Từ Rượu Trong Văn Hoá Tây Nam Bộ - Pdf 17

Từ Rượu Trong Văn Hoá Tây Nam Bộ
Ban Biên Tập Binhtrung.net xin hân hạnh giới thiệu đến tất cả quý bạn loạt
bài biên khảo của Thạc Sĩ Trần Mạnh Thương.
Bài 1: Từ Rượu Trong Văn
Hoá Tây Nam Bộ Nhìn Về Sự Ảnh Hưởng Và Tiếp Biến Của Nó Trong Văn
Hoá Thăng Long - Hà Nội. Bài 2: Ca Dao Dưới Góc Nhìn Giọng Điệu. Bài
3: Vài Cảm Nhận Về Môtip "Đôi Ta " Trong Ca Dao Tây Nam Bộ.
Hôm
nay Binhtrung.net gởi đến quý bạn bài 1 trong loạt bài đó. Binhtrung.net xin
chân thành cám ơn Thạc sĩ Trần Minh Thương đã có một tấm tình rất tốt đẹp
dành cho Binhtrung.net. Quý bạn muốn trao đổi tham khảo ý kiến với Thạc
Sĩ Trần Minh Thương xin liên lạc : Th.S Trần Minh Thương
Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam
Địa chỉ: Trường THPT Mai Thanh Thế, Ngã Năm, huyện Ngã Năm, Sóc
Trăng;
ĐT: 0988092618. email:

TỪ RƯỢU TRONG VĂN HÓA TÂY NAM BỘ NHÌN VỀ SỰ ẢNH
HƯỞNG VÀ TIẾP BIẾN CỦA NÓ TRONG VĂN HÓA THĂNG
LONG – HÀ NỘI
1.Rượu trong văn hóa dân gian Tây Nam Bộ
1.1. Thời điểm rượu xuất hiện …
Khó có thể biết được rượu ra đời từ lúc nào, ở đâu, song nói về rượu, về tác
dụng chữa bệnh, về văn hóa uống rượu thì tất cả các dân tộc trên thế giới đều
có. Ở Việt Nam, rượu gắn với sinh hoạt cộng đồng, với các nghi lễ, hội hè,
đình đám, với những lời thề ước, nhưng nếu uống rượu quá đà cũng gây
nhiều phiền lụy
Lĩnh Nam chích quái cho rằng: Buổi mới dựng nước, đồ ăn của dân chưa đủ.
Lấy vỏ cây làm áo, dệt cói làm chiếu, lấy hèm gạo làm rượu, lấy bột quan
lang (cây dao) làm bánh, lấy thịt chim muông làm mắm, lấy gừng làm muối,
cấy bằng dao, đốt cỏ làm lửa, lấy ống tre để nấu cơm, gác gỗ làm nhà để

Người nông dân Tây Nam bộ lao động cần cù, dũng cảm. Thế hệ sau tiếp nối
thế hệ trước cải tạo những mảng đất bát ngát nhưng phèn chua và ngập
nước, phòng chống thú dữ trên rừng, chống lam chướng dưới nước để trồng
lúa, đánh bắt cá tôm, … Ở vùng đất giồng cao hơn thì trồng cây hái trái, …
trồng tỉa hoa màu, …Ðể tồn tại và phát triển tất yếu các gia đình nông dân
trong xóm ấp liên kết lại, lao động dần công (đổi cồng) cưu mang đùm bọc
trong cái nghĩa “bán anh em xa mua láng giềng gần”, giúp đỡ nhau chén
cơm manh áo, hột gạo của khoai, “tối lửa tắt đèn” có nhau.
Tuy cuộc sống vô cùng cơ cực ngày ngày lao động trên đồng ruộng, đêm
đêm nam nữ quây quần xay lúa, giã gạo, chài đôi, chài ba, rồi ca hát hoặc hò
đối đáp dưới ánh trăng, tình quê tuy mộc mạc nhưng thấm đậm nghĩa tình.
Những người nông dân có mặt ở vùng đất Tây Nam bộ này hơn 300 năm
trước đây là những nông dân đến từ nhiều vùng ở miền Trung, miền Bắc.
Một số ít người Hoa (nhó Minh Hương), chạy bỏ nhà Thanh, đến định cư
nơi này (theo Trần Thượng Xuyện, Dương Ngạn Địch, …), nhóm của dòng
họ Mạc ở Hà Tiên là hùng mạnh nhất.
Buổi đầu lập nghiệp trên vùng đất hoang sơ gặp muôn vàn khó khăn, thiếu
thốn, vất vả, … mồ hồi và cả máu của họ đã đổ xuống, thành quả đạt được là
những cánh đồng lúa vàng cò bay thẳng cánh, những vườn cây mát mắt trĩu
quả quanh năm, …Theo đó, mối quan hệ giữa người với người từ bốn
phương tụ hội trên mảnh đất này càng thêm ấm áp nghĩa tình. Tấm lòng
người nông dân Tây Nam bộ xưa nay luôn đức độ bao dung, sẵn sàng tha
thứ cho những ai biết hối cải lỗi lầm, nhưng cũng không tha thử kẻ gian ác,
điêu ngoa. Họ coi trọng nhân – nghĩa – trí – dũng – liêm, lòng thương người
bao la vô tận, nhưng rất ghét bọn gian tà, xu nịnh, những kẻ "tham phú phụ
bần". Tính cách khí khái “trọng nghĩa khinh tài”, “giữa đường dẫu thấy bất
bằng mà tha”, sự cương trực “ăn ngay, nói thẳng”, … đã góp phần tạo nên
bản sắc riêng trong đời sống của người dân miệt sông nước Cửu Long.
Gắn liền với đời sống sinh hoạt hàng ngày thức uống của họ ngoài nước
mưa, nước giếng, họ còn dùng trà hay các thứ rễ cây, lá cây pha nước để giải

Rượu nấu bằng nếp như chúng tôi đã miêu tả nên tên gọi đầu tiên của nó là
rượu nép. Dân gian còn gọi bằng nhiều tên khác như rượu trắng, rượu đế, …
Rượu trắng là dựa vào màu sắc của nước rượu. Cũng loại rượu ấy, nhưng
nhiều người nấu nếp than (loại nếp hạt đen) làm cơm rượu (xin nói thêm
cơm rượu này cũng là cơm nếp ngon, được vò viên tròn nhỏ cỡ đầu ngón
chân cái, ủ men, chan nước đường, dùng ăn chơi lũ nhàn nhã, thức ăn này có
loại men riêng, còn “cơm rượu” dùng để nấu rượu ít người “ăn nổi” bởi
nồng độ men của nó “nặng” hơn nhiều!), nghiền nát cho thêm nước có
đường vào pha chung tạo thành loại rượu có màu hồng sẫm, được gọi là
rượu nếp than.
Rượu nếp than đậm đặc rồi chôn xuống đất, … mấy tháng đào lên uống rất
ngon hơn nhiều lần, dân nhậu gọi là “lão tửu”!
Rượu trắng, rượu nếp than còn có những tên gọi khác: rượu đế, nước mắt
quê hương!
Tên gọi rượu đế được nhiều bậc lão nông tri điền miệt này giải thích rằng:
Đầu thập niên 1860, Pháp đến xâm chiếm vùng Sài Gòn – Gia Định, sau đó
lấn dần toàn cõi Nam kỳ lục tỉnh. Chúng ngang nhiên “cấm người bản xứ
nấu rượu” nhưng lại buộc dân ta uống “rượu Tây!”. Bà con ta tất nhiên là
không chịu để bọn thực dân đô hộ lộng quyền nên quyết định … nấu rượu
lậu. Rượu lậu vừa rẻ lại vừa ngon hơn rượu của Nhà nước thực dân, cơm
rượu được cho vào các hủ sành rồi đem giấu trong những lùm tranh, lùm đế
ở xa nhà, hoặc khi thấy Tây đoan đến bắt, nghe động thì bê tất cả nồi rượu,
bình rượu chạy vội dấu dưới đồng cỏ hoang dại mọc toàn cây đế, một loài
cây giống cỏ năn, cỏ lác, cỏ tranh, hay lau sậy mọc cao vút đầu. Từ đó, dân
gian gọi rượu này là rượu đế!
Nhưng xem ra không mấy bợm nhậu hiểu tường tần nguyên lai của hai tiếng
rượu đế này. Họ chỉ gọi
rượu đế là rượu vua. Dân nhậu tự xưng là con
Ngọc Hoàng, mà con Ngọc Hoàng thì không phải sợ ai cả!
Hiu hiu gió thổi đầu non

Ngoài những thứ rượu đế ngâm hoặc để nguyên chất uống, nhiều người còn
ngâm rượu để bóp chân tay, gân cốt, … thứ này không phổ biến, thường chỉ
có các thầy thuốc nam, hoặc các thầy dạy võ mới sử dụng!
1.4. Rượu trong lễ nghi, phong tục
Đối với người miệt sông nước, bất cứ nghi lễ nào cũng không thể thiếu …
rượu!
Trong cuộc đời con người, từ lễ đầy tháng, thôi nôi cho trẻ con mới sinh
cũng dùng rượu để cúng
mười hai mụ bà, mười ba đức thầy, cầu mong cho
trẻ mau lớn, khỏe mạnh!
Lễ cưới, hỏi của nam nữ thanh niên, rượu luôn luôn có mặt. Cách đây gần
thế kỷ, khi đi mời khách đến dự đám cưới, đám hỏi, nhiều gia đình khá giả,
hiểu lễ nghĩa thường cho người mặc áo dài, chít khăn đóng, mang theo mâm
trầu rượu đến nơi thì kính cẩn rót rượu mời gia chủ và sau đó mới trình thưa
chuyện. Ngày nay, trong thiệp hồng báo tin vui, người ta vẫn dùng câu …
Vui lòng đến dự tiệc RƯỢU, chung vui cùng gia đình chúng tôi, …. Trong
mọi hoạt động lẽ nghi của đám cưới, đám nói, luôn luôn có một chiếc bình
nhỏ và hai chiếc chung nhỏ (gọi là mâm trầu rượu). Muốn nói gì, thưa
chuyện gì chủ lễ đều phải rót rượu để trình rồi mới thưa chuyện, …
Cũng từ đó mà đôi tân lang tân giai nhân vui mừng ra mặt khi dâng chung
rượu cho đấng sanh thành:
Rượu lưu li chân quỳ tay rót,
Cha mẹ uống rồi nối gót theo anh.
Lễ tang, kết thúc một đời người, rượu cũng được dùng cúng tế, lễ cúng đám
giỗ thì sau
ba tuần rượu, hai tuần trà mới được … lui mâm! Khi đốt áo quần
vàng mả, đồ đốt cháy hết người ta rưới vào đó ít rượu với tâm niệm để người
dưới suối vàng … nhận lễ!
Ở các lễ hội cúng đình, cúng miễu, rượu cũng luôn luôn có mặt, và giữ vai
trò quan trọng về mặt nghi lễ! (Trừ lễ Phật ở chùa, bởi rượu là thứ giới cấm

trái ớt, … họ cũng nhậu được!
Về chỗ nhậu thì trong nhà, ngoài vườn, trên bờ mương, đầu ruộng, … miễn
là có chỗ ngồi được là xong.
Ở miệt này, thường uống bằng ly (loại dùng uống trà), kích cỡ lớn nhỏ khác
nhau. Uống rượu cũng có nhiều cách. Chơi
nguyên táo, tức là uống cạn cả
ly;
cưa hai cho đậm đà tình nghĩa, tức là người trước uống nửa ly, người sau
uống nửa ly còn lại. Theo cách uống này, thì ai lớn tuổi hơn được kính trọng
mời uống, người nhỏ hơn uống sau. Có khi, để tỏ rõ sự sòng phẳng trong
bàn nhậu họ tự giao
ai bưng ly nấy uống, như vậy đỡ tốn tiền đò! (tức
chuyền tới chuyền lui)
Nếu như ở nhiều nơi ngoài miền Bắc trong mâm rượu, mỗi người được
“phân” một chung, rượu rót đầy ai muốn uống sao thì tùy lượng, còn ở vùng
này ít khi uống rượu cách đó, cả mâm chỉ dùng chung một ly. Bàn rượu cử
“chủ xị” làm người cầm chai rót và chuyền. Chủ xị thường phải công bằng,
chuyền cho đủ và không được quên ai, kỵ nhất là “quên mình” (nếu xảy ra,
sẽ bị coi là ăn gian, bị phạt nặng). Muốn “từ chức”, chủ xị phải tự uống 3 ly,
ai cãi chủ xị, nếu sai cũng bị phạt 3 ly, nếu chủ xị (tức bỏ qua ai đó trong
mâm), sẽ bị phạt, … Uống rượu thì phải cạn đáy, ai uống còn sót lại chút ít,
bị cho là “kê tán” … sẽ bị cười, bị mất danh của … người nhậu!
Ai đến sau, hoặc về trước cũng bị phạt theo “luật”
vào ba, ra bảy (đi trễ
uống liên tiếp 3 ly, về trước thì phải “nốc” … 7 ly!),
Đánh giá tửu lượng, dân ăn nhậu truyền nhau bài vè:
Một ly nhâm nhi tình bạn
Hai ly giải cạn tình sầu
Ba ly mũi chảy tới râu
Bốn ly nằm đâu gục đó

Hoàng Mai, Vọng Thủy không qua rượu Vồi.
+ Em là con gái Kẻ Mơ
Em đi bán rượu tình cờ gặp anh
Hoàng Mai là một làng thuộc vùng Kẻ Mơ, có tên nôm là Mơ Rượu, thuộc
đất Hà Nội ngày nay.
Yên Ngưu đất thực là ương
Kẻ nấu rượu lậu, người tương đó mà
Làng Ngâu có tên chữ là Yên Ngưu, có nghề nấu rượu nổi tiếng, nay thuộc
xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội.
Lễ hội làng, đình đám, … rượu là nhân tố không thể thiếu, dân gian đã đúc
kết thành câu ca:
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè
Cưới hỏi lẽ tất nhiên là không thể thiếu được rượu. Có chàng trai đã hài
hước
Anh ngồi anh tính cũng vừa/ Cưới em đồng bạc còn thừa một xu, trong
đó, anh ta cũng dành “một ít” để mua rượu:
Hào tư anh để mua gà
Sáu xu mua rượu, hào ba đi tàu
Và, cuộc sống thường nhật rượu cũng … rất quan trọng:
Thế gian ba sự không chừa
Rượu nồng dê béo gái vừa đương tơ
Hay như:
Còn trời còn nước còn non
Còn cô bán rượu anh còn say sưa
Hình tượng của những “thiên tử” trong thời loạn hiện lên cũng thật thảm hại
dưới đáy chén rượu nồng:
Chúa Chổm uống rượu tì tì
Chết xuống âm phủ khác gì vua Ngô.
Giao tiếp, ứng xử, hình tượng rượu xuất hiện với tần số khá phổ biến, nó đã

(Nhớ Bắc - Huỳnh Văn Nghệ)
Chúng ta có thể thấy nét văn hóa trong chén rượu mà người Tây Nam Bộ
chịu ảnh hưởng rồi tiếp biến nó một cách linh hoạt để phù hợp nó với môi
trường sống, sinh hoạt ở vùng đồng bằng “cò bay thẳng cánh”, “kênh rạch
như bàn cờ” này là:
- Rượu là niềm tự hào về đặc sản của vùng miền
- Men rượu giúp con người thêm mạnh mẽ trong quá trình chinh phục thiên
nhiên, tạo sự hứng khởi, tăng hiệu quả trong lao động sản xuất. Rượu để
khuây khỏa tâm sự, u ẩn trong tâm hồn con người
- Rượu gắn liền với lễ nghi, phong tục, tập quán của cư dân Việt. Rượu trở
thành “đối tượng” để người hiện tại giao tiếp với người khuất mặt. Mượn
men rượu nhờ thánh thần chứng kiến con cháu hiện tiền làm ăn, chung sống
vẹn tình trọn nghĩa.
- Rượu thắt chặt tình thâm thủ túc, bằng hữu, người lạ hóa quen, nhiều khi
nhờ một ly rượu … tình cờ.
- Rượu để xua tan mùi xú khí, tà ma, …
- Rượu với những tác hại gây ra những hậu quả khôn lường mà dân gian đã
cảnh báo
Không thể tách rượu ra khỏi đời sống, rượu đã trở thành nét sinh hoạt độc
đáo, thú vị mà người bình dân tạo nên. Vấn đề là làm sao người dùng đủ
“tỉnh táo” sử dụng nó một cách hiệu quả và hợp lý nhất!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Nxb Tổng hợp Đồng Tháp, 1990
2.
Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng hợp
thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
3.
Trần Minh Thương, Rượu đế trong dân gian Tây Nam bộ dưới góc nhìn
văn hóa
, Tạp chí Nguồn sáng Dân gian, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam,


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status