LUẬN VĂN: Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh doc - Pdf 15



LUẬN VĂN:
Nguồn nhân lực trong quỏ trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở
tỉnh Bắc Ninh Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bắc Ninh là một tỉnh nhỏ thuộc đồng bằng Bắc bộ, được tách ra từ tỉnh Hà Bắc cũ
với diện tích tự nhiên: 803,9 km
2
, dân số: 998.300 người.
Sau những năm tái lập tỉnh, Bắc Ninh cùng với cả nước bước vào quá trình đẩy

khác nhau trong nước.
+ Vấn đề sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn ở nước ta nói chung.
Các công trình tiêu biểu mà tác giả được biết:
- Nguyễn Văn Bích: "Đổi mới và phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa" Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1996.
- Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng (chủ biên): "Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam", Nxb Thống kê, Hà Nội, 1998.
- GS.TS Nguyễn Đình Phan, GS.TS Trần Minh Đạo và TS Nguyễn Văn Phúc
(đồng chủ biên): "Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng" Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Vấn đề con người - nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung
và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nói riêng đã có nhiều tác giả
nghiên cứu ở các góc độ khác nhau. Một số công trình, tác phẩm nghiên cứu mà tác giả
được biết đó là:
- Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án Tiến sĩ của Trần
Kim Hải. - Vai trò Nhà nước trong tạo tiền đề nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Quý Tình.
- Đề án chiến lược về lao động và phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp và nông
thôn thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1999 - 2020) của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, 1999.
- Chương trình khoa học cấp nhà nước KX 04-04(1995): "Luận cứ khoa học cho
giải quyết việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần".
- PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc "Vấn đề giải quyết việc làm và dạy nghề cho nông
dân", Tạp chí Con số và Sự kiện, 8/1999.
- Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh,
Luận văn thạc sĩ kinh tế của Trần Kim Long, 2005.

tượng này được tiến hành dưới góc độ:
+ Coi nguồn nhân lực là một trong số các nguồn lực sản xuất. Sử dụng nguồn nhân
lực được xem xét và phân tích trong mối quan hệ ràng buộc với các yếu tố khác trong quá
trình sản xuất, đó là: Đất đai, vốn, tài nguyên, thị trường, công nghệ và các nguồn lực khác
trong nông nghiệp, nông thôn.
+ Xem xét mối quan hệ tương tác giữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với
vấn đề sử dụng lao động và tạo việc làm cho người lao động.
+ Mốc thời gian để lấy số liệu, tư liệu minh họa chủ yếu từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí
Minh; đường lối, quan điểm, những tổng kết kinh nghiệm của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước; kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có nội dung
gần gũi với đề tài.
- Về phương pháp nghiên cứu: vận dụng phương pháp chung của kinh tế chính trị như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgíc với lịch sử, kết hợp lý luận với
thực tiễn; đồng thời khảo sát thực tế, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa vấn đề, rút
ra kết luận.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc lãnh đạo, hoạch định chính sách,
chỉ đạo thực tiễn, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh, đồng thời có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ
công tác giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.

với nhau. Đó là: Công nghiệp hóa nông nghiệp; công nghiệp hóa nông thôn; hiện đại hóa
nông nghiệp; hiện đại hóa nông thôn.
Công nghiệp hóa nông nghiệp, theo tác giá Chu Hữu Quý và Nguyễn Kế Tuấn là:
Quá trình chuyển biến từ nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, lạc hậu, phân
tán sang nền nông nghiệp sản xuất lớn với trình độ chuyên canh và thâm canh
cao, tiến hành sản xuất và quản lý sản xuất - kinh doanh với trình độ trang bị
công nghiệp và công nghệ tiên tiến, áp dụng rộng rãi thủy lợi hóa, cơ khí hóa,
hóa học hóa, điện khí hóa, sinh học hóa cao hơn và bước đầu áp dụng cả tin học
hóa, tự động hóa [47, tr. 26].
Cũng theo các tác giả trên thì phạm vi, tính chất của công nghiệp hóa nông thôn
sâu rộng hơn nhiều, thể hiện qua ba điểm:
Thứ nhất, nó là quá trình biến đổi không phải trong từng ngành sản xuất hay từng
lĩnh vực xã hội đơn lẻ, mà là một quá trình biến đổi toàn diện trong một khu vực xã hội
rộng lớn là nông thôn, bao quát mọi hoạt động kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị tại đó.
Thứ hai, nó phải phát triển một nền nông nghiệp dồi dào làm nền tảng, một nền
sản xuất công nghiệp ngày càng tiên tiến, một hệ thống dịch vụ đầy đủ và hữu hiệu.
Thứ ba, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cùng với các ngành
kinh tế phát triển, một hệ thống hạ tầng cơ sở kinh tế và xã hội dần dần được hoàn chỉnh
theo hướng hiện đại hóa, các lĩnh vực hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế được nâng cấp, các
quan hệ xã hội được hoàn thiện, tạo ra một lối sống công nghiệp năng động, cởi mở, văn
minh [47, tr. 26-27].
Nhóm các nhà nghiên cứu khác, về cơ bản tán đồng với quan điểm trên và nhấn
mạnh trong ba mặt biểu hiện (đặc trưng điển hình) của công nghiệp hóa nông thôn nêu
dưới đây đã bao hàm cả yếu tố hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn:
Công nghiệp hóa nông thôn phản ánh sự biến đổi toàn diện trên tất cả
các mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị của một vùng xã hội nông thôn. Nó
khác với công nghiệp hóa nông nghiệp ở chỗ công nghiệp hóa nông nghiệp
phản ánh sự biến đổi chỉ đối với một ngành cụ thể - ngành nông nghiệp (bao

GDP của các vùng nông thôn được công nghiệp hóa phải có tỷ trọng cao của phần đóng
góp từ công nghiệp và dịch vụ, do đó phần đóng góp của nông nghiệp ngày càng giảm đi
về tỷ lệ, nhưng quy mô tuyệt đối ngày càng tăng về cơ cấu và thu nhập của dân cư cũng có
kết quả tương tự.
Hiện đại hóa nông nghiệp bao gồm tất cả những hoạt động có liên quan đến việc ứng
dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản xuất kinh doanh các sản phẩm
nông nghiệp nhằm góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của chúng, đồng
thời thỏa mãn tốt hơn các nhu cầu của xã hội, của thị trường về các sản phẩm nông nghiệp.
Đặc trưng nổi bật của hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình không ngừng nâng cao trình
độ khoa học - kỹ thuật - công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp. Đây
cũng là quá trình cần được thực hiện một cách liên tục vì luôn có những tiến bộ kỹ thuật
mới xuất hiện và được ứng dụng trong sản xuất.
Hiện đại hóa nông thôn là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật
và công nghệ vào sản xuất và đời sống ở nông thôn, tạo ra một nền sản xuất trình độ ngày
càng cao, cuộc sống ngày càng văn minh và tiến bộ. Hiện đại hóa nông thôn không chỉ bao
gồm công nghiệp hóa, nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ và tổ chức trong các lĩnh vực
khác trong sản xuất vật chất ở nông thôn mà còn bao gồm cả việc không ngừng nâng cao
đời sống văn hóa - tinh thần, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng xã hội: Hệ thống giáo dục
đào tạo, y tế và các dịch vụ phục vụ đời sống nông thôn. Về bản chất, hiện đại hóa là quá
trình phát triển toàn diện có kế thừa ở nông thôn. Hiện đại hóa hoàn toàn không có nghĩa là
xóa bỏ toàn bộ những gì đã tạo dựng trong quá khứ, càng không có nghĩa là phải đưa toàn
bộ công nghệ, thiết bị tiên tiến và hiện đại vào nông thôn ngay một lúc mà là tận dụng, cải
tiến, hoàn thiện, từng bước nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật - công nghệ và tổ chức
quản lý nền sản xuất và đời sống xã hội ở nông thôn lên ngang tầm với trình độ thế giới.
Từ những phân tích trên, ta thấy vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn liên quan đến 4 khía cạnh có nội dung khác nhau, có liên quan chặt chẽ
với nhau, đó là: công nghiệp hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa nông thôn, hiện đại hóa
nông nghiệp và hiện đại hóa nông thôn. Bốn khái niệm trên có quan hệ mật thiết với
nhau: ở công nghiệp hóa nông thôn bao hàm công nghiệp hóa nông nghiệp và hiện đại

nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010 là: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đặc lực và
phục vụ có hiệu quả cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
- Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực
con người, ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học, công nghệ, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường
để sản xuất hàng hóa quy mô lớn với chất lượng và hiệu quả cao, bảo vệ môi
trường, phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai, phát triển nông nghiệp nông
thôn bền vững.
- Dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực bên
ngoài, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc; phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ sản xuất hàng hóa, các loại hình doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn.
- Kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế và xã hội trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nhằm giải quyết việc làm, xóa
đói giảm nghèo, ổn định xã hội và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất
và văn hóa của người dân nông thôn, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa; giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa và thuần phong mỹ
tục.
- Kết hợp chặt chẽ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn với xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh
nhân dân, thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế
xã hội của cả nước, của các ngành, các địa phương. Đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội, ổn định dân cư các vùng xung yếu, vùng biên giới, cửa khẩu, hải đảo phù
hợp với chiến lược quốc phòng và chiến lược an ninh quốc gia [40].

diện tích; giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hóa. Đầu tư nhiều hơn cho
phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục
vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông
nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới; nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn
[39, tr. 92-93].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã xác định
nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông thôn.
- Về nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, Nghị quyết chỉ rõ:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp
chế biến và thị trường, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng
dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa
thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp
nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản
hàng hóa trên thị trường [40, tr. 42].
- Nội dung tổng quát của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn là:
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh
tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm
dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức
lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân
chủ, công bằng văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
của nhân dân ở nông thôn [40, tr. 43].
Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ:
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn,

hóa với kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đồng bộ như: Thủy lợi, giao thông, điện,
nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ. Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao trình độ dân
trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan; đảm bảo an ninh, trật tự an
toàn xã hội.
Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các
vùng sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao
thông, các khu đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo
hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động
làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm
trong và ngoài khu vực nông thôn kể cả ở nước ngoài. Đầu tư mạnh hơn cho các
chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải
đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số [41, tr. 88-90].
Từ những trình bày trên, theo chúng tôi, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn là một quá trình bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:
* Đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, nông thôn, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, phát triển kinh doanh theo quan điểm của kinh tế thị trường, từ đó thúc đẩy
quá trình biến đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh của từng
vùng, phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông
sản nhằm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế nông thôn, cơ cấu lao động, quy mô và cơ cấu
thu nhập.
* Thực hiện phân công mới lao động xã hội trong nông nghiệp, nông thôn trên cơ
sở phát triển các ngành nghề, nghề tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề truyền thống và
dịch vụ theo phương châm "rời đồng, không rời làng" (ly nông, bất ly hương) và "tiểu
công nghiệp hiện đại, thủ công nghiệp tinh xảo", từng bước xác lập cơ cấu kinh tế nông
nghiệp - công nghiệp - dịch vụ trên địa bàn nông thôn, thúc đẩy phát triển nông nghiệp
sinh thái và tạo nên bộ mặt nông thôn mới theo diện mạo của công nghiệp và đô thị.
* Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và khoa học quản lý trong sản

nam) và từ 15 - 55 (đối với nữ). Trên thực tế khi tính toán, thống kê lực lượng lao động,
người ta thường quy định: Lực lượng lao động là những người trong độ tuổi lao động có
việc làm và những người ngoài tuổi lao động vẫn tham gia làm việc (thường tính cho những người trên tuổi lao động). Như vậy, ở đây lực lượng lao động cũng đồng nghĩa với
dân số hoạt động kinh tế. Nguồn lao động được hiểu là toàn bộ những người có khả năng
lao động dưới dạng tích cực và tiềm tàng, có thể biểu diễn nguồn lao động qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 1.1: Nguồn lao động

Thứ hai, theo thuyết tăng trưởng kinh tế, thì nguồn nhân lực chính là nguồn lực
chủ yếu tạo động lực cho sự phát triển.
Thứ ba, theo thuyết về vốn con người, thì nguồn nhân lực được hiểu như nguồn
lực con người (Human Resonsrces), được huy động, quản lý cùng với các nguồn lực khác
(tài chính, tài nguyên ) để thực hiện những mục tiêu phát triển đã định.
Thứ tư, theo định nghĩa của Liên hợp quốc, nguồn nhân lực là: "Trình độ lành
nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm
năng để phát triển kinh tế xã hội trong một cộng đồng".
Thứ năm, theo một số nhà khoa học Việt Nam, nguồn nhân lực được hiểu là dân số
và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, trí tuệ và sức khỏe, năng lực và
phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc

trợ
Các
ngành
phi
s
ản

Thất
nghiệ
p
Các
ngành
sản xuất
(trong đó

nông Từ những quan niệm trên, chúng tôi cho rằng, nguồn nhân lực là tổng thể những
năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong tổng số lực lượng lao động của xã hội, đang và
sẽ được vận dụng vào quá trình lao động sản xuất ra của cải vật chất để phục vụ cho nhu
cầu xã hội.
 Nguồn nhân lực trước hết phản ánh qua số lượng lao động trong độ tuổi lao động
và chất lượng của nó. Chất lượng nguồn nhân lực là trình độ, khả năng của năng lực thể
chất và tinh thần cấu thành nguồn nhân lực của xã hội. Có nhiều chỉ tiêu đánh giá chất
lượng nguồn nhân lực. Đó là: (1) Trí lực của nguồn nhân lực; (2) Chỉ số phát triển con
người (HDI); (3) Thể lực nguồn nhân lực; (4) Phẩm chất, đạo đức, nhân cách, truyền thống
văn hóa nguồn nhân lực.
 Những nhân tố tác động đến chất lượng nguồn nhân lực:
Một là, trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Đây là cơ sở nền tảng để nâng cao chất

khu vực nông nghiệp, nông thôn và những người trên tuổi lao động nhưng vẫn tham gia
lao động. Số lượng này phụ thuộc vào 2 yếu tố: Sự tăng giảm tự nhiên và tăng giảm cơ học
do sự di cư từ nông thôn ra thành thị hoặc ngược lại.
- Chất lượng của nguồn nhân lực nông nghiệp nông thôn nói chung là khả năng về
sức sản xuất của thể lực, trí lực của người lao động. Khả năng này được phản ánh qua trình
độ văn hóa, trình độ khoa học kỹ thuật, năng suất lao động, kinh nghiệm sản xuất cũng như
hành vi và giá trị của người lao động. Chất lượng của nguồn lao động là nhân tố có tính
quyết định đóng góp cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của một nước. Chất lượng
nguồn lao động nông thôn nói riêng và nguồn lao động xã hội nói chung tất yếu sẽ biến đổi
theo xu hướng không ngừng tăng lên do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và vì vậy năng
suất lao động ngày càng nâng cao. Mặt khác, khi nền kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện
chăm sóc tốt hơn sức khỏe con người, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao
động. Chất lượng nguồn nhân lực sẽ được nâng cao thông qua sự đầu tư và các chính sách
phát triển của Nhà nước vào các lĩnh vực y tế, giáo dục và văn hóa.
Những đặc trưng của nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn: Một là, nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong
nguồn nhân lực xã hội.
Nước ta là một nước nông nghiệp, có khoảng 78% dân số sinh sống ở các vùng
nông thôn và đại bộ phận dân cư và lao động làm ăn sinh sống bằng nghề nông. Dân số
nước ta thuộc loại dân số trẻ, tỷ lệ tăng tự nhiên đã giảm khá nhanh từ 2,2 năm 1990 xuống
còn 1,43% năm 2000, tuy nhiên lao động trong khu vực nông nghiệp nông thôn năm 2005 vẫn
chiếm tới 66,0% lao động xã hội.
Hai là, lao động nông nghiệp mang tính thời vụ cao.
Một trong những nguyên nhân khiến cho việc trồng lúa nước cũng như các cây rau
màu khác cần một lực lượng lao động lớn là do tính thời vụ cao (gieo trồng, thu hoạch).
Những công việc cần nhiều lao động như vậy lại chỉ diễn ra trong một số tháng trong năm.
Tính chất thời vụ của việc canh tác lúa nước đã dẫn đến tình trạng nông nhàn cao trong
nông nghiệp. Tính chất đặc thù của sản xuất nông nghiệp đã dẫn đến lượng "cầu" về lao

thôn còn thấp, ví dụ: Năm 1999 ở nước ta tỷ lệ lao động chưa biết chữ ở nông thôn vẫn
còn gần 1,5 triệu người chiếm 4,9% tổng số lao động nông thôn, tỷ lệ lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật chỉ chiếm xấp xỉ 8% còn lại là lao động phổ thông chưa qua đào tạo.
Lực lượng lao động chất xám vừa ít lại phân bố không đều, chưa gắn bó với sản xuất và
phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý ở nông thôn còn
yếu kém, số có trình độ đại học chỉ chiếm 3,5%, trung cấp 12,8%, sơ cấp 48% tổng số cán
bộ quản lý. Rõ ràng với trình độ như vậy sẽ không đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp
hóa, đây là yếu tố gây trở ngại lớn đến việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong
nông nghiệp [43, tr. 22].
- Thể lực của người lao động ở nông thôn đã được cải thiện nhưng còn thấp so với
yêu cầu. Tình trạng dinh dưỡng của người lớn tính theo chỉ số cơ chế (BMI) của khu vực
nông thôn cho thấy chỉ có 36,44% nam giới đạt mức bình thường, còn lại 62,5% ở mức
gầy và quá gầy [43, tr. 23].
- Thu nhập của nông dân còn thấp, đời sống còn nhiều khó khăn. Vẫn còn khoảng
gần 15% dân nông thôn bị nghèo về lương thực, thực phẩm và khoảng 1/3 còn phải sống ở
mức nghèo chung. Bên cạnh đó các điều kiện khác ở nông thôn còn kém xa so với thành
thị. Ví dụ về nhà ở, về phương tiện, về hưởng thụ văn hóa 1.2.3. Tác động và yêu cầu về nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
1.2.3.1. Tác động của nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn
Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn. Nguồn nhân lực như đã nói ở trên, trước hết phản ánh qua số
lượng lao động trong độ tuổi lao động. Yếu tố về số lượng lao động tác động tới tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn mang tính đặc thù, đặc biệt là khi
xét nó trong mối tương quan với quy mô và tốc độ tăng dân số. Nếu lao động quá ít thì
không đủ đáp ứng cho nhu cầu lao động của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nhưng ngược lại nếu lao động quá lớn, và đằng sau đó là quy mô dân số quá đông và tốc
độ tăng dân số nhanh thì đây là khó khăn, thách thức đối với tiến trình công nghiệp hóa,

đã tạo ra những điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa. Thế giới đang từng bước
phát triển nền kinh tế tri thức. Chính vì vậy, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước nói chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nói riêng đòi
hỏi một đội ngũ những người lao động có chất lượng cao, tinh thông nghề nghiệp, sáng tạo
và có tác phong công nghiệp.
- Về cơ cấu nguồn nhân lực: Đảm bảo sự hợp lý trong phân bố nguồn nhân lực
giữa các ngành và các vùng. Trong mỗi ngành, mỗi địa phương cũng phải tính đến tỷ lệ
hợp lý giữa các trình độ chuyên môn kỹ thuật giữa các nhà nghiên cứu hoạch định chính
sách, các nhà quản lý và người trực tiếp sản xuất
1.3. Kinh nghiệm phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở một số tỉnh trong nước
1.3.1. Kinh nghiệm của Sơn La
Sơn La là một tỉnh miền núi phía tây bắc nước ta, có diện tích 1.405,5 km
2
, với dân số
906.800 người (tương đương tỉnh Bắc Ninh). Trong đó, người trong độ tuổi lao động
chiếm 46% dân số. Tỷ lệ lao động khu vực nông thôn chiếm 78,88% số lao động của tỉnh.
Tỷ lệ thời gian sử dụng lao động còn thấp mới đạt 68 - 70%. Như vậy 1/4 thời gian nông
nhàn cần các ngành nghề, dịch vụ tạo nguồn thu nhập cho bà con nông dân Sơn La. Vấn đề
này đặt ra cho tỉnh Sơn La một bài toán khó cần phải giải quyết. Mặt khác, mỗi năm Sơn La có khoảng 7.000 học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở chỉ có 1700 - 2000 em vào học
tiếp các trường trung học phổ thông còn khoảng 5.000 em cần được đào tạo nghề, hướng
nghiệp. Hàng ngàn học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp ra trường, bộ đội xuất ngũ bổ sung cho lực lượng lao động trong tỉnh hàng năm.
Trong 10 năm qua (1996 - 2005) đặc biệt là 5 năm gần đây tình hình kinh tế xã hội
ở tỉnh Sơn La có nhiều khởi sắc; chuyển dịch cơ cấu kinh tế đi đúng hướng, nhịp độ tăng
trưởng kinh tế khá, GDP đạt mức trung bình 9,6%/năm, tổng sản phẩm quốc dân tăng gấp
đôi, tỷ lệ đói nghèo giảm từ 31,4% xuống còn xấp xỉ 15%. Thực tiễn phát triển kinh tế - xã


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status