp nhiều gấy phép cùng cung cấp một loại dịch vụ nhằm giữ giá ở mức

công phải tìm và tổ chức thực hiện các biện pháp gia tăng sự gắn kết của người lao
động, thỏa mãn yêu cầu của người dân và củng cố lòng tin của họ (Hoàng Văn Hải
-“Xu hướng hiện đại trong quản trị dịch vụ thuộc khu vực công” - Hà Nội tháng 6
năm 2010).
2. Thực trạng cung cấp dịch vụ công ở Việt Nam
Trong những thập kỷ qua, dịch vụ công ở Việt Nam đã dần chuyển dịch
theo hướng xã hội hóa. Nét nổi bật trong xã hội hóa là từng bước tách chức năng
cung cấp dịch vụ công ra khỏi tổ chức quản lý nhà nước, đồng thời cho phép các
tổ chức nhà nước được đưa ra mức giá cao hơn cho các dịch vụ công cung cấp so
với mức giá ở thời kỳ chính phủ trực tiếp đảm nhận. Chuyển dịch này là sự thể
hiện cụ thể việc chuyển đổi từ mô hình nhà nước bao cấp sang thực hiện nguyên
tắc người tiêu dùng phải chi trả cho các dịch vụ sử dụng. Tuy nhiên, vấn đề gây
tranh cãi là sự bình đẳng về chất lượng dịch vụ, bởi khi giá dịch vụ gia tăng đã tạo
gánh nặng cho các gia đình khó khăn, gây ảnh hưởng bất lợi đối với người nghèo.
Phân tích quá trình cải cách cung cấp dịch vụ công của Việt Nam cho thấy,
những năm trước Đổi mới, nhà nước cung cấp và thể hiện rõ mối quan hệ trực tiếp
giữa các tổ chức công quyền với người dân. Ở giai đoạn này, dịch vụ công thường
được cung cấp miễn phí hoặc với mức giá thấp. Từ đòi hỏi giải phóng năng lực
sản xuất xã hội, giảm bớt kế hoạch hóa và kiểm soát tập trung; mặt khác, do thiếu
nguồn lực nên việc cung cấp dịch vụ công có nhiều hạn chế so với kỳ vọng, buộc
chính phủ phải tìm nguồn lực ngoài nhà nước, ngoài khu vực kinh tế quốc doanh
để đảm bảo việc cung cấp. Đây chính là đòi hỏi để xã hội hóa những dịch vụ công,
chuyển một phần gánh nặng chính phủ cho xã hội nhờ vào huy động sự đóng góp
của công dân, dựa trên nguyên tắc thu phí từ phía người sử dụng nhằm vận hành
và sử dụng tối ưu nguồn lực kinh tế quốc gia.
Theo hướng xã hội hóa dịch vụ công, tháng 8 năm 1997, Chính phủ Việt
Nam có Nghị quyết 90/CP, mạnh dạn giao việc cung cấp dịch vụ công cho những
pháp nhân ngoài nhà nước và hoan nghênh sự tham gia của khu vực tư nhân. Tư
duy về cung cấp dịch vụ công đã được thay đổi từ quan niệm nhà nước là nhà cung
cấp chính sang các pháp nhân nằm ngoài khu vực nhà nước. Trong khi nhà nước

dịch vụ công tốt nhất”, “Cải cách nền hành chính Việt Nam - thực trạng và biện
pháp” - Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 2009).
Cung cấp dịch vụ hành chính công là một trong những chức năng cơ bản
mà nhà nước giao cho nền hành chính đảm trách. Là một bộ phận cấu thành dịch
vụ công, trong quá trình cải cách thủ tục hành chính, chủ thể cung ứng dịch vụ
hành chính công cũng trải qua những giai đoạn phát triển đặc thù. Trước năm 1986,
cơ chế quản lý tập trung quan liêu đã hình thành một cơ chế cung ứng dịch vụ theo
kiểu “xin-cho”, làm nảy sinh nhiều tiêu cực trong mối quan hệ giải quyết công
việc với người dân, tính chất cai trị của nền hành chính thể hiện rõ nét trong quan
hệ lẽ ra phải là phục vụ. Sau gần 1/4 thế kỷ thực hiện chủ trương Đổi mới, lộ trình
cải cách thủ tục hành chính đã chuyển sang thực hiện cải cách tổng thể nền hành
chính quốc gia. Theo “Chương trình tổng thế cải hành chính nhà nước giai đoạn
2001-2010” (“Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn
2001-2010” - Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 17
tháng 9 năm 2010), cơ chế cung ứng dịch vụ hành chính công đã có những thay
đổi cơ bản, khắc phục dần những hạn chế trong việc công khai, minh bạch về thủ
tục; nâng cao khả năng kết phối hợp, tính linh hoạt trong giải quyết và nhất là khả
năng kiểm soát của lãnh đạo trong các tổ chức công quyền.
Sau hơn 15 năm thực hiện Nghị quyết 38/NQ-CP của Chính phủ về cải
cách thủ tục hành chính, ở hầu hết các tỉnh đã thống nhất được bộ danh mục thủ
tục hành chính. Những bộ danh mục này đã thể hiện tính công khai, minh bạch;
tạo thuận lợi cho công dân; khắc phục tình trạng tùy tiện của cơ quan hành chính.
Mặt khác, cũng thể hiện tính pháp quyền và sự chuyên nghiệp trong cung ứng dịch
vụ hành chính công.
Thực hiện những chủ trương và biện pháp cụ thể về cải cách thủ tục hành
chính, chất lượng dịch vụ công ở nhiều địa phương đã có sự chuyển biến đáng kể
về thể chế, phương pháp làm việc, đơn giản thủ tục và rút ngắn thời gian giải
quyết thủ tục cho công dân. Việc đẩy mạnh cải cách dịch vụ công, thực hiện cơ
chế “một cửa” và “một cửa liên thông” đã tạo sự chuyển biến mới trong quan hệ
và thủ tục giải quyết công việc giữa cơ quan hành chính nhà nước với tổ chức và

vấn đề lớn đặt ra. Dịch vụ công hoàn hảo luôn là mục tiêu phấn đấu của một chính
phủ vì dân. Dịch vụ công hoàn hảo làm tăng tính văn hóa và sự tao nhã của cuộc
sống, nâng cao năng lực của hệ thống quản trị và sức mạnh của hệ thống chính trị
quốc gia. Với tư cách là một bộ phận trong hệ thống hành chính công, dịch vụ
công giúp xã hội vận hành tốt hơn để đạt được những tiến bộ. Theo các nhà phân
tích, nếu tư nhân hóa và xã hội hóa dịch vụ công giúp tăng cường hiệu quả phân
bổ nguồn lực và tăng cường năng lực cạnh tranh của đất nước thì nó vẫn cần thiết
trong thời gian dài.
Liên quan đến khía cạnh cung cấp dịch vụ công, các nhà nghiên cứu Đề tài “Cơ
cấu tổ chức chính phủ để ứng dụng dịch vụ công tốt nhất: trường hợp Việt Nam và
một số kiến nghị đổi mới” thuộc UNDP Việt Nam 2008 đã có những đề xuất quan
trọng. Theo đó, những nguyên tắc cần được tôn trọng tập trung vào: Xây dựng văn
hóa hướng tới khách hàng trong thế giới kinh doanh, cung cấp dịch vụ công phải
tạo được văn hóa coi sự hài lòng của công chúng là thước đo cuối cùng. Nguyên
tắc thứ 2 là không có mô hình tốt nhất có thể vay mượn và đưa vào Việt Nam mà
không phải chọn lọc và cấy ghép, cần phải vận dụng mang tính chọn lọc các ý
tưởng áp dụng dựa vào hoàn cảnh Việt Nam. Để dịch vụ công hoàn hảo trở thành
mục tiêu ưu tiên, nguyên tắc thứ 3 cần tôn trọng là cải cách cơ cấu tổ chức chính
phủ, sắp xếp và phân quyền cho các cơ quan liên quan trên cơ sở đảm bảo tính
chuyên môn hóa và là loại công việc thứ cấp có thể đảm nhận để thay mặt chính
phủ trong tăng cường phúc lợi.
Dịch vụ khu vực công là bộ mặt quốc gia và là yếu tố quyết định lòng tin
của người dân vào một nhà nước. Trong xu thế toàn cầu và hội nhập ngày càng
sâu rộng, Việt Nam không tránh khỏi ảnh hưởng của xu thế quốc tế trong quản lý
dịch vụ công. Nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công, trong thời gian tới cần
phải thực hiện một số giải pháp theo hướng sau đây:
- Một là, thành lập các cơ quan quản lý đại diện và thực hiện công tác giám
sát của chính phủ. Tổ chức này không trực tiếp cung cấp dịch vụ công mà sẽ là tai
mắt, chân tay của chính phủ trong việc giám sát chiến lược và thực hiện việc cung
ứng dịch vụ công trong từng lĩnh vực cụ thể. Cơ quan quản lý đại diện tương tác

- Bốn là, coi trọng giáo dục và đào tạo lao động. Đào tạo nghề là một mảng
quan trọng trong hệ thống giáo dục, nhất là trong hoàn cảnh Việt Nam đang thiếu
rất nhiều lao động có kỹ năng. Trước nghịch lý số học sinh cao đẳng, đại học cao
gấp nhiều lần học sinh trung và sơ cấp nghề; dịch vụ công trong đào tạo nghề cần
tập trung vào thiết lập mạng lưới các trường dạy nghề phục vụ học sinh sau khi
học xong tiểu học và trung học cơ sở. Với mục tiêu hướng vào đào tạo nghề miễn
phí, nhằm giảm bớt dôi thừa lao động không có kỹ năng và cung cấp đủ công nhân
và kỹ thuật viên lành nghề cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và đưa
đi làm việc ở nước ngoài, đào tạo nghề là loại dịch vụ công cần được đặc biệt quan
tâm cả về nhận thức và hành động từ cấp trung ương đến cơ sở, để tái tổ chức và
tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực này. Theo đó, cần xây dựng các cơ sở dạy nghề
như một trụ cột cơ bản của hệ thống giáo dục và đào tạo trong thời gian tới Cùng
với đào tạo lao động kỹ thuật, thị trường lao động trong nước và xuất khẩu đang
đòi hỏi chính phủ phải xem xét và coi phúc lợi dành cho người lao động trong
nước và đi xuất khẩu là phạm trù của dịch vụ công để có chính sách phù hợp.
Dịch vụ công là một hoạt động quan trọng của cơ quan nhà nước nhằm giải
quyết những vấn đề về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của các tổ chức và cá
nhân trong xã hội. Dịch vụ công liên quan trực tiếp đến đời sống của mỗi người
dân và rộng ra là cả cộng đồng, đó có thể là động lực nhưng cũng có thể là lực cản
ảnh hưởng tới phát triển kinh tế - xã hội và trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
Vì vậy, nâng cao chất lượng dịch vụ công là vấn đề mà cơ quan chính quyền các
cấp từ trung ương đến địa phương cần phải đặc biệt quan tâm trong quá trình hoạt
động.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status