LUẬN VĂN: THÔNG TIN KHOA HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY - Pdf 15



LUẬN VĂN: THÔNG TIN KHOA HỌC
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
động thị trường thế giới: như giá vàng, các ngoại tệ mạnh, về giá dầu thế giới hiện nay

1)
Xem:Báo cáo toàn cảnh Công nghệ thông tin Việt Nam năm 2006, Hội tin học Thành phố
Hồ Chí Minh, tr.2.
v.v đòi hỏi một sự phân tích tổng hợp về kinh tế chính trị, về kinh tế - kỹ thuật, về
chính trị và xã hội thế giới, phải phân tích các dữ liệu có căn cứ khoa học, để có chính
sách ứng phó quốc gia. Nếu nối mạng được toàn bộ các dữ liệu thông tin về tài chính,
ngân hàng, đầu tư, xuất - nhập khẩu, công nghiệp - nông nghiệp, cũng như có đầy đủ
thông tin về kinh tế đối ngoại, về chính trị thế giới, về các điều kiện tự nhiên và xã hội
khác v.v thì chúng ta sẽ có các biện pháp phát triển kinh tế nói chung, cũng như góp
phần đối phó với khó khăn kép của nền kinh tế nước ta như vừa lạm phát cao lại vừa
tăng trưởng chậm và hiệu quả kém. Có TTKH từ sự nghiên cứu của các cơ quan
nghiên cứu trong nước cũng như nghiên cứu quốc tế, nắm bắt và xử lý kịp thời các
thông số kinh tế - xã hội, xử lý linh hoạt các biện pháp điều chỉnh về đầu tư, xuất -
nhập khẩu, về lãi suất tín dụng ngân hàng, về tài chính và ngân sách v.v chúng ta sẽ
kìm hãm được lạm phát cao hiện nay và có khả năng kéo lạm phát xuống mức một con
số, để rồi kéo về mức lạm phát tối ưu. Nói chung, nếu nắm được những TTKH, những
dữ liệu có tính chính xác, được xử lý một cách khoa học, đảm bảo độ tin cậy thì chúng
ta sẽ giải quyết được các vấn đề, trong đó vấn đề trung tâm là kinh tế - xã hội một cách
hiệu quả.
TTKH là nhân tố không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hơn thế còn là tăng
trưởng có hiệu quả, nâng cao chất lượng tăng trưởng, gắn phát triển kinh tế với phát
triển xã hội một cách tối ưu.
TTKH là phạm trù riêng trong tập hợp chung của hai phạm trù lớn là thông tin
và khoa học. Nó vừa nằm ở lĩnh vực thông tin, lại đồng thời nằm ở lĩnh vực khoa học,
vừa mang nội dung thông tin, vừa mang bản chất khoa học.

là việc tìm ra bản chất của tin và đưa ra hệ thống tin phản ánh được bản chất của sự
vật, hiện tượng chính trị, kinh tế, xã hội v.v phục vụ cho các đối tượng với những
nhu cầu tương ứng. Trong muôn vàn biểu hiện các thông tin khác nhau thì giá trị nội
dung đích thực chỉ có một. Vì thế phải xác định tin nào đúng, tin nào sai, cần có cách
xử lý để đi đến kết luận tính chân lý. TTKH chính là xử lý, thẩm định nội dung (giá trị
tin), hệ thống các nội dung thông tin để giúp cho người nắm thông tin có điều kiện tìm
ra tính chân lý hoặc chí ít cũng tiến gần nhất đến chân lý.
Đối tượng nghiên cứu của TTKH cũng là một khía cạnh mới, là nghiên cứu về
nội dung, bản chất của tin. Trong đời sống có rất nhiều tin, xác định tính chính xác của
thông tin, mức độ khoa học của tin, xác định ý nghĩa xã hội của tin và phương pháp sử
dụng thông tin cụ thể v.v Đó cũng là đối tượng nghiên cứu của TTKH. Trong trường
hợp này TTKH lại như là một phân ngành khoa học hẹp. Đây là một ‘‘khoảng trống”
còn chưa được nghiên cứu thấu đáo.
Mục tiêu cao nhất của TTKH là đưa tri thức, góp phần đắc lực để tri thức được
ứng dụng vào đời sống một cách có hiệu quả, mà trong đó trọng tâm là phát triển kinh
tế - xã hội. Tri thức là một nguồn lực, một nguồn vốn vô cùng to lớn mà chi phí để sử
dụng nó nói chung là không lớn (không tương xứng với chi phí tạo ra tri thức), nhiều
trường hợp nhờ TTKH mà sử dụng tri thức không phải chi trả, nó chỉ phụ thuộc vào
khả năng nắm nguồn lực tri thức. Một trong các yếu tố để nắm nguồn lực đó là TTKH.
Hiện nay sử dụng TTKH phục vụ cho đời sống, trước hết phục vụ cho phát triển kinh
tế, đang là một vấn đề cấp thiết. Vì vậy đề tài này hy vọng góp phần giải quyết những
vấn đề thực tiễn, trong việc sử dụng TTKH phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển kinh
tế xã hội của nước ta hiện nay.
TTKH cũng là khái niệm bao gồm hai nghĩa cơ bản, khi xét về phương diện vận
hành:
- Hoạt động xử lý tri thức, khía cạnh nội dung khoa học của thông tin.
- TTKH là hình thức xử lý nội dung thông tin một cách có tổ chức, có quy chế

cho sự phát triển, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển với tốc độ và hiệu quả kinh tế cao,
vừa thỏa mãn được nhu cầu xã hội (với những qui chế, hạn định nào đấy), hay nói cách
khác là kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội, đáp
ứng phát triển toàn diện hài hòa, có hiệu quả các nguồn lực.
- TTKH góp phần cung cấp những tri thức khoa học cho việc giải quyết hài hòa
giữa kinh tế và chính trị, giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN với xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
- TTKH phải cung cấp tri thức khoa học cho đổi mới và phát triển kinh tế trong
điều kiện hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa.
- TTKH phải cung cấp những luận cứ lý luận và thực tiễn cho việc phát triển
kinh tế với tốc độ cao nhưng đồng thời phải thu hẹp dần khoảng cách về thu nhập và
đặc biệt là nâng cao nhanh hơn mức sống cho các nhóm, bộ phận dân cư có thu nhập
thấp, chú trọng xóa đói và giảm nghèo, cải thiện nhiều hơn mức sống cho người nghèo
và tầng lớp dân cư yếu thế, phát triển kinh tế với giải quyết các nhu cầu xã hội của
cộng đồng.
- TTKH phải cung cấp cứ liệu để phát triển bền vững về xã hội, về sinh thái, tiết
kiệm tài nguyên.
- TTKH phải cung cấp cứ liệu để phát triển kinh tế có hiệu quả, đồng thời tạo cơ sở
thúc đẩy phát triển nền văn hóa Việt Nam XHCN, dân tộc, đại chúng và tiên tiến, phát triển
kinh tế đi đôi với xây dựng con người Việt Nam, xây dựng một nền kinh tế giàu tính văn
hóa và nhân văn Việt Nam v.v
- TTKH phải đáp ứng được nhu cầu tri thức cho lãnh đạo - quản lý về phát
triển, về tư duy kinh tế - xã hội cũng như phổ cập tri thức cho người dân, để người dân
hình thành tư duy kinh tế - xã hội hợp lý, lành mạnh nhất.
- TTKH phải tạo được dữ liệu để dự báo chính xác xu thế của kinh tế thế giới,
đặc biệt là phương diện xã hội của sự phát triển này v.v
Như vậy, xem xét từ góc độ TTKH phục vụ cho hoạt động kinh tế - xã hội hiện

nhau, thông tin về các vấn đề xã hội mang tính chính trị như an ninh xã hội, dân chủ
trong đời sống của thời mở cửa và hội nhập với thế giới bên ngoài v.v , đều cần có
những phân tích, xử lý khoa học về phương pháp và nội dung.
- Nhu cầu TTKH về an ninh kinh tế ngày càng cấp thiết, sự hòa quyện an ninh
kinh tế với an ninh xã hội ngày càng tăng lên.
- Nhu cầu TTKH về khía cạnh kinh tế của các lĩnh vực văn hóa tinh thần, khoa
học, nghệ thuật, thể thao, chính trị - xã hội và ngược lại, cần có TTKH về khía cạnh
văn hóa (xã hội) trong kinh tế.
- Nhu cầu đánh giá thực trạng sử dụng TTKH, vai trò chức năng của nó đối với
sự phát triển kinh tế xã hội. Công tác này hiện còn nhiều bất cập và hạn chế cần được
khắc phục. Nguồn lực TTKH chưa thực sự được phát huy. Đây cũng là một phương
diện lý luận và thực tiễn có tính liên ngành: thông tin, khoa học, kinh tế và xã hội cần
được nghiên cứu.
Trên các phương diện lý luận và thực tiễn phát triển của đất nước về kinh tế - xã
hội, cũng như gắn với lĩnh vực chuyên môn hẹp (TTKH), đang đặt ra nhu cầu nghiên
cứu đề tài: TTKH với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
Như vậy, sự cần thiết nghiên cứu đề tài này xuất phát từ hai phương diện cơ
bản: 1) Cần nghiên cứu rõ hơn những vấn đề về lý luận TTKH, để TTKH gắn với thực
tiễn kinh tế - xã hội; 2) Sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta đang ngày càng đòi hỏi,
càng có nhu cầu lớn hơn về tri thức, do đó có nhu cầu cao hơn về TTKH, đòi hỏi nhiều
hơn về TTKH.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ngoài đã có nhiều tác giả nổi tiếng nghiên cứu về lĩnh vực thông tin, ví
như: A. Toffler và D. Bell ở Mỹ, A. Eliacov, B.L. Inozemsev ở Nga, Paul A. David,
Domonique Foroy ở Pháp v.v
Dưới góc độ nghiên cứu quan hệ giữa thông tin với kinh tế - xã hội, có thể nêu
ra một số tác giả và công trình tiêu biểu:

3)
T/c: "Khoa học và xã hội”(tiếng Nga), số 3/2001, tr.140-152.
4)
T/c: "Đối thoại”(tiếng Nga), số 11/2005.
5)
T/c: "Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế”( tiếng Nga), số4/2005.
6)
T/c: "Các vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý”(tiếng Nga), số 4/2006.
- Meliansev B. Cuộc cách mạng thông tin của nền kinh tế mới
7)
. Tác giả chỉ ra
vai trò biến đổi mang tính cách mạng của kinh tế do ảnh hưởng của cách mạng thông
tin.
- Eliacov A. Cuộc cách mạng thông tin đang tiếp tục
8)
. Tác giả chứng minh sự
phát triển tiếp tục nhanh hơn của cách mạng thông tin và nền kinh tế phải thích ứng.
- Sapra G. Nền kinh tế thông tin
9)
. Ở đây tác giả đã đưa một khái niệm hoàn
toàn mới hẳn: nền kinh tế thông tin.
Nói chung, những vấn đề lý thuyết chung về thông tin đã được nghiên cứu từ
lâu và khá nhiều ở nước ngoài.
Ở Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu về thông tin hoặc liên quan
đến thông tin kinh tế - xã hội, ví dụ:
- Nguyễn Nhâm. Thông tin kinh tế và quản lý kinh tế ở cơ sở, Nxb Sự Thật, Hà
Nội, 1987. Tài liệu đề cập về cung cấp dữ liệu trong quản lý kinh tế.

của nó là thông tin kinh tế phải giúp cho việc quản lý nhà nước chủ động chế ngự
những khuyết tật bẩm sinh của kinh tế thị trường.
- Hoàng Ngọc Kim. TTKH với công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đề tài cấp cơ sở
của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002. Nội dung chủ yếu là nêu lên khía
cạnh thông tin nói chung với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không nghiên
cứu TTKH độc lập, đúng nghĩa cần có.
Đã có một số công trình nghiên cứu thực tiễn có liên quan đến thông tin, ví dụ
như:
- ThS. Đoàn Thị Hải Yến và cộng sự. Nghiên cứu phương pháp xây dựng Báo
cáo tổng quan kinh tế quí (Đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm
2008).
- Một số tài liệu khác như: Cẩm nang báo cáo kinh tế quí, Cẩm nang xây dựng
bản tin ngoại thương (tài liệu của Trung tâm Thông tin và Dự báo Quốc gia - Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, 2000) v.v
Cũng cần khẳng định rằng việc cập nhật và đưa thông tin về kinh tế - xã hội thì
rất nhiều và thường xuyên, nhưng ít có những công trình mang tính chuyên nghiệp
dưới góc độ TTKH ở các cơ quan kinh tế, các cơ quan nghiên cứu, hoạt động thông
tin. Về phương diện này ít có những công trình nghiên cứu tương xứng.
Tất cả các công trình nghiên cứu nêu trên chưa đề cập đến hoặc chưa đạt
đến độ cần có về phạm vi và chiều sâu, còn nặng về thông tin và nhẹ về khoa học,
còn thiên về mô tả mà chưa đi sâu nghiên cứu bản chất vấn đề dưới góc độ TTKH.
Do vậy cần có những công trình đi sâu nghiên cứu một số nội dung sau:
- Khu biệt rõ phạm trù TTKH.
Các công trình đã có mới giải quyết thuần túy lý luận thông tin (các công trình
nước ngoài), hoặc nặng về mô tả thông tin nói chung (công trình trong nước). Nhiều
công trình vẫn chưa tách biệt được TTKH với thông tin nói chung. Trong thực tiễn ít
tác giả khu biệt, phân định rõ điều này.

vào việc nâng cao tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, đồng thời kinh tế hài hòa
với khía cạnh xã hội và các khía cạnh khác của sự tăng trưởng.
Nhiệm vụ
* Làm rõ phạm trù TTKH:
- Phát hiện, khái quát và bổ sung những nét mới, hoàn chỉnh hơn về nội hàm,
đặc trưng của phạm trù TTKH.
- Bổ sung những điểm mới, nêu bật các vai trò, chức năng chung của TTKH
(trong mối liên hệ trực tiếp với phát triển kinh tế - xã hội).
* Làm rõ ý nghĩa thực tiễn của TTKH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam hiện nay:
- Đưa ra được một đánh giá mới (đầy đủ và thuyết phục hơn so với các công
trình đã được nghiên cứu có liên quan đến chủ đề này) về vai trò, chức năng của
TTKH trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời kỳ đã qua.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm về sử dụng TTKH phục vụ cho phát triển
kinh tế - xã hội.
* Tìm ra các giải pháp cụ thể hóa chức năng của TTKH để TTKH phục vụ một
cách hiệu quả cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong giai
đoạn hiện nay, để đảm bảo cho kinh tế nước ta vừa có tốc độ tăng trưởng cao, đồng
thời nâng cao chất lượng tăng trưởng và giải quyết tốt các vấn đề xã hội:
- Về quan điểm, phương thức chung để thực hiện vai trò, chức năng của TTKH
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay.
- Về những vấn đề cụ thể hóa vai trò, chức năng của TTKH (gắn với kinh tế -
xã hội), để TTKH phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH và hội nhập sâu hơn với kinh tế thế giới.
4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
TTKH ứng dụng, tức là nghiên cứu bản chất khoa học của thông tin trong mối

phải vận dụng các công cụ của thông tin học để xử lý tư liệu, vận dụng những kiến
thức triết học xã hội để áp dụng vào tư duy về thông tin và các vấn đề kinh tế và xã
hội, vận dụng tư duy kinh tế chính trị để giải quyết những khía cạnh sở hữu và lợi ích,
quan hệ giai cấp và giai tầng xã hội, quan hệ phân phối lợi ích , từ quan điểm lợi ích
để xem xét mục đích, nội dung và ý nghĩa của thông tin, thông tin vì ai và bằng cách
nào v.v Như vậy không chỉ có tư duy hệ thống mà còn phải có tư duy liên hoàn, tư
duy tổng thể.
- Phương pháp khảo cứu, điều tra - thống kê, phân tích - tổng hợp, đối chiếu và
so sánh giữa lý luận với lý luận, giữa lý luận với thực tiễn, giữa thực tế này với thực tế
khác v.v ;
- Phương pháp kế thừa: Trên cơ sở nghiên cứu tổng quát toàn bộ những giá trị
khoa học của các công trình (có thể nắm được) đã có để tránh lặp lại, kế thừa và lựa
chọn những kết luận đã có (mà tác giả thừa nhận) rồi mới có thể suy nghĩ và sáng tạo
mới.
5. Nội dung nghiên cứu
Kết cấu nội dung cơ bản gồm lời mở đầu, 3 chương, kết luận:
Mở đầu: Khái quát về lý do, mục đích, phương pháp, nội dung, ý nghĩa nghiên
cứu
Chương 1: Vai trò, chức năng của TTKH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Chương 2: Thực trạng TTKH phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta
Chương 3: Những giải pháp để TTKH đáp ứng đòi hỏi của công cuộc đổi mới
KT-XH ở nước ta hiện nay
Kết luận chung
Danh mục tài liệu tham khảo
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài là một công trình độc lập, có giá trị khoa học mang bản sắc riêng và giá
trị thực tiễn rõ rệt: bổ sung và phát triển thêm một bước lý luận về TTKH và gắn

- Đề tài phản ánh được chức năng thực tiễn của thông tin.
* Về thực tiễn, có thể vận dụng những kết quả nghiên cứu vào việc phát triển
kinh tế - xã hội hiện nay
+ Tác động vào các chủ thể của xã hội, các chủ thể nhận thức đúng tầm quan
trọng của TTKH là một nguồn vốn đặc biệt - nguồn vốn tri thức, khoa học, lực lượng
to lớn mà trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta còn chưa được chú trọng
đúng mức. (Các ngành, các cấp, các địa phương, các đơn vị khoa học và kinh tế cần
phải sử dụng nguồn vốn này một cách hiệu quả hơn);
+ Giúp cho các cơ quan quản lý khoa học và kinh tế đánh giá đúng, mới về thực
trạng, vai trò, chức năng của TTKH thời gian qua trong lĩnh vực phát triển kinh tế - xã
hội nước ta. Gợi ý cho các cấp, các ngành và đặc biệt là các nhà quản lý sử dụng
TTKH như là lực lựng xung kích, đi tiên phong (thậm chí phải đi trước nhiều bước),
mở đường cho việc giải quyết các vấn đề (về khoa học, về thực tiễn nói chung và kinh
tế - xã hội nói riêng);
Giúp cho các cơ quan nghiên cứu, quản lý và các cơ quan đang trực tiếp vận
hành, sử dụng, cán bộ khoa học cũng như người lao động có cách hiểu, cách tiếp cận
tốt hơn về TTKH, có được hệ giải pháp mới để sử dụng TTKH vào công cuộc phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay;
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là luận cứ mới giúp cho các cơ quan quản lý
khoa học và hoạch định chính sách về TTKH;
- Làm tài liệu mới với những nội dung mới nhất định để phục vụ cho các cán bộ
khoa học kinh tế và hoạt động thông tin, cho các đối tượng có nhu cầu tìm hiểu về
TTKH gắn với thực tiễn kinh tế - xã hội.
7. Sản phẩm của đề tài
- Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài dày 170 trang đánh máy A4);
- Báo cáo tóm tắt 25 trang;
- Bản kiến nghị (khoảng 10 - 15 trang A4);
- Sản phẩm trung gian: Kỷ yếu gồm
10)
Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hà Nội - Đà Nẵng, 1997, tr 998.
hoá bởi các công cụ lao động và sản phẩm lao động, các công cụ đặc thù của thông tin
như sách báo, các phương tiện truyền thanh, truyền hình, các thiết bị điện tử v.v… và
đặc biệt là chính con người - con người có tích luỹ tri thức ở các mức độ khác nhau.
Đó là sự phản ánh thế giới hiện thực được con người thu nhận bằng hình thức thông
tin. Thông tin chính là sự chuyển tải (dịch chuyển) tri thức giữa con người với con
người. Tri thức là nội dung đích thực của thông tin, là sản phẩm của ý thức - nhận thức
của chúng ta. Vì thế, thông tin phụ thuộc vào hoạt động ý thức của con người.
Thông tin được truyền tải bằng những hình thức và công cụ đặc trưng của quy
trình nhận thức, dưới dạng các dấu hiệu có tính lôgic bằng ngôn ngữ riêng, có vật
mang tin cụ thể để chứa đựng thông tin như sách, báo, truyền hình, truyền thanh v.v
và biểu hiện dưới dạng tiếng nói, cử chỉ, ngôn ngữ, chữ số, bảng biểu, sơ đồ v.v gọi
là các dữ liệu.
- Các thành tố cơ bản của thông tin gồm:
+ Tri thức là nội dung thông tin, là dữ liệu để được xử lý, truyền tải, lưu thông.
+ Đối tượng dùng tin: gắn liền với nhu cầu cá nhân hay tổ chức cụ thể nào đó,
phục vụ cho hiểu biết, cho đời sống kinh tế - xã hội hay cho cá nhân, cho học tập hoặc
nghiên cứu, giảng dạy v.v
+ Chủ thể xử lý thông tin là con người (cá nhân hay tập thể, tổ chức) với các
công cụ, phương tiện để làm tin, thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền tải tin theo các cấp
độ và qui mô khác nhau.
- Đặc điểm về giá trị của thông tin: khác với các sản phẩm vật chất, của giá trị
thông tin không bị tiêu dùng hết, không bị hao mòn, không bị mất đi do tiêu dùng,
ngược lại nó dễ dàng được sao chụp lại và truyền tải. Nhiều khi người dùng tin không
phải trả chi phí vì tin đã được đăng tải, công bố rộng rãi. Nó được làm giàu và phong
phú thêm không ngừng do quá trình lưu thông và sử dụng tri thức. Do vậy, thông tin

tượng và quá trình trong các cấu trúc vĩ mô và vi mô của toàn thế giới"
13)
.
Bản chất đặc biệt của thông tin chính là quan hệ lợi ích. Đây là vấn đề tưởng
như cách xa với nhau nhưng thực ra, đó mới là điểm nhấn trong nội dung thông tin.
Trong tự nhiên thông tin là hình thức phản ánh, phản xạ tự nhiên giữa các tế bào
của mỗi thực thể sinh vật, là sự phản ứng của sinh thái, sự sống. Thí dụ, cảm giác nóng
lạnh thì bộ não con người phải thông báo cho bộ phận cơ thể tìm cách xử lý việc nóng

11)
Xem: A.Eliacov, T/c: "Đối thoại" (tiếng Nga) số 11/2001.
12)
Xem: I. Freigenberg, R. Rovinxki. Mô hình thông tin của tương lai với tính cách là một
chương trình phát triển. T/c: "Những vấn đề kinh tế” (tiếng Nga), số 5/2000.
13)
Dẫn theo: E.A.Tikhonovich, T/c:"Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế”(tiếng Nga), số
4/2005.
hay lạnh, cái bụng đói thì phải có sự thông báo cho bộ phận nạp nguồn năng lực. Một
người đàn ông nhờ con mắt của mình trông thấy một người phụ nữ đẹp thì lập tức con
mắt có sự thông báo cho bộ phận trí não và xúc cảm cần phải tỏ thái độ ra sao cho phù
hợp. Như vậy, thông tin tự nhiên là mối liên hệ tự nhiên giữa các tế bào các bộ phận nhỏ
nhất của sinh vật với nhau. Thông tin xã hội là mối liên hệ xã hội giữa các đơn vị cá thể
hay tập thể xã hội với cấp độ và quy mô khác nhau. Thông tin của xã hội loài người là
một hình thức hoạt động mang tính tri giác, là thông tin xã hội ở các cấp độ và phạm vi
khác nhau. Thông tin xã hội là một dạng khác của thông tin nói chung. Thông tin xã hội
loài người bao gồm 2 cấu tử hợp thành: dạng thông tin tự nhiên (thông tin sinh vật) và
thông tin riêng có của xã hội loài người (thông tin loài người).

Năm 1994 Ủy ban cộng đồng Châu Âu đã đưa ra kế hoạch hành động: "Con đường đi
vào xã hội thông tin của Châu Âu", năm 1995 Phần Lan đưa ra chương trình: "Con
đường đi vào xã hội thông tin của Phần Lan", năm 1996 Đức đưa ra chương trình:
"Đường vào xã hội thông tin của Đức", và ngay sau đó đã được các nước khác như:
Anh, Đan Mạch, Nga đồng loạt hưởng ứng.
Trong báo cáo kinh tế của Tổng thống Mỹ B. Clinton tháng 1/2001, có nói
rằng: "Lĩnh vực công nghệ thông tin đang biến thành chủ đạo của nền kinh tế Mỹ, nên
ở nền kinh tế mới việc sản xuất và phổ biến công nghệ thông tin có thể đặt dấu ngang
bằng, nghĩa là về thực chất, hai cái đó là một"
15)
.
Bản chất của quan hệ kinh tế cũng là thông tin
Thông tin là điều kiện và là máu thịt của đời sống kinh tế. Nền kinh tế là tổng
hòa toàn bộ các yếu tố, các bộ phận, tức là tổng hòa toàn bộ các quan hệ cung - cầu với
hàng tỉ hành vi giao tiếp về cung - cầu; mua - bán, hàng hóa - tiền tệ. Sự phân công của
nền kinh tế chính là nội dung vật chất của thông tin, đó là thông tin của trao đổi vật
chất - xã hội. Nó có cội rễ từ sinh hoạt vật chất, từ nhu cầu trao đổi chất trong tự nhiên
của loài người. Ở đây khía cạnh thông tin là ở chỗ: mọi hành vi trao đổi mua - bán
chính là thông tin vật chất. Các mối liên hệ cơ bản như sản xuất - phân phối - trao đổi
và tiêu dùng trong quá trình tái sản xuất xã hội là những khâu thông tin kinh tế cơ bản,
những khâu đảm bảo cho sự vận hành liên tục, đổi mới và phát triển không ngừng.
Có nhận định rất mạnh dạn, rằng thông tin không chỉ là một trong những nguồn
lực kinh tế quan trọng nhất mà còn là sản phẩm cuối cùng của toàn bộ nền kinh tế.
Hơn thế, một số nhà kinh tế còn khẳng định, cần phải nghiên cứu của cải vật chất trên
phương diện bản chất thông tin của chúng. Điều đó có nghĩa là, ý nghĩa kinh tế của
việc sở hữu các yếu tố vật chất bị quy định hoàn toàn bởi giá trị của thông tin được

15)
Economic Report of the President, 2001. Wash. 2001 - P. 10 - Dẫn theo GS,TS. A. Eliacov.
Cuộc cách mạng thông tin đang tiếp tục, T/c: “Kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế”(tiếng

kinh tế với nhau. Thí dụ, trong một gia đình nông dân, mọi quan hệ nội bộ trong gia
đình là quan hệ kinh tế có tính khép kín, là những hành vi hợp tác với nhau giữa các
thành viên trong gia đình. Trong đó, có vai trò điều khiển của người chủ đơn vị kinh tế
gia đình, đồng thời có quan hệ hưởng ứng (chịu sự chỉ huy, phân công) của các thành
viên hoặc một thành viên tự sắp xếp công việc của mình từ đầu đến cuối. Đó là quan

16)
Xem: B. Meljansev. Cuộc cách mạng thông tin của nền kinh tế mới; R. Svulev. Sự biến đổi
của nền kinh tế công nghiệp, vấn đề đo lường kinh tế. T/c: “Kinh tế thế giới và các quan hệ
quốc tế”(tiếng Nga), số 2/2001.
17)
A. Movsesian - Dẫn theo I. Shiscov. Chủ nghĩa tự do quá khứ, hiện tại và tương lai,
T/c:“Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế" (tiếng Nga), số 11/2004.
18)
I. Shiscov. Chủ nghĩa tự do quá khứ, hiện tại và tương lai, T/c: "Kinh tế thế giới và các
quan hệ quốc tế" (tiếng Nga), số 11/2004.
hệ thông tin kinh tế cục bộ nhỏ nhất. Theo cách gọi của một số nhà nghiên cứu hiện
nay, gọi hành vi kinh tế của cá nhân như vậy là kinh tế nanô. Về thực chất, đó là
những quan hệ trao đổi hoạt động giữa các thành viên trong đơn vị kinh tế cấp nhỏ
nhất. Quan hệ kinh tế vi mô là toàn bộ những vấn đề liên quan đến hoạt động của
doanh nghiệp như giá cả, khối lượng nguồn lực mà doanh nghiệp thu được và phân bổ,
tức là các quan hệ kinh tế chi phối mang tính tuyến tính. Như vậy, quan hệ thông tin
kinh tế ở đây là thông tin theo tuyến tính, ví như sự biến động giá cả thị trường làm
cho các cấp, các ngành, các khu vực và toàn bộ nền kinh tế cũng như kinh tế thế giới
phải điều chỉnh giá cả thay đổi. Còn như quan hệ giữa các chủ thể với nhau trong khu
vực, chẳng hạn như trong một địa phương cấp tỉnh, đấy là quan hệ thông tin hỗn hợp.
Đó là mối liên hệ (thông tin) giữa các ngành, các doanh nghiệp trong vùng tạo thành

một số nhà xã hội học đã sử dụng phạm trù xã hội thông tin, coi xã hội đó như một
giai đoạn phát triển của thời kỳ hậu công nghiệp (A. Toffler).
Trong khi một số ít dự báo khẳng định cuộc cách mạng thông tin đã chấm dứt,
thì nói chung nhiều nhà nghiên cứu lại chứng minh tiềm năng to lớn của cuộc cách
mạng thông tin và nó đang phát huy mạnh mẽ (A. Eliacov).
Điều này cũng đòi hỏi tư duy kinh tế phải tương đồng với thông tin, TTKH và
với các dự báo khoa học. Ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chính cuộc cách
mạng thông tin đòi hỏi phải có tư duy khoa học mới, rằng tư duy khoa học không theo
kịp với TTKH. Thí dụ, cách đây gần 50 năm nhà khoa học S. Lem đã dự báo, có nguy
cơ khoa học - kỹ thuật bị tụt hậu. Những dự báo về cải tiến mạnh mẽ chế tạo động cơ
và năng lượng nhưng thực tế thì không có sự tiến triển đáng kể. Từ đầu những năm
1960 đã có các dự báo: cuối những năm 1960 nhân loại sẽ chế tạo ra động cơ tên lửa i-
ôn và nguyên tử, đến đầu những năm 1990 sẽ có những thí nghiệm động cơ quang tử.
Nhưng hiện nay, tốc độ máy bay và sự an toàn cũng không cao, nhiên liệu dầu mỏ vẫn
là chủ yếu. Nguyên nhân là do không chấp nhận sự cảnh báo của TTKH, không kết
hợp được với tư duy kinh tế. Có ý kiến khá xác đáng rằng, phải lập một môn khoa học
mới nghiên cứu về thông tin theo nghĩa rộng nhất, nó chỉ rõ bản chất của thông tin, các
quy luật ảnh hưởng và tác động của nó đối với xã hội và áp dụng vào kinh tế - xã hội.
Do đó, cần có mô hình tư duy thông tin có tính toàn cầu, trao đổi giữa tất cả mọi nhà
khoa học các ngành, các lĩnh vực. Vì vậy, tư duy kinh tế phải dựa trên mô hình tư duy
thông tin. Có như vậy, mới có cơ sở khoa học chung để đưa ra các hướng phát triển có
hiệu quả.
Có ý kiến đánh giá rằng, một lý do khiến cho kinh tế Liên Xô bị tụt hậu là do

Trích đoạn THÔNG TIN KHOA HỌC ĐÃ PHỤC VỤ CÓ HIỆU QUẢ CHO QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TƯ DUY KINH TẾ THÔNG TIN KHOA HỌC GÓP PHẦN TẠO RA CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ TƯ TƯỞNG CHO SỰ ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ XÃ HỘI ĐỂ ĐỔI MỚI CÓ THÔNG TIN KHOA HỌC PHỤC VỤ TÍCH CỰC ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI, ĐỘC LẬP VÀ SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG THÔNG TIN KHOA HỌC PHỤC VỤ CHO CUỘC ĐẤU TRANH VỚI TỆ NẠN KINH TẾ XÃ HỘI VÀ LÀM LÀNH MẠNH HÓA XÃ HỘI ĐỂ
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status