LUẬN VĂN: Thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân doc - Pdf 15



LUẬN VĂN: Thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân
năm qua, theo quy định của pháp luật, Toà án đã tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống
vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân. Song, trong xét xử vẫn còn oan sai; quyền con người của bị cáo có
lúc có nơi chưa được tôn trọng còn bị vi phạm, chưa có biện pháp bảo đảm hữu hiệu. Điều
đó, do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau, song sự hạn chế, thiếu đồng
bộ của pháp luật có tác động đáng kể.
Như vậy, thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đồng thời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đặt ra nhiệm vụ cấp bách - phải hoàn thiện pháp
luật, tạo cơ sở pháp lý, bảo đảm quyền con người nhất là pháp luật trong lĩnh vực xét xử
hình sự của Toà án.
2. Tình hình nghiên cứu:
Quyền con người được các tổ chức Quốc tế, các nước trên thế giới nói chung, Việt
Nam nói riêng quan tâm nghiên cứu.
ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết của các nhà khoa học về
quyền con người, quyền công dân. Nổi bất trong các công trình này là hai tập chuyên khảo
"quyền con người, quyền công dân" của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh xuất
bản năm 1993. Đi sâu nghiên cứu tìm hiểu để đề ra các phương hướng, giải pháp cụ thể
nhằm "xây dựng và hoàn thiện bảo đảm pháp lý thực hiện quyền con người trong điều kiện
đổi mới ở nước ta hiện nay" là luận án PTS của thày giáo Nguyễn Văn Mạnh. Trung tâm
nghiên cứu quyền con người thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn
cuốn sách "Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị", xuất bản năm 1997. PGS. TS
Trần Ngọc Đường có một số bài viết về quyền con người, trong đó có bài "Hành vi hợp
pháp - nhân tố bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân" in trong
tập 1 chuyên khảo "quyền con người, quyền công dân". Tạp chí cộng sản tháng 5-1993 có
đăng bài "Quyền con người và quyền công dân" của PGS. TS (hiện nay là Giáo sư, Tiến
sỹ) Hoàng Văn Hảo và Chu Thành. PTS (nay là Tiến sỹ) Lê Minh Thông viết bài "Hoàn
thiện pháp luật về quyền con người trong điều kiện phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay"
trong Tạp chí Nhà nước và pháp luật, tháng 12-1998. Tác giải Nguyễn Văn Hiện có bài
- Xác định phương hướng, đề xuất những nội dung cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật bảo
đảm thực hiện quyền con người trong xét xử hình sự.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Việc nghiên cứu đề tài được dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu đề tài luận văn là phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử kết hợp với các phương pháp cụ thể như: phân tích - tổng hợp, khảo sát, so
sánh.
6. Đóng góp khoa học của đề tài:
Góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về quyền con người, đặc biệt là quyền
con người trong xét xử hình sự. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng và đề xuất phương
hướng, nội dung hoàn thiện pháp luật trong xét xử hình sự.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương, 6 tiết.
Mục lục
Trang
Mở đầu 4
Chương 1: Quyền con người và vai trò của pháp luật
trong việc bảo đảm quyền con người 8
1.1 Khái lược quyền con người và vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền
con người 8
1.2 Đặc trưng quyền con người của bị cáo trong xét xử hình sự 16
Chương 2. Quy định của pháp luật bảo đảm quyền con người
trong xét xử hình sự ở nước ta hiện nay 20
2.1 Quy định về tội phạm và hình phạt với việc bảo đảm quyền con người của
người phạm tội 20
2.1. 1 Quy định trách nhiệm hình sự 20

Kết luận 93
Danh mục tài liệu thao khảo 95
Chương I

Quyền con người và vai trò của pháp luật
trong việc bảo đảm quyền con người

1.1. Khái lược quyền con người
Mặc dù "quyền con người" mãi sau này (thế kỷ 18) mới được khẳng định, nhưng
những ý tưởng về nó lại ra đời rất sớm cùng với sự phân chia giai cấp trong xã hội và hình
thành Nhà nước. Khi mà trong các Nhà nước chiếm hữu nô lệ, con người bị coi là những
"công cụ biết nói" thì những tiếng kêu cứu đòi quyền được sống, được tự do, được quyền làm
người cũng xuất hiện.
Quyền con người , ngay từ đầu là một thuộc tính bản chất tự nhiên, là "đặc quyền".
Cho nên, khi các "đặc quyền" đó bị vi phạm, bị chà đạp thô bạo trong các Nhà nước cổ đại
thì đã có những cuộc khởi nghĩa của tầng lớp bị trị nổ ra đòi lại những đặc quyền vốn sơ
khai đó. Do có những cuộc đấu tranh "làm cho công lý bùng nổ để ngăn chặn kẻ mạnh
không làm hại kẻ yếu" mà đã xác lập nên Bộ luật Hamurabi. Mặc dù còn nhiều hạn chế: là
công cụ phục vụ mục đích thống trị, song Bộ luật đó đã nêu lên được tư tưởng về bình
đẳng, dân chủ, pháp luật hoá tư tưởng về quyền con người.
Xã hội loài người ngày càng phát triển, các trường phái triết học, pháp luật dần hình
thành, lớn mạnh. Các trường phái này đi vào nghiên cứu giải thích các vấn đề tự nhiên, xã
hội, con người. Đáng chú ý là thế kỷ 17 - 18 trường phái pháp luật tự nhiên với các đại
diện như: Spinoda, Hobbes, Kant đã mở ra một trang mới cho sự phát triển tư tưởng bảo
vệ quyền cá nhân chống lại sự vi phạm từ phía quyền lực, tức là bảo vệ các quyền hiển
nhiên, có sẵn của con người, không phải quyền do Nhà nước, pháp luật ban phát. Tư tưởng
này góp phần thắng lợi vào cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến tàn bạo, thiết lập

phát triển mới về quyền con người trên đất nước ta.
Quyền con người là một trong những giá trị xã hội cao quý nhất đồng thời là vấn đề
rộng lớn, phức tạp, được nhiều chuyên ngành khoa học nghiên cứu, do đó có nhiều quan
điểm, định nghĩa khác nhau về quyền con người. Song, trước hết, quyền con người được
hiểu là những đặc quyền mà con người sinh ra là tự nhiên có. Đó là những đặc quyền mang
tính tự nhiên mà nổi bật là quyền được sống, được bảo vệ, được tự do phát triển. Mặc dù,
những đặc quyền đó có trước, song chừng nào chưa được công nhận thì chúng không thể
được đưa ra áp dụng. Do đó, để đạt tới cái gọi là quyền cần phải có sự ghi nhận mà cụ thể
là bằng pháp luật. Các đặc quyền được pháp luật ghi nhận, điều chỉnh thì mới chính thức
trở thành quyền của con người.
Quyền con người là những đặc quyền (quyền tự nhiên) của con người được pháp
luật đảm bảo do cá nhân con người nắm giữ trong các quan hệ của mình với các cá nhân
khác và với chính quyền.
Như vậy, quyền con người là hệ thống các quyền của con người được xã hội thừa
nhận và bảo đảm bằng pháp luật. Chính vì vậy, quyền con người mang hai đặc tính cơ bản
là tính nhân đạo và tính pháp luật. "Quyền con người tuy mang đặc tính tự nhiên nhưng có
nội dung xã hội, bị chế ước bởi từng hoàn cảnh lịch sử, từng chế độ xã hội, từng Nhà
nước" [32,57] và được "mở rộng và cụ thể hoá cùng với sự phát triển của xã hội loài
người" [49,21].
Thực tiễn cuộc sống chỉ ra rằng, quyền con người là quyền của cá nhân con người,
nhưng quyền đó chỉ có thể có được trong quan hệ gắn bó với các con người khác trong tập
thể, cộng đồng. Hay nói cách khác quyền con người trở nên vô nghĩa khi con người tách
khỏi tập thể, cộng đồng và ở trong tập thể, cộng đồng nên quyền của cá nhân con người
không thể tách rời nghĩa vụ của họ đối với xã hội, Nhà nước. Vì rằng:"Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội" [19,11].
Quyền con người là giá trị xã hội cao quí nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân" [48,276]. Nhân dân là những con

đạo, dân chủ và pháp chế nên Nhà nước pháp quyền coi các quyền và tự do của con người
là những giá trị xã hội cao quý nhất đồng thời là khách thể hàng đầu ghi nhận, tôn trọng và
bảo vệ bằng pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự" [70;9,10]. Vì vậy, hoàn thiện pháp
luật bảo đảm quyền con người có ý nghĩa đặc biệt trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Nó "phải được xem là hoạt động thường xuyên của Nhà nước để một mặt đảm bảo cho
mỗi một bước phát triển của quyền con người, của dân chủ đều được ghi nhận và củng cố
bởi các quy định luật pháp phù hợp. Mặt khác, các quy định pháp lý phải mở đường, định
hướng thực hiện phát triển và thúc đẩy quyền con người trong đời sống quốc gia và quốc
tế" [59,12]
Song, pháp luật không dừng lại ở việc ghi nhận bước tiến của quyền con người mà
nó còn là phương tiện, công cụ không chỉ của Nhà nước mà cả của công dân để bảo vệ và
thực hiện quyền con người.
Nhà nước ban hành pháp luật là tạo cơ sở vững chắc cho mọi người tôn trọng,
nghiêm chỉnh chấp hành và thực hiện các giá trị xã hội được thừa nhận, bảo vệ, mà nổi bật
trong các giá trị đó là quyền con người "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật" (Điều 12
Hiến pháp 1992). Pháp luật là công cụ sắc bén, hữu hiệu của Nhà nước để bảo đảm thực
hiện quyền con người. Với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật có tính bắt buộc
cứng rắn nhất bằng cách xác lập những điều cấm mà bất cứ ai cũng không được vi phạm.
Đồng thời, pháp luật được bảo đảm thi hành bằng bộ máy Nhà nước cùng với sức mạnh
(dư luận) xã hội. Vì thế, các quy định của pháp luật về quyền con người còn được bảo đảm
bằng sự cưỡng chế của Nhà nước tránh mọi hành vi xâm hại. Trên cơ sở của pháp luật,
mọi hành vi vi phạm quyền con người, quyền công dân đều phải được xử lý nghiêm minh.
Như vậy, pháp luật còn là thước đo việc bảo đảm thực hiện quyền con người. Qua công tác
thực thi pháp luật mà rút ra những bài học bổ ích cho việc bảo đảm ngày một tốt hơn quyền
con người.
Cũng chính từ việc ghi nhận các quyền cơ bản của con người mà pháp luật trở thành
phương tiện để công dân có điều kiện bảo vệ mình. Quyền con người đã được pháp luật

Đối với kinh tế-điều kiện quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người - pháp
luật tạo khuôn khổ và môi trường pháp lý an toàn, thuận lợi để phát huy mọi tiềm năng cho
sản xuất, kinh doanh phát triển đúng hướng, có hiệu quả. Đối với các quyền của con người
về kinh tế cũng được quy định bằng pháp luật. "Pháp luật là phương tiện làm cho các quan
hệ kinh tế trở thành quan hệ pháp luật" [19,196] và cũng là phương tiện hữu hiệu để các
bên tham gia hoạt động kinh tế bảo vệ lợi ích của mình.
Sự nghiệp phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ tất yếu cũng đòi hỏi
phải được thể chế hoá bằng pháp luật và vì mục tiêu cho con người. Văn hoá giáo dục,
khoa học công nghệ phải tạo ra môi trường xã hội lành mạnh, tự do để con người có điều
kiện phát triển. Trong môi trường ấy, vừa có điều kiện cho việc phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc, vừa có điều kiện để mọi người học tập, vừa thuận tiện cho mọi người được hưởng
quyền thông tin đồng thời cũng hội tụ được những khả năng để đấu tranh không bị
"đồng hoá" bởi những yếu tố độc hại lai căng từ bên ngoài.
Ngoài việc điều chỉnh hành vi con người, pháp luật còn là phương tiện đăng tải thế
giới quan khoa học, các tư tưởng tiến bộ, có tác dụng giáo dục các thành viên trong xã hội
có ý thức pháp luật, văn hoá pháp lý để họ biết tôn trọng và bảo vệ quyền của các cá nhân
con người trong đời sống cộng đồng.
Ngày nay, pháp luật không phải chỉ đóng vai trò tích cực trong bình diện của mỗi
một quốc gia mà nó còn là phương tiện quan trọng trong hội nhập quốc tế. Vấn đề quyền
con người không thể chỉ là của một người, một cộng đồng, một quốc gia mà còn là của
toàn thể nhân loại. Do đó, pháp luật là phương tiện để các quốc gia tham gia hội nhập quốc
tế và thực hiện các cam kết quốc tế, bảo đảm cho quyền con người được tôn trọng thực
hiện ở mỗi quốc gia đồng thời phù hợp với luật pháp quốc tế.
Vì mục tiêu chung là tạo điều kiện, môi tường thuận lợi cho con người phát triển
toàn diện mà loài người hiện nay đang phải đối đầu với những thách thức vô cung to lớn:
đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, giải quyết ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, xung
đột sắc tộc, tôn giáo, chống đói nghèo mà đòi hỏi phải có sự nỗ lực đấu tranh chung

tiến hành tố tụng. " Sự xâm hại đó có thể do trình độ non kém trong tổ chức quản lý, do
năng lực làm việc hoặc do thiếu tinh thần trách nhiệm và cũng có thể do một bộ phận công
chức thoái hoá biến chất, vô đạo đức" [48,49]. Đồng thời một số cán bộ có thẩm quyền
chưa nắm vững pháp luật và tính thiếu chặt chẽ, cụ thể của pháp luật cũng là những nguyên
nhân dẫn đến việc xâm hại quyền con người.
Trong thực tiễn cuộc sống, với cách thức tổ chức thật uy nghiêm một phiên toà, vị
thế của bị cáo thường là yếu hơn so với các cơ quan tiến hành tố tụng. "Có vụ ngay tại
công đường mà Thẩm phán, công tố cũng công khai mớm cung, đe doạ nếu ngoan cố sẽ
tăng hình phạt để ép buộc bị cáo nhận tội không đúng sự thật" [61,60]. Do chỗ vị thế của
họ như vậy nên cũng có vụ người tiến hành tố tụng hỏi to tiếng làm bị cáo sợ nên cứ gật
đầu hoặc dạ. Nghiêm trọng hơn là có trường hợp, việc tổ chức phiên toà chưa dân chủ nên
đã kết tội oan bị cáo, như vụ Bùi Minh Hải bị Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt tù
chung thân về tội giết người và hiếp dâm nhưng chính tên Tèo mới là thủ phạm gây ra vụ
án này. Tại cơ quan điều tra Bùi Minh Hải khai nhận tội (???) nhưng tại phiên toà bị cáo
không nhận tội, song Hội đồng xét xử vẫn buộc tội bị cáo.
Hơn ai hết, bị cáo là người có nguy cơ cao bị tước một hoặc một số quyền. Đành
rằng chỉ có người nào phạm tội thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự, song việc tước bỏ
hoặc hạn chế một số quyền công dân của bị cáo như thế nào cho tương xứng, phù hợp,
đúng pháp luật là vấn đề vẫn được dặt ra bức xúc.
Cũng chính vì quyền con người của bị cáo dễ có nguy cơ bị xâm hại cho nên nó cần
phải có một loạt các quy định bảo đảm nhằm tránh nguy cơ bị tước bỏ hoặc hạn chế trái
pháp luật.
Khác với các quan hệ pháp luật khác (hành chính, dân sự, kinh tế), trong quan hệ
pháp luật hình sự (cả hình sự và tố tụng hình sự), hàng loạt các quy định riêng được đặt ra
nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công dân của các bên tham gia tố tụng nói chung
và của bị cáo nói riêng. Đó là các quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ của công dân,
nghĩa vụ của Nhà nước, của các cơ quan, người tiến hành tố tụng, quy định về tội phạm,

Như vậy, quyền con người của bị cáo là vấn đề rất nhạy cảm, dễ có nguy cơ xâm
hại, cho nên pháp luật bằng những quy định của mình tạo ra các điều kiện, trình tự khác
nhau, một mặt buộc các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền tuân theo, mặt khác tạo cơ sở
vững chắc cho bị cáo bảo vệ quyền, lợi ích của mình.
Chương 2

Quy định của pháp luật đảm bảo quyền con người
trong xét xử hình sự ở nước ta hiện nay

Để bảo đảm quyền con người của bị cáo, pháp luật đưa ra một loạt các quy định
buộc các bên tiến hành và tham gia tố tụng phải tuân thủ. Pháp luật bảo đảm quyền con
người trong xét xử hình sự là tổng thể các qui phạm pháp luật qui định về tội phạm, hình
phạt và xét xử hình sự cùng các quy định khác nhằm bảo đảm cho các quyền và lợi ích hợp
pháp của bị cáo và các bên có liên quan không bị xâm hại trái pháp luật.
Như vậy, việc bảo đảm quyền con người trong xét xử hình sự phải được thể hiện trên tất
cả các phương diện vừa nêu. Nó không dừng lại ở việc qui định tội phạm, hình phạt mà còn qui
định việc xét xử các vụ án hình sự. Có nghĩa là nó phải được bảo đảm ở trong cả lĩnh vực lập
pháp và áp dụng pháp luật, ở cả trong luật nội dung và luật hình thức. ở đó, quyền, nghĩa vụ của
các bên tiến hành và tham gia tố tụng được khẳng định, sự thật của vụ án và trách nhiệm hình sự
phải được xác định một cách khách quan, chính xác nhất. ở đó, quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm
hại phải được khôi phục lại, người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với tính
chất, mức độ nguy hiểm do họ gây ra.
2.1. Quy định về tội phạm và hình phạt với việc bảo đảm quyền con người đối với
người phạm tội.
2.1.1. Quy định trách nhiệm hình sự
Với phương châm " biết để không thực hiện" và "phòng tội hơn trị tội", cho nên
pháp luật hình sự , một mặt liệt kê cụ thể, rõ ràng những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị

Đây là một bảo đảm quan trọng cho trách nhiệm hình sự không thể đặt ra tràn lan, vô cớ.
Tuy vậy, cấu thành tội phạm mới chỉ là cơ sở cần và đủ cho việc thừa nhận con
người có lỗi và phải chịu trách nhiệm đối với hành vi, còn chưa đủ đối với việc lựa chọn
biện pháp trách nhiệm đối với người đó. Để cho việc cân nhắc, quyết định biện pháp trách
nhiệm đối với người phạm tội - bị cáo, Toà án không thể không xem xét nhân thân của họ.
Nhưng ở đây, để bảo đảm công bằng của pháp luật đối với tất cả mọi người, cũng có nghĩa
là bảo vệ mọi người nói chung thì pháp luật chỉ thừa nhận cơ sở trách nhiệm hình sự là
hành vi phạm tội.
Khác với các hệ thống pháp luật khác, pháp luật hình sự nước ta không chấp nhận
nguyên tắc "tương tự", "án lệ" có thể trừng phạt con người một cách tràn lan, mà khẳng
định, mô tả tất cả mọi tội phạm vào một đạo luật duy nhất: Bộ luật hình sự. Do đó mà
quyền con người, quyền công dân được bảo đảm vững chắc hơn.
Song Bộ luật hình sự mới dừng lại ở việc quy định "Cơ sở của trách nhiệm hình sự"
(Điều 2 BLHS) mà chưa đưa ra được định nghĩa thế nào là trách nhiệm hình sự. Nếu đưa
ra định nghĩa về chế định này bên cạnh các chế định "tội phạm" và "hình phạt" đã được
định nghĩa thì sức thuyết phục của Bộ luật hình sự sẽ cao hơn.
2.1.2. Quy định phân loại tội phạm
Việc đặt ra các quy phạm pháp luật hình sự không phải là để trừng phạt mà các quy
phạm này "có khả năng tác động lên ý thức và ý chí của cá nhân, một mặt chúng kích thích
các hoạt động hợp pháp, khuyến khích các hành vi tích cực pháp luật; mặt khác lại có tác
động kìm chế, đe doạ các động cơ dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân"
[21,204]. Do vậy, việc quy định tất cả mọi tội phạm trong một Bộ luật hình sự là quan
trọng, nhưng quan trọng hơn đối với việc quy định tội phạm là xác định rõ ràng giới hạn
giữa hành vi bị coi là tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác. Bởi vì, nếu không
xác định cụ thể giới hạn đó thì có hành vi tuy chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm
hình sự lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc ngược lại, có trường hợp phạm tội lại coi
là vi phạm pháp luật khác. Điều đó vi phạm nguyên tắc công bằng - là nguyên tắc quan

điều cấm đó phải bị xử lý bằng chế tài hình sự (hình sự hoá) hoặc ngược lại, loại bỏ ra khỏi
Bộ luật hình sự hành vi nào nguy hiểm cho xã hội trước đây bị cấm (phi tội phạm hoá) mà
việc thực hiện hành vi đó trong giai đoạn hiện nay không còn nguy hiểm nữa nên không
cần thiết phải xử lý bằng chế tài hình sự nữa (phi hình sự hoá). Việc xác định giới hạn
chính xác hành vi phạm tội với hành vi không phạm tội còn có ý nghĩa đặc biệt trong việc
bảo đảm quyền con người, ở chỗ "nó quyết định hàng ngàn số phận con người và xác định
bộ mặt đạo đức của xã hội" [45,516]Chính vì vây, Mác viết "nhà làm luật có đạo đức trước
hết phải cho rằng đối với mình việc làm nguy hiểm, bệnh hoạn nhất và nghiêm trọng nhất
là khi đưa vào lĩnh vực các tội phạm một hành vi mà không bị coi là tội phạm" [43,132]
Bộ luật hình sự năm 1985 của nước ta được thi hành trong 15 năm đã đóng vai trò
quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân, song cũng bộc lộ những bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu trong giai đoạn hiện
nay. Trước tình hình đó ngày 21/12/1999 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua Bộ luật hình sự (1999), thay thế Bộ luật hình sự (1985) được Quốc hội
thông qua ngày 27/6/1985. Sự kiện này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong công tác
lập pháp hình sự nước ta đồng thời cũng là bước tiến trong việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân.
Trước hết nó khắc phục được một số yếu điểm của Bộ luật hình sự trước đó như:
"chưa có điều kiện thực tế để cá thể hoá hết hành vi phạm tội, cá thể hoá trách nhiệm hình
sự và hình phạt vốn là một nguyên tắc quan trọng trong kỹ thuật lập pháp hình sự chưa
có điều kiện để thể hiện đầy đủ nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa của luật hình sự"
[40,21].
Theo Nghị quyết số 32/1999/QH10 của Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thì, việc áp dụng, thi hành Bộ luật hình sự sẽ tạo những điều kiện cơ sở thuận
lợi hơn cho việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân, chẳng hạn như:
a. Các điều luật xoá bỏ một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình
phạt nhẹ hơn và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với

phạm thành 4 loại như sau:
- Tội phạm ít nghiêm trọng, là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3 năm tù.
- Tội phạm nghiêm trọng, là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 7 năm tù.
- Tội phạm rất nghiêm trọng, là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tù.
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc
tử hình.
Việc phân loại tội phạm trong Bộ luật hình sự 1999 có ý nghĩa to lớn trong việc
hoàn thiện các chế định quan trọng trong luật hình sự Việt Nam, chẳng hạn, quy định về
nguyên tắc xử lý (Điều 3), tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12), chuẩn bị phạm tội
(Điều 17), thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 23), tái phạm, tái phạm nguy hiểm
(Điều 19 BLHS)
Cách phân loại tội phạm thành 4 loại là tạo cơ sở để cụ thể hoá trách nhiệm hình sự
và để xây dựng các cấu thành tội phạm cụ thể thành nhiều khung trên cơ sở căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, bảo đảm tốt hơn cho việc cá
thể hoá trách nhiệm hình sự và hình phạt. Cũng chính từ việc phân loại tội phạm sẽ tạo ra
cơ sở để xây dựng nhiều chế định của Bộ luật tố tụng hình sự, chẳng hạn như thủ tục rút
gọn, mở rộng thẩm quyền cho Toà án cấp huyện
Việc phân loại tội phạm phản ánh được nội dung của tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của mọi tội phạm, đồng thời nó được "đo lường" bởi các loại và mức hình
phạt tương ứng. Chính vì vậy "việc đánh giá mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm với tính cách là cơ sở thống nhất của việc phân loại tội phạm và được cân nhắc trong
khi xây dựng các chế định của phần chung và phần các tội phạm cụ thể của Bộ luật hình sự
là thẩm quyền của nhà làm luật khi xây dựng và ban hành luật hình sự, chứ không phải là

chỉ là những khái niệm trên giấy mà thôi.
Chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự, tức là người
khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi và có khả năng điều khiển được hành vi đó theo ý định của
mình nhằm đạt được mục đích đã xác định. Bởi vì, trong trường hợp đó, con người mới có
khả năng nhận thức được đòi hỏi của pháp luật, của xã hội, nhận biết được đúng sai, nhận
thức được việc làm của mình và như vậy cũng mới có khả năng tự chịu trách nhiệm về
hành vi của mình. Còn những người không có năng lực trách nhiệm hình sự thì cho dù
người đó có thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng được coi là người không có lỗi
trong việc thực hiện hành vi đó và do đó, không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Người có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình phải là người
đạt đến độ tuổi nhất định (được quy định tại Điều 12 BLHS) và không thuộc trường hợp
quy định tại Điều 13 (tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự) BLHS .
Các dấu hiệu như: năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự là
bắt buộc chung cho mọi chủ thể của tội phạm.
Năng lực trách nhiệm hình sự của con người, không phải có từ lúc sinh ra hay còn
nhỏ mà nó chỉ có được khi đạt đến độ tuổi nhất định và nó còn sẽ được tiếp tục phát triển

Trích đoạn Quyền được nói lời sau cùng Quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm Bảo đảm thực hiện chính sách hình sự của Đảng, Nhà nước ta. Bảo đảm cho Toà án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nội dung hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người trong xét xử hình sự.
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status