một số kinh nghiệm trong việc dạy kĩ năng giai toán có lơi văn cho HS tiêu học - Pdf 16

A/ TÊN ĐỀ TÀI :
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG VIỆC DẠY KĨ NĂNG GIẢI TOÁN
CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
B/ CẤU TRÚC NỘI DUNG:
Phần 1: Mở đầu
1. Lý do đề xuất sáng kiến kinh nghiệm:
Song song với việc dạy và học môn Tiếng việt, việc dạy học môn toán ở
trường Tiểu học có vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát
triển khả năng toán học cho HS. Bởi từ đây, những bài học đơn giản đầu tiên
sẽ là nền móng đưa các em đi vào thế giới toán học bao la sau này. Để phát
triển tốt khả năng toán học cho HS, hơn đâu hết, việc học Toán ở Trường tiểu
học phải đặc biệt chú trọng. Chúng ta đã và đang thực hiện tốt nội dung này.
Trong môn Toán ở bậc Tiểu học, các bài toán có lời văn có một vị trí hết
sức quan trọng, chiếm phần lớn lượng thời gian trong học Toán của HS. Việc
giải thành thạo các bài toán là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá khả
năng học toán của mỗi HS. Việc giải toán được chú trọng như thế có lẽ vì
những tác dụng thiết thực mà nó đạt được trên cả hai mặt lý thuyết và thực tế
với HS Tiểu học. Muốn giải toán giỏi các em cần phải xác định hướng đi
chung trong hoạt động giải toán và việc dẫn dắt các em vào đúng lối đi đó là
vai trò không thể thiếu của người GV. Chính vì lý do đó, tôi đề xuất sáng kiến
kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm trong việc dạy kĩ năng giải toán có lời văn
cho HS Tiểu học.
2. Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm:
- Giải toán tốt là một bước củng cố tốt trong việc khắc sâu kiến thức số học,
đo lường, các yếu tố đại số, hình học của HS.
- Giúp phát triển trí thông minh, óc sáng tạo, thói quen làm việc một cách
khoa học, bởi giải toán là quá trình đòi hỏi nhiều nhất sự tư duy, suy luận, khả
năng phân tích chọn lựa của HS.
- Giải toán là cách tốt nhất để rèn luyện tính kiên trì, tự lực vượt khó, cẩn thận
chu đáo, yêu thích sự chặt chẽ, chính xác bởi khi giải toán bắt buộc các em
phải tự mình xem xét vấn đề,tự mình giải quyết vấn đề, tự mình kiểm tra lại

HS, cho HS đọc đề vội vàng, chưa biết tập trung vào những dữ kiện trọng tâm
của đề toán, không chịu phân tích đề toán khi đọc đề.
1.2 Học sinh:
- Đọc đề vội, bỏ qua bước cơ bản trong giải toán là tóm tắt đề toán, HS chưa
xác định các kiểu tóm tắt đề toán khác nhau phụ thuộc vào từng dạng bài cụ
thể.
- Học sinh chưa có kỹ năng phân tích và tư duy khi gặp những bài toán phức
tạp. Hầu hết các em làm theo khuôn mẫu của những dạng bài cụ thể mà các
em thường gặp trong Sách giáo khoa. Khi gặp bài toán đòi hỏi tư duy, suy
luận một chút các em không biết cách phân tích dẫn đến lười suy nghĩ.
- Khi giải xong bài toán, đa số học sinh bỏ qua bước kiểm tra lại bài, dẫn đến
nhiều trường hợp sai sót đáng tiếc do tính nhầm, do chủ quan.
Ngoài ra, còn có những trường hợp HS hiểu bài nhưng còn lúng túng trong
cách trình bày nhất là với các bài toán có lời văn phức tạp.
2. Nội dung giải pháp mới:
Từ thực tế nêu trên, tôi nghĩ rằng việc dẫn dắt HS đi theo các bước chung
trong hoạt động giải toán là điều cần thiết. Các bước giải toán mà tôi xác định
và đã dạy cho HS vẫn là các hoạt động bắt buộc mà xưa nay đã tiến hành. Tuy
nhiên trong quá trình thực hiện, từng bước tôi đã xác định cụ thể và có cải tiến
để đem lại hiệu quả cao hơn cho hoạt động học tập của HS. Các hoạt động đó
được tiến hành cụ thể như sau:
2.1 Hướng dẫn HS đọc đề toán:
Có thể nói đây là bước quan trọng góp phần vào sự thành công trong việc
giải toán của HS. Với những bài toán quá phức tạp, GV cần hướng dẫn để HS
xác định được yêu cầu của đề, nắm bắt được mấu chốt trong yêu cầu của bài
2
toán. Hết sức tránh tình trạng HS vừa đọc xong đề đã vội vàng bắt tay vào
giải ngay. Phải tập cho HS thói quen tự tìm hiểu đề toán qua việc phân tích
những điều đã cho và xác định được những điều phải tìm.
Để làm được điều đó, cần hướng sự tập trung suy nghĩ của HS vào những

+ Biểu thị tổng của hai số a và b là một số nào đó
+ Biểu thị hiệu của hai số a và b là một số nào đó
3
(a kém b 3 lần)
+ Biểu thị a= một phần mấy của b ( VD: a= ¾ của b)
2.2.2 Tóm tắt bằng lưu đồ:
Đây là cách tóm tắt ít được sử dụng hơn, tuy nhiên nó khá tiện lợi và hiệu
quả với một số bài toán suy ngược từ cuối như : Nếu gấp một số lên 6 lần rồi
bớt đi 3 thì được 27. Tìm số đó.
Hoặc một ví dụ khác: “ Ba bạn Lan, Mai và Phượng có trồng ba cây: lan;
mai, phượng trong vườn trường. Bạn trồng cây mai nói với Lan: “ Trong ba
chúng ta không có ai trồng cây trùng với tên của mình cả.Hỏi bạn nào đã
trồng cây nào?
Bài toán có hai nhóm đối tượng, một nhóm là tên các bạn, kí hiệu là L, M,
P ; một nhóm là tên các cây kí hiệu là l, m, p. Ta dùng nét liền để nối hai đối
tượng ứng với nhau và nét đứt để nối hai đối tượng không có sự tương ứng.
Người cây
Theo đầu bài:
+Bạn trồng cây mai không phải là Lan nên Lan không trồng cây mai là nét
đứt.
+Không có ai trồng cây trùng với tên của mình là nét đứt.
Có thể dựa vào tóm tắt này để suy luận và giải toán như sau:
Vì “ L- l” và “L-m” đều là nét đứt, suy ra “ L-p” là nét liền
Vì “ M-m” là nét đứt nên “M-l” là nét liền, còn lại “ P-m” là nét liền.
Kết quả : Bạn Lan trồng cây Phượng
4
L .
M.
P.
. l

Dựa vào bảng này ta có thể giải bài toán này như sau:
+ Số bạn nam có đi xem phim là : 20 – 11 = 9 (bạn)
+ Số học sinh có đi xem phim là : 9 + 8 = 17 (bạn)
+ Số bạn học sinh không đi xem phim là : 35 – 17 = 18 (bạn)
2.25/ Tóm tắt bài toán với các công thức bằng lời:
Trong cách tóm tắt này, người ta thường viết tắt các giá trị của một số
lượng các từ, chữ rồi ghi lại các dữ liệu của bài toán thành các phép tính cộng,
trừ, nhân, chia với những từ, chữ ấy.
Ví dụ: “ Một người mua 10 quả trứng gà và 5 quả trứng vịt hết tất cả là
9500 đồng. Tính giá tiền của mỗi quả trứng biết rằng số tiền mua 5 quả trứng
5
. l
.m
.p
L .
M.
P.
gà nhiều hơn số tiền mua 2 quả trứng vịt là 1600 đồng” ở đây, nếu ta kí hiệu:
giá tiền 10 quả trứng gà là 10 gà, giá tiền 5 quả trứng vịt là 5 vịt thì bài toán
được tóm tắt là :
10 “gà” + 5 “ vịt” = 9500 đồng
5 “ gà” - 2 “ vịt” = 1600 đồng.
* Với những cách tóm tắt như trên ta có thể dễ dàng giúp HS định hướng
được cách giải bài toán trong các bước tiếp theo.
2.3 Hướng dẫn học sinh phân tích đề toán tìm cách giải:
Đây là khâu then chốt nhất trong quá trình giải toán của HS. Trên cơ sở đã
xác định được yêu cầu của đề toán, việc đi tìm con đường tính toán được thực
hiện qua việc phân tích những cái đã cho, cái cần tìm trong đề bài. Tôi đã
hướng dẫn học sinh tiến hành điều này theo các cách như sau:
2.3.1/ Suy nghĩ theo đường lối phân tích:

+ Chu vi sân
+ Chu vi vườn rau
Từ câu hỏi của bài toán ta suy ngược lên.
+ Muốn tính sản lượng rau phải biết năng suất và diện tích.
6
+ Năng suất đã biết, diện tích chưa biết.
+ Muốn tính diện tích hình vuông phải biết cạnh của nó.
Tới đây thì hai quá trình suy luận gặp nhau vì: nếu biết chu vi hình vuông
thì có thể tính ngay được cạnh của hình vuông bằng cách lấy chu vi chia cho
4. Như vậy là quá trình suy nghĩ để tìm cách giải đã xong.
2.4 Hướng dẫn học sinh giải bài toán và thử lại kết quả:
Sau khi đã thực hiện tốt các bước trên, HS chỉ cần cẩn thận một chút là bắt
tay vào việc giải toán một cách nhẹ nhàng và hiệu quả. Sau khi hoàn thành
các bước giải toán, phải chú ý thử lại xem đáp số có phù hợp với bài toán
không? Từng lời giải và phép tính có đủ ý, gãy gọn chưa? Phù hợp chưa? Có
một số cách thử lại thường được vận dụng như sau:
2.4.1/ Thử lại bằng phương pháp giải theo cách khác:
Nghĩa là ta giải bài toán trên theo một cách mới, khác với cách vừa làm.
Nếu kết quả giống nhau nghĩa là ta đã làm đúng. Ví dụ muốn thử lại dãy tính.
( 342 – 116 ) : 2 =
226 : 2 = 113
Có thể dùng quy tắc chia một hiệu cho một số :
(342- 116) : 2 = 342 : 2 – 116 :2
= 171 – 58 = 113
Hai kết quả giống nhau như vậy ta đã tính đúng.
2.4.2/ Thử lại bằng cách tính ngược: Nếu từ số a ta tính được số b thì từ
số b phải có cách tính được số a
Ví dụ:Muốn thử phép cộng:
36519
4932

+ Tự đặt bài toán mới tương tự bài toán đã cho.
+ Tự nhận xét và rút ra kinh nghiệm sau khi giải toán.
* Tóm lại: Đối với HS bình thường, khi giải bài toán các em cần làm theo
bốn bước:
Bước 1: Đọc thật kĩ đề toán, xác định đâu là cái đã cho, đâu là cái phải
tìm.
Bước 2: Tóm tắt bài toán bằng sơ đồ, hình vẽ hoặc bằng ngôn ngữ kí hiệu
ngắn gọn. Thông qua đó để thiết lập mối liên hệ giữa cái đã cho và cái phải
tìm.
Bước 3: Phân tích bài toán để tìm cách giải. Kết quả của bước này là xác
định một trình tự để giải toán.
Bước 4: Lần lượt thực hiện các phép tính theo trình tự giải đã có để đi tới
đáp số. Cần thử lại sau mỗi phép tính và đáp số để tự kiểm tra xem mình đã
chắc đúng chưa. Sau đó viết cẩn thận bài giải vào vở.
Trong tất cả các bước trên, hầu hết các hoạt động đều được làm trên giấy
nháp hoặc nghĩ thầm trong đầu, chỉ riêng việc viết bài giải là học sinh phải
làm vào bài tập mà thôi.
Với các HS khá, giỏi phải tập cho các em thói quen không tự bằng lòng
dừng lại khi giải được đúng đáp số của bài toán, mà phải biết tự giác thực
hiện thêm một bước nữa là khai thác bài toán. Đây là một cách rất tốt để cho
HS tự rèn luyện cho mình năng lực suy nghĩ độc lập và linh hoạt, trí thông
minh và óc sáng tạo, đây cũng là phương pháp để tập cho học sinh phát huy tư
duy, đặt nền móng cho những phát minh thực sự sau này. Sau đây là ví dụ
minh họa cho quá trình giải một bài toán có đầy đủ các bước trên:
Bài toán: Tổng của hai số tự nhiên chẵn liên tiếp là 50. Tìm hai số đó ?
Bước 1: Đọc đề toán xác định đâu là cái đã cho, đâu là cái phải tìm.
+ Bài toán hỏi gì?
- Tìm hai số
+ Bài toán cho biết gì ?
- Tổng của hai số tự nhiên chẵn liên tiếp là 50.

Bài toán: Tổng của hai số tự nhiên chẵn liên tiếp là 94. Tìm hai số đó.
3.Kết quả:Với phương pháp dạy học như trên, tôi đã thật sự nhận thấy sự
tiến bộ ở HS của tôi trong việc giải toán. Với bất kỳ đối tượng HS nào, khi đã
được xác định đúng những bước đi như vậy, các em cũng sẽ không còn lúng
túng, ngỡ ngàng trước một bài toán giải mới. Kết quả trước và sau khi áp
dụng các bước dạy học này với đối tượng là học sinh lớp 4 trên thống kê điểm
khảo sát riêng phần giải Toán như sau :
Điểm
Đầu năm học
2009 – 2010
Cuối học kỳ 1
(2009 – 2010)
Giữa học kỳ 2
(2009 – 2010)
SL TL% SL TL% SL TL%
Giỏi 6 24% 10 40% 12 48%
Khá 9 36% 8 32% 9 36%
T.B 6 24% 5 20% 3 12%
Yếu 4 16% 2 8% 1 4%
9
Phần 3 : Kết luận
1 Bài học rút kinh nghiệm:
Tuy xác định cụ thể những bước đi cơ bản cho việc giải toán như vậy,
nhưng không hẳn trong giải toán, lúc nào HS cũng phải tuân theo đầy đủ các
bước như trên. Các em có thể lướt qua những bước mà các em đã nhuần
nhuyễn với những bài toán đơn giản để rút ngắn thời gian giải toán. Song, nếu
nắm vững các bước giải toán như vậy HS sẽ dễ dàng tiếp cận với nhiều dạng
toán giải khác nhau, giúp phát triển tư duy và bồi dưỡng khả năng giải toán ở
các em. Các bước giải toán như trên, chủ yếu vận dụng ở các tiết buổi chiều.
Giáo viên có thể đưa vào đây nhiều dạng toán giải khác nhau, giúp củng cố và

4. Cơ sở và thời gian tiến hành. Trang 1
Phần 2: Kết quả Trang 2
1. Thực trạng về giải toán có lời văn đối với HS Tiểu học. Trang 2
2. Nội dung giải pháp mới: Trang 2
2.1 Hướng dẫn HS đọc đề toán: Trang 2
2.2 Hướng dẫn học sinh tóm tắt đề toán: Trang 3
2.3 Hướng dẫn học sinh phân tích đề toán tìm cách giải: Trang 6
2.4 Hướng dẫn học sinh giải bài toán và thử lại kết quả: Trang 7
2.5 Hướng dẫn học sinh một số cách khai thác bài toán: Trang 7
3.Kết quả: Trang 9
Phần 3 : Kết luận Trang 9
1 Bài học rút kinh nghiệm: Trang 9
2 Kết luận: Trang 10
TÀI LIỆU THAM KHẢO Trang 11
12


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status