báo cáo thực tập phương pháp đánh giá chất lượng mạng cáp thông tin sợi đồng cung cấp dịch vụ dsl - Pdf 15

Báo cáo thực tập cuối khóa Học viện công nghệ bưu chính viễn thông
Luận văn
Phương pháp đánh giá chất lượng
mạng cáp thông tin sợi đồng cung cấp
dịch vụ DSL
SV: Lê Tuấn Anh – C09VT1 – 091C650003

-1-
Báo cáo thực tập cuối khóa Học viện công nghệ bưu chính viễn thông
MỤC LỤC
Phần 1: Khái quát về DSL tr.5
1. Sự ra đời của kỹ thuật DSL tr.5
2. Vòng thuê bao DSL tr.8
3. Kỹ thuật DSL tr.10
4. Các thành phần của hệ thống DSL tr.14
5. Các phiên bản DSL tr.20
Phần 2: Các phép đo đánh giá chất lượng tr.30
1. Trở kháng đặc tính tr.32
2. Phối hợp trở kháng tr.32

3. Suy hao phản hồi tr.33
4. Suy hao chèn tr.33
5. Cân bằng dọc tr.34
6. Xuyên kênh tr.34
7. Nhiễu tr.34
8. Lỗi đường dây tr.38
9. Đo thử ADSL tr.43
10. Tầm quan trọng của đánh giá mạng cáp đồng tr.51
11. Phương pháp sử dụng máy đo tr.51
12. Các chiến lược đánh giá tr.53
Kết luận tr.54

Không những đáp ứng được yêu cầu truyền số liệu tốc độ nhanh hàng
chục Mbps và đưa thông tin qua mạng truyền số liệu mà công nghệ
này còn không đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu lớn. Sở dĩ có những đặc
tính hấp dẫn như vậy thứ nhất là do loại bỏ được giới hạn băng tần
thoại, sử dụng toàn bộ băng tần hàng chục MHz của đôi dây đồng và
áp dụng các kỹ thuật tiên tiến tăng số bit/baud và thích ứng tốt với
môi trường truyền dẫn của đôi dây đồng. Thứ hai là do chỉ hoạt động
trên đôi dây đồng của mạch vòng thuê bao nên khi triển khai sẽ tận
dụng được cơ sở hạ tầng sẵn có của mạng truy nhập đã được xây dựng
rộng khắp trên thế giới từ trước tới nay. Chính vì vậy mà công nghệ
DSL đã được lựa chọn như một công nghệ dẫn đầu cho việc xây dựng
mạng truy nhập trên toàn thế giới. Trong giai đoạn hiện nay, các tổ
chức tiêu chuẩn quốc tế và các nhóm làm việc liên quan như ANSI,
SV: Lê Tuấn Anh – C09VT1 – 091C650003
-4-
Báo cáo thực tập cuối khóa Học viện công nghệ bưu chính viễn thông
ETSI, ITU, UAWG, T1E1.4, ADSL Forum đang nỗ lực đưa ra các
tiêu chuẩn chung cho các công nghệ này. Trên thế giới các nhà khai
thác và quản lý viễn thông cũng đã đưa công nghệ DSL vào mạng của
mình và dự đoán số thuê bao DSL sẽ tăng nhanh từ 18,7 triệu thuê bao
năm 2002 tới trên 200 triệu thuê bao vào năm 2005, và tại thời điểm
hiện nay là khoảng gần 700 triệu thuê bao DSL.
Sau một thời gian nghiên cứu, được sự hướng dẫn tận tình của thầy
giáo Ths.Vũ Hồng Sơn. Em đã nghiên cứu tổng quan về “Phương
pháp đo đánh giá chất lượng mạng cáp thông tin sợi đồng cung cấp
dịch vụ DSL”. Tuy nhiên vì thời gian và kiến thức còn nhiều hạn chế
nên bản báo cáo này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, em rất
mong nhận được sự góp ý giúp đỡ của các thầy cô giáo trong Khoa
Viễn thông và các bạn để bản báo cáo thực tập của em được hoàn thiện
tốt hơn.

Hình 1.1.2. Mô hình HDSL2 thay thế T1
Cùng với 2B1Q hãng Paradyne bắt đầu phát triển một hệ thống thu phát tương
tự HDSL sử dụng một kiểu mã hóa gọi là kỹ thuật điều chế CAP (Carrierless
Amplitude and Phase). Giống như mã 2B1Q, CAP là một kỹ thuật mã hóa tiên tiến
cho phép truyền nhiều bit thông tin trên một chu kỳ tín hiệu hay baud. Tuy nhiên
CAP được thiết kế để có thể truyền từ 2 đến 9 bit trên một chu kỳ tín hiệu. Điều
này cho phép các máy thu phát dựa trên ký thuật CAP phát một lượng thông tin sử
dụng phổ tần nhỏ hơn 2B1Q nghĩa là suy hao tín hiệu nhỏ hơn và vòng thuê bao
dài hơn. Cả hai phương pháp mã hóa 2B1Q và CAP đều được 2 tổ chức tiêu chuẩn
hóa là viện tiêu chuẩn hóa quốc gia Hoa kỳ (ANSI) và Viện tiêu chuẩn hóa viễn
thông châu Âu (ETSI) thực hiện tiêu chuẩn hóa cho HDSL.
SV: Lê Tuấn Anh – C09VT1 – 091C650003
-7-
Báo cáo thực tập cuối khóa Học viện công nghệ bưu chính viễn thông
Có một vài trường hợp các nhà sản xuất phát triển các sản phẩm sử dụng các
ký thuật mã hóa khác với 2B1Q và CAP. Tuy nhiên, những trường hợp này là
riêng lẻ và không được các cơ quan tiêu chuẩn hóa thừa nhận.
Hình 1.1.3. So sánh phổ tần của HDSL và T1 sử dụng AMI
Hình 1.1.4. So sánh giữa tốc độ đường truyền và độ dài vòng thuê bao
Bảng 1. công nghệ xDSL trên đường dây cáp đồng so với modem qua PSTN
SV: Lê Tuấn Anh – C09VT1 – 091C650003
-8-
Báo cáo thực tập cuối khóa Học viện công nghệ bưu chính viễn thông
HDSL hoạt động ở 1544kbps (đường truyền T1 ở Hoa Kỳ) và ở 2048kbps
(đường truyền E1 ở châu Âu). ở cả 2 tốc độ này HDSL đều là đối xứng (tốc độ như
nhau ở cả 2 hướng). HDSL hoạt động ở tốc độ 1544kbps sử dụng đôi dây xoắn đôi
với độ dài tối đa là 5km còn HDSL hoạt động ở 2048kbps sử dụng 3 đôi cho cùng
khoảng cách này. Phiên bản mới nhất của HDSL là HDSL2 chỉ dùng 1 đôi dây.
SDSL là giải pháp cố gắng sử dụng 1 đôi dây cáp xoắn dài dưới 3,3km và có tốc
độ ngang ngửa với HDSL. SDSL cung cấp truyền tải 768kbps và vì chỉ HDSL2

cung cấp dịch vụ cần phải lắp đặt thêm nhiều thiết bị. Ở tại thuê bao các đường dây
thoại và số liệu được kết nối đến một thiết bị truy xuất tích hợp (IAD: Integrated
Access Device). Tại đây tín hiệu thoại được gói hoá (packetize) và tín hiệu thoại
dạng gói cùng với dữ liệu được ghép lại và được truyền dưới dạng tín hiệu số dung
lượng lớn tần số cao đến tổng đài nội hạt (CO: Central Office). Ở tổng đài nội hạt
tín hiệu được chuyển qua hệ thống quản lý đường dây thuê bao và được tiếp nhận
tại DSLAM. Hệ thống quản lý vòng thuê bao có chức năng kiểm tra dịch vụ điện
thoại thuần tuý (POTS: Plain Old Telephone Service) và kiểm tra tín hiệu số dung
lượng lớn để trợ giúp cài đặt dịch vụ, bảo dưỡng và sửa chữa. Bộ DSLAM nhận
biết và ghép tín hiệu từ nhiều đường dây thuê bao khác nhau.
SV: Lê Tuấn Anh – C09VT1 – 091C650003
-10-
Báo cáo thực tập cuối khóa Học viện công nghệ bưu chính viễn thông
Hình 1.2.2. Vòng thuê bao DSL đa dịch vụ
Từ DSLAM, dữ liệu gói được đưa qua một bộ định tuyến (router) để chuyển
đến mạng PSTN hay Internet. Với mạng đường dây thuê bao số mới này đặc tính
tín hiệu truyền giữa thuê bao và tổng đài khác với mạng tương tự dải hẹp rất nhiều.
Tín hiệu được truyền ở tần số cao hơn và phổ tần số rộng hơn. Thông tin đa dịch
vụ, thoại đa kênh, dữ liệu tốc độ cao và video được truyền dưới dạng tín hiệu số.
Để quản lý mạng này một cách hiệu quả nhà cung cấp dịch vụ cần phải có nhiều
công cụ mới và nhiều chiến lược quản lý mạng mới.
III. Kỹ thuật DSL
Mạng PSTN mạng thuê bao nội hạt của nó được thiết kế theo tiêu chuẩn giới
hạn truyền dẫn kênh thoại tương tự 3400Hz. Ví dụ: điện thoại, MODEM quay số,
MODEM fax, đều được giới hạn truyền dẫn trên đường dây điện thoại với phổ tần
số từ 0 Hz đến 3400Hz. Tốc độ thông tin cao nhất có thể đạt được trong phổ tần số
3400Hz là 35kbps và thực tế đã đạt được 33,6 kbps.
Vậy làm cách nào công nghệ DSL có thể đạt được tốc độ thông tin hàng triêu
bit mỗi giây trên cùng một môi trường truyền dẫn cáp đồng như vậy. Câu trả lời
thật đơn giản: loại bỏ giới hạn 3400Hz! DSL cũng như T1 và E1 trước đó sử dụng

kính với đơn vị đo là milimetre. Chẳng hạn 0,4 mm tương đương với 26 AWG và
0,5 mm tương đương với 24 AWG là các cỡ dây được sử dụng nhiều nhất trong khi
ở các quốc gia đang phát triển đôi khi cỡ dây được sử dụng ở các vùng dân cư mới
đã tăng lên đến 0,6 mm hay 0,9 mm. Sự không đồng nhất cỡ dây đã tăng thêm
thách thức trong việc xác định thực hiện từng loại hệ thống DSL cho từng loại
vòng thuê bao riêng biệt.
Vào những năm đầu của thập kỷ 80 trong thế kỷ trước, các nhà cung cấp thiết bị
đã đầu tư phát triển hướng đến ISDN tốc độ cơ sở cung cấp 2 kênh B (Binary
channel) 64 kbps và một kênh D (Digital channel) dùng cho báo hiệu và truyền dữ
liệu. Các bit dữ liệu nghiệp vụ thêm vào làm cho tốc độ đường truyền phải lên đến
160 kbps. Điều chủ yếu để đường dây ISDN có thể kéo dài đến 6000 m là sử dụng
các vòng thuê bao cáp đồng không có cuộn phụ tải. Tuy nhiên kỹ thuật mã AMI
đòi hỏi phải truyền tải ở tốc độ nhỏ hơn 160 000 Hz. Vào năm 1988 người ta tăng
SV: Lê Tuấn Anh – C09VT1 – 091C650003
-12-
Báo cáo thực tập cuối khóa Học viện công nghệ bưu chính viễn thông
hiệu quả của mã AMI lên gấp đôi bằng cách sử dụng truyền tải 2 bit thông tin trên
mỗi chu kỳ tín hiệu hình sine hay baud. Mã đường dây này được gọi là mã 2 bit nhị
phân một tín chữ số tứ phân (2B1Q: 2 Binary 1 Quaternary). Mã 2B1Q trên đường
truyền BRI của ISDN sử dụng tầm tần số từ 0 đến xấp xỉ 80kHz và đạt đến tầm
liên lạc 6km.
Năng lượng điện được truyền trên cáp đồng là sóng đã được điều chế và nó phát
xạ năng lượng qua các vòng dây đồng lân cận trong cùng một bó cáp. Sự ghép
năng lượng điện từ này gọi là xuyên kênh (crosstalk). Trong mạng điện thoại các
dây dẫn đồng cách điện được bó với nhau thành một chão cáp. Các hệ thống kế cận
trong một chão cáp phát hoặc thu thông tin trong cùng một tầm tần số có thể tạo ra
nhiễu xuyên kênh đáng kể. Đó là do tín hiệu xuyên kênh cảm kháng kết hợp với tín
hiệu truyền trên đường dây. Kết quả là dạng sóng có hình dáng khác xa với dạng
sóng được truyền đi.
Xuyên kênh có thể phân thành 2 loại:

NEXT vì hệ thống không thu tín hiệu cùng tần số với tín hiệu phát của các hệ
thống lân cận. Xuyên kênh còn lại là FEXT nhưng FEXT xuyên kênh rất yếu do
nguồn tạo ra FEXT ở tận đầu bên kia của vòng thuê bao làm suy hao FEXT rất
nhiều. Vì vậy, các hệ thống FDM thường chống nhiễu từ các hệ thống lân cận tốt
hơn so với các hệ thống triệt tiếng dội.
Một hiện tượng khá lý thú cần lưu ý là các hệ thống triệt tiếng dội tạo ra tự
xuyên kênh (self NEXT). Tự xuyên kênh tạo ra nhiễu đáng kể cho các hệ thống
triệt tiếng dội khác trong cùng một chão cáp. Vì vậy việc sử dụng nhiều hệ thống
triệt tiếng dội giống nhau sẽ làm giảm khả năng kéo dài vòng thuê bao của cả
nhóm trong cùng một chão cáp. Ví dụ, một hệ thống HSDL T1 dựa trên CAP hay
2B1Q riêng lẻ có thể đạt được độ dài 4 Km. Tuy nhiên khi thêm vài hệ thống dựa
trên CAP hay 2B1Q thì độ dài vòng thuê bao tối đa chỉ còn 3 Km hay ngắn hơn
nữa. Hiện tượng này hầu như xảy ra ở hầu hết các đường dây thuê bao số sử dụng
phương pháp triệt tiếng dội. Do vậy khi chọn công nghệ DSL các nhà cung cấp
dịch vụ phải kiểm tra việc thực hiện hệ thống với sự hiện diện của NEXT chắc
chắn sẽ tồn tại khi có nhiều dịch vụ được sử dụng.
Cách xử lý kỹ thuật của các hệ thống FDM là các tín hiệu của 2 chiều upstream
và downstream chiếm giữ tầm tần số lớn hơn nhiều so với các hệ thống triệt tiếng
dội chồng chập tín hiệu thu và phát làm giảm chiều dài tối đa của vòng thuê bao.
Trong nhiều trường hợp suy hao là yếu tố chính khi thực hiện còn trong các
trường hợp khác xuyên kênh lại là nhân tố ảnh hưởng chính. Vì vậy việc vận dụng
tối ưu thay đổi tuỳ theo môi trường làm việc. Trong môi trường có các hệ thống
SV: Lê Tuấn Anh – C09VT1 – 091C650003
-14-
Báo cáo thực tập cuối khóa Học viện công nghệ bưu chính viễn thông
giới hạn xuyên kênh đầu gần thì hệ thống triệt tiếng dội tỏ ra tốt hơn còn trong môi
trường mà xuyên kênh đầu gần lấn át thì hệ thống FDM thực hiện tốt hơn.
Hình 3.2. Đặc tính phổ tần cùa hệ thống tín hiệu triệt tiếng dội EC
so với hệ thống tín hiệu ghép phân tàn FDM
Một cách để quản lý chắc chắn xuyên kênh là đầu tiên phải khảo sát các dịch vụ

thoại hiện tại không thích hợp cho việc truyền dữ liệu tốc độ cao. Hình 1.4.1 minh
hoạ một cấu hình mạng truyền thống cung cấp dịch vụ truyền số liệu tốc độ thấp
(chẳng hạn, 28,8 kbps) và dữ liệu tốc độ cao. Ở phía khách hàng được bố trí một
MODEM tương tự cung cấp kết nối tốc độ thấp với mạng truy nhập nội hạt hoặc
một DSU (Digital Service Unit) hay NTU (Network Termination Unit) dùng cho
kết nối tốc độ cao như các dịch vụ 56/64 kbps hay T1/E1. Khi chuyển từ thế giới
tương tự tốc độ thấp sang thế giới số tốc độ cao người ta đã thực hiện một biến đổi
quan trọng. Trong khi tín hiệu MODEM tương tự được truyền tải qua hệ thống
chuyển mạch điện thoại (cung cấp khả năng quay số toàn thế giới) thì tất cả dữ liệu
tốc độ cao đều đi vòng qua hệ thống chuyển mạch này. Đó là do các hệ thống
chuyển mạch điện thoại không được thiết kế để truyền tải dữ liệu tốc độ cao.
Hình 1.4.1. Truyền dữ liệu vào mạng điện thoại truyền thống
Ở hình vẽ 1.4.1 người ta có thể bố trí các mạch dữ liệu số tốc độ cao qua vòng
thuê bao, xuyên qua DACS (Digital Access and Cross-Connect System) và hệ
thống truyền dẫn, vòng qua khỏi hệ thống chuyển mạch điện thoại. Về tổng quát có
thể nói các dịch vụ dữ liệu số tốc độ thấp dựa trên kỹ thuật MODEM truyền thống
SV: Lê Tuấn Anh – C09VT1 – 091C650003
-16-
Báo cáo thực tập cuối khóa Học viện công nghệ bưu chính viễn thông
tích hợp rất tốt với mạng điện thoại đơn thuần vì các hệ thống chuyển mạch điện
thoại đã được tính đến rong các giải pháp truyền số liệu này. Trong khi đó, các
dịch vụ tốc độ cao phải được cấu hình trong một mạng chuyên biệt hoàn toàn tránh
các hệ thống chuyển mạch điện thoại. Khái niệm này sẽ được mở rộng khi ta khảo
sát các cấu hình riêng của DSL. Khi sử dụng công nghệ DSL trên vòng thuê bao sẽ
cho phép thực hiện dịch vụ truy nhập tốc độ cao không cần bố trí các trạm tiếp vận.
Khi sử dụng các dịch vụ dựa trên DSL dữ liệu nhận được ở tổng đài nội hạt đi
vòng qua hệ thống chuyển mạch điện thoại và được tập trung, chuyển sang mạng
liên đài. Như chúng ta sẽ thấy ở phần sau, một bộ DSLAM được sử dụng để tập
hợp các kênh số liệu trước khi chuyển đi. Hơn nữa, ta sẽ thấy cách DSLAM sử
dụng công nghệ ghép gói và tế bào vào TDM làm cho hiệu quả tốc độ tăng cao.

việc tập trung các đường dây DSL vào các ngõ ra 10Base-T, 100Base-T, T1/E1
T3/E3 hay ATM.
Ngày nay một vài DSLAM đã được nhiệt đới hoá để có thể lắp đặt ở những
vùng không có điều hoà nhiệt độ. Điều này cho phép lắp đặt các DSLAM tại các
remote terminal hay các tủ đặt bên lề đường thay vì phải lắp đặt tại tổng đài nội
hạt. Khả năng di chuyển DSLAM tới những vị trí xa tổng đài (cùng với công nghệ
vòng thuê bao mở rộng) làm tăng nhanh ảnh hưởng của các nhà cung cấp dịch vụ,
cho phép cung cấp dịch vụ đến những khách hàng mà bình thường DSL không thể
vươn tới được. Ngoài chức năng tập trung thì tùy thuộc vào từng dịch vụ được
cung cấp một DSLAM có thể có thêm các chức năng khác. Trong một vài trường
hợp một DSLAM có thể có khả năng được yêu cầu mở các gói số liệu để thực hiện
một tác vụ nào đó. Ví dụ, để hỗ trợ việc gán địa chỉ IP động bằng DHCP (Dynamic
Host Control Protocol) mỗi gói phải được xem xét để chuyển đến đích đúng của
nó.
Thiết bị kết thúc (endpoint) DSL MODEM/router là thiết bị đầu cuối phía
người sử dụng dùng để kết nối người sử dụng dịch vụ với vòng thuê bao DSL. Kết
nối kết thúc DSL thường là 10Base-T, V.35, ATM hay T1/E1. Các sản phẩm đời
mới của người sử dụng cũng hỗ trợ các phương pháp giao tiếp internal khác như
USB, IEEE 1394 hay PCI. Thêm vào đó thiết bị kết thúc DSL tại CPE (Customer
SV: Lê Tuấn Anh – C09VT1 – 091C650003
-18-
Báo cáo thực tập cuối khóa Học viện công nghệ bưu chính viễn thông
Premises Equipment: thiết bị tài sản khách hàng) đang được phát triển với các
cổng được thiết kế hỗ trợ cho từng ứng dụng riêng biệt như cổng RJ11 dành cho
dịch vụ thoại, cổng video dành cho dịch vụ video dựa trên DSL và các giao tiếp
mạng mới như Home PNA (Home Phoneline Networking Alliance) hay các giao
tiếp mạng như Ethernet vô tuyến 802.11. Các thiết bị kết thúc DSL của tài sản
khách hàng có một số cấu hình khác nhau tùy thuộc vào dịch vụ cụ thể được cung
cấp. Ngoài việc cung cấp chức năng cơ bản của một MODEM DSL nhiều thiết bị
kết thúc còn có thêm một số chức năng như định tuyến, ghép kênh TDM hay ghép

Báo cáo thực tập cuối khóa Học viện công nghệ bưu chính viễn thông
- Bộ tách dịch vụ điện thoại đơn thuần POTS thụ động không cần phải
được cấp thêm nguồn điện bên ngoài. Bộ tách dịch vụ điện thoại đơn
thuần POTS thụ động hỗ trợ các dịch vụ thường trực như số điện thoại
khẩn cấp 911 (ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ) ngay cả khi nguồn điện nhà
đèn bị mất ở DSLAM hay MODEM DSL.
- Bộ tách dịch vụ điện thoại đơn thuần POTS tích cực phải được cấp nguồn
từ bên ngoài cho điện thoại và tín hiệu DSL để hoạt động trên đôi dây
cáp đồng. Khi mất điện thì muốn duy trì các dịch vụ thường trực như số
điện thoại khẩn cấp 911 (ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ) ngay cả khi nguồn
điện nhà đèn bị mất ở DSLAM hay MODEM DSL phải có thêm nguồn
điện dự phòng.
Ngày nay, các loại DSL như G.dmt ADSL, G.lite, ReachDSL và RADSL có thể
được lắp đặt mà không cần bộ tách dịch vụ điện thoại POTS riêng ở thiết bị tài sản
khách hàng (CPE: Customer Premises Equipment). Thay vào đó là các thiết bị thụ
động gọi là các bộ microfilter được người sử dụng gắn giữa mỗi thiết bị điện thoại
đơn thuần (như máy điện thoại, máy điện thoại không dây, máy trả lời điện thoại,
máy fax nhóm 3 hay MODEM tương tự) với đường dây. Mạch microfilter thực
chất chỉ là một bộ lọc thông thấp cho phép tín hiệu dải tần âm thoại đi qua và loại
bỏ tín hiệu trong dải tần DSL để loại trừ xuyên kênh. Ưu điểm của phương pháp
này là trong khi các bộ tách dịch vụ POTS truyền thống được người lắp đặt của các
công ty cung cấp dịch vụ lắp ở thiết bị giao tiếp mạng (NID: Network Interface
Device) thì các bộ microfilter được người sử dụng tự gắn dễ dàng khỏi phải gọi
cho công ty cung cấp đến lắp đặt. Với các loại dịch vụ dựa trên DSL thực hiện qua
các kết nối điện thoại đơn thuần POTS thì đây là chọn lựa quan trọng nhất khi lắp
đặt.
Trong khi các sản phẩm dựa trên RADSL cung cấp khả năng tách tần số các
đường thoại đơn thuần POTS khỏi dịch vụ số liệu phổ tần dải thì một vài kỹ thuật
không sử dụng bộ tách dịch vụ mới hơn như ReachDSL và G.lite đều cung cấp giải
pháp trộn dịch vụ số với POTS dải nền mà vẫn bảo đảm cho tất cả các thành phần

an toàn để cho phép nhà cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ ở dân dụng
hay thương mại đều có thể quản lý được. Như vậy kích thước của một mạng DSL
có thể biến đổi từ nhỏ cho đến rất lớn nên hệ thống quản lý cũng phải được điều
chỉnh quy mô để thích ứng với những khác biệt này mà không mất mát chức năng
quản lý. Các hệ thống quản lý phải mềm dẻo và đủ sức mạnh để hỗ trợ đa dịch vụ.
Các dịch vụ mới được DSL đưa ra như các dịch vụ true end-to-end frame relay,
VoDSL và VPN đòi hỏi sự tuân thủ chặt chẽ các tham số quản lý chất lượng, đo
đạc và giám sát những tham số này để bảo đảm theo đúng thoả thuận mức dịch vụ
(SLA: Service Level Agreement). SLA là những thoả thuận giữa nhà cung cấp dịch
vụ và thuê bao dịch vụ và thường bao gồm một vài loại bồi thường tài chính cho
bất cứ một sự không tuân thủ nào. Hệ thống quản lý mạng sử dụng mô hình tiến xa
hơn nhiều so với mô hình cơ bản, cho phép các nhà cung cấp dịch vụ và người sử
dụng chọn, cung cấp dịch vụ, giám sát thực hiện và báo cáo mức độ thực hiện so
với SLA.
SV: Lê Tuấn Anh – C09VT1 – 091C650003
-21-
Báo cáo thực tập cuối khóa Học viện công nghệ bưu chính viễn thông
V. Các phiên bản DSL
Các hệ thống thu phát hiện nay có thể đạt được tốc độ của T1 hay E1 trên chỉ
một đôi dây thuê bao ở cự ly của một hệ thống HDSL thông thường. Ứng dụng
HDSL T1 hay E1 trên một đôi dây được gọi là SDSL (Symmetric Digital
Subscriber Line). Thực ra, thuật ngữ SDSL được dùng rộng rãi hơn và nó dùng để
nói đến các dịch vụ đối xứng với tốc độ khác nhau trên một đôi dây. Về nguyên lý,
sự chuyển từ 4 dây sang 2 dây chỉ là độ dài vòng. Bằng cách chia thông tin trên 2
đôi dây, các hệ thống HDSL có thể hoạt động trên tần số thấp hơn SDSL, kết quả
là độ dài vòng thuê bao lớn hơn. Tuy nhiên trên thị trường độ dài vòng thuê bao
SDSL T1 đạt được xấp xỉ 3,3 Km trong khi HDSL cũng chỉ khoảng 3,6 Km với
cùng cỡ dây 24 AWG là sự khác biệt không đáng kể. Trong khi đó các đường dây
SDSL cung cấp dịch vụ T1/E1 chỉ với một đôi dây là một khác biệt đáng chú ý.
Mặc dù HDSL và SDSL đã được đưa vào sử dụng hàng loạt người ta vẫn không

ngược lại: truyền số liệu từ thuê bao đến tổng đài. Các thiết bị được thiết kế theo
khái niệm này cung cấp việc truyền số liệu tốc độ cao hơn theo chiều từ tổng đài
đến thuê bao gọi là thiết bị đường dây thuê bao số bất đối xứng (ADSL:
Asymmetric DigitalSubscriber Line).
Đảo ngược hướng của hệ thống ASDL đê cung cấp kênh thông tin tốc độ cao
hơn cho mạng và kênh thông tin tốc độ thấp hơn cho người sử dụng sẽ làm giảm
cự ly tối đa của vòng thuê bao. Thêm vào đó, nếu cấu hình này được cung cấp
SV: Lê Tuấn Anh – C09VT1 – 091C650003
-23-
Báo cáo thực tập cuối khóa Học viện công nghệ bưu chính viễn thông
trong cùng một bó cáp với ADSL theo chiều ngược lại sẽ tạo ra tự xuyên kênh làm
cho một hay cả hai không hoạt động được. Nếu cung cấp dịch vụ như vậy thì phải
cung cấp trong bó cáp riêng.
Gần như đồng thời với lúc tính bất đối xứng của các vòng thuê bao được ghi
nhận thì các công ty điện thoại đang rất quan tâm đến việc cung cấp các dịch vụ
video giải trí. Điều quan tâm này được thúc đẩy bởi mong muốn tăng doanh thu
qua các dịch vụ mới.
Hình 1.5.2. Đặc tính phổ tần tín hiệu CAP và DMT
Vào cuối năm 1992, 3 loại mã đường dây có khả năng nhất trong việc cung cấp
cho các dịch vụ video tốc độ cao xuất hiện là:
- QAM: Quadrature Amplitude and Phase Modulation, một loại mã đường
dây dùng trong kỹ thuật MODEM từ 20 năm qua.
- CAP lúc đầu được đưa ra cho HDSL và thực ra là một biến thể của
QAM.
- DMT: Discrete MultiTone là kỹ thuật đường dây được AT&T Bell Labs
đăng ký bản quyền (nhưng không sử dụng) từ hơn 20 năm nay.
Không giống như 2B1Q sử dụng kỹ thuật tín hiệu dải nền (baseband) phát tín
hiệu gồm cả tần số 0 Hz (tín hiệu một chiều) các loại mã đường dây sử dụng dải
thông dải (passband) và có thể được thiết kế để hoạt động trên bất kỳ tầm tần số
nào. ADSL ngay từ đầu đã được thiết kế cho dịch vụ dân dụng nên cần tồn tại độc

ADSL ngày nay. Tuy nhiên, một vài nhà cung cấp vẫn còn sử dụng hệ thống dựa
vào kỹ thuật CAP trên mạng của mình.
SV: Lê Tuấn Anh – C09VT1 – 091C650003
-25-


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status