Vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng - Pdf 17

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới và mở cửa do Đảng Cộng
sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, chúng ta càng thấy rằng sự lãnh đạo
của Đảng ta về đổi mới một cách toàn diện để đưa đất nước ta tiến lên, mà
trọng tâm là đổi mới về kinh tế là hoàn toàn đúng đắn. Sự đúng đắn đó thể
hiện bằng việc đã đưa đất nước ta ra khỏi khủng khoảng, nền kinh tế liên tục
tăng ổn định với tốc độ cao, đời sống của đại đa số nhân dân không ngừng
được cải thiện; vị thế và tiếng nói của dân tộc ta luôn được nâng cao trên
trường quốc tế.
Về kinh tế, trước hết là sự lãnh đạo của Đảng trong việc phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng Xã hội
chủ nghĩa. Lãnh đạo nền kinh tế theo cơ chế thị trường đồng nghĩa với việc
phải luôn tuân thủ những quy luật khách quan của thị trường nói chung và của
từng loại thị trường nói riêng. Trong đó, vai trò của nhà nước là hết sức quan
trọng đối với việc phát huy những thế mạnh của thị trường, thúc đẩy sự ra đời
và phát triển của từng loại thị trường; khai thác những mặt mạnh, những ưu
thế của nó, đồng thời hạn chế những tiêu cực, những tồn tại vốn có của cơ chế
thị trường, nhằm mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Trong những năm qua, chúng ta đã từng bước thúc đẩy các loại thị
trường ra đời và phát triển. Tuy nhiên, hầu hết các loại thị trường của nước ta
đều còn rất mới mẻ, họat động còn yếu. Thị trường sức lao động không nằm
ngoài những đặc trưng đó.
Thị trường sức lao động của nước ta còn yếu về mọi mặt biểu hiện ở
chỗ: cung cầu về sức lao động mất cân đối trầm trọng, chất lượng lao động
còn kém, các kênh giao dịch việc làm chưa phát triển, thông tin thị trường sức
1
lao động còn sơ khai, vẫn còn một khoảng cách khá xa giữa người mua
và người bán sức lao động. Điều đó biểu hiện ra bên ngoài là người cần sức
lao động không biết chỗ mua và ngược lại người cần bán sức lao động không

Luận văn nhằm đạt được những mục đích sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò nhà nước trong
việc phát triển thị trường sức lao động. Khảng định tính tất yếu và nội dung
nâng cao vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố
Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay-giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
phát triển kinh tế thị trường và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phân tích, đánh giá thực trạng vai trò nhà nước trong phát triển thị
trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng. Từ đó, tìm ra những ưu điểm,
hạn chế và nguyên nhân hạn chế của vai trò nhà nước trong phát triển thị
trường sức lao động thời gian qua ở thành phố Hải Phòng.
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng, đề xuất những phương
hướng và giải pháp nhằm tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị
trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn lấy vai trò nhà nước đối với sự hình thành và phát triển của
thị trường sức lao động ở Hải Phòng làm đối tượng nghiên cứu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố
Hải Phòng giai đoạn từ năm 2001-2005, khi nghiên cứu thực trạng và đề xuất
phương hướng, giải pháp đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
- Tham khảo nghiên cứu vai trò nhà nước đối với thị trường sức lao
động một số địa phương của Việt Nam, có tính đến vai trò nhà nước đối với
thị trường sức lao động một số nước trên thế giới.
3
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn lấy phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm
phương pháp luận chung, đặc biệt trực tiếp vận dụng phương pháp trừu tượng
hóa-phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị để tiếp cận đối tượng nghiên
cứu. Ngoài ra, luận văn còn vận dụng các phương pháp hệ thống, phân tích

Có rất nhiều khái niệm về thị trường sức lao động, mỗi khái niệm có
những đặc điểm riêng phụ thuộc vào những điều kiện, hoàn cảnh, vị trí nhất
định của các tổ chức hoặc các nhà khoa học đưa ra.
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì: “Thị trường sức lao động là
thị trường trong đó có các dịch vụ lao động được mua và bán thông qua quá
trình để xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ tiền
công”. Khái niệm này nhấn mạnh đến các dịch vụ lao động được xác định
thông qua việc làm được trả công.
Các nhà khoa học Mỹ cho rằng: “ Thị trường mà đảm bảo việc làm cho
người lao động và kết hợp giải quyết trong lĩnh vực việc làm thì được gọi là
thị trường sức lao động”.
Các nhà khoa học kinh tế Nga thì lại cho rằng: “Thị trường sức lao
động được hiểu như một hệ thống quan hệ xã hội, những định mức và thể chế
xã hội (trong đó có cả pháp luật), đảm bảo cho việc tái sản xuất, trao đổi và sử
dụng lao động”.
Theo một số nhà khoa học kinh tế Việt Nam thì khái niệm trên được
phát biểu: “Thị trường sức lao động là toàn bộ các quan hệ lao động được xác
lập trong lĩnh vực thuê mướn lao động (nó bao gồm các quan hệ lao động cơ
bản nhất như thuê mướn và sa thải lao động, tiền lương và tiền công, bảo
hiểm xã hội, tranh chấp lao động), ở đó diễn ra sự trao đổi, thoả thuận giữa
một bên là người lao động tự do và một bên là người sử dụng lao động”.
5
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về thị trường sức lao động,
do cách tiếp cận khác nhau, song các quan điểm trên đều thống nhất với nhau
về nội dung cơ bản để tạo nên thị trường sức lao động đó là: không gian, địa
điểm, người bán sức lao động, người mua sức lao động, giá cả sức lao động
và những ràng buộc giữa các bên tham gia thị trường này.
Thực tế cho thấy, các quốc gia phát triển kinh tế theo mô hình kinh tế
thị trường có những xuất phát điểm khác nhau; có những đặc điểm về kinh tế,
chính trị, xã hội khác nhau. Do đó, khác nhau về trình độ phát triển thị trường

đổi vật ngang giá lấy vật ngang giá’’.
Từ đó có thể rút ra : Thị trường sức lao động là một thị trường hàng
hoá, là nơi diễn ra việc trao đổi mua bán hàng hoá sức lao động, người sử
dụng và người sở hữu sức lao động trao đổi với nhau thông qua một bản hợp
đồng, trong đó xác định quyền tự do, bình đẳng của các chủ thể sở hữu và
theo nguyên tắc trao đổi ngang giá. Ở đây, giá cả của hàng hoá sức lao động
biểu hiện dưới hình thái tiền công và tiền công chịu sự điều tiết của các quy
luật thị trường, trong đó quan hệ cung và cầu lao động là cơ chế tác động trực
tiếp tới sưc thay đổi của tiền công.
Như vậy, trên thị trường sẽ hình thành những quan hệ về việc làm, nó
xác định nội dung đích thực của thị trường sức lao động như thị trường việc
làm.
Tóm lại, có thể quan niệm một cách chung nhất về thị trường sức lao
động như sau : ‘‘Thị trường sức lao động là một bộ phận của hệ thống thị
trường, trong đó diễn ra quá trình trao đổi giữa một bên là người lao động tự
do (người bán sức lao động) và một bên là người có nhu cầu sử dụng sức lao
động (người mua sức lao động). Sự trao đổi này được thỏa thuận trên cơ sở
các mối quan hệ như: tiền công, tiền lương, điều kiện làm việc, bảo hiểm xã
hội, ... thông qua một hợp đồng lao động bằng văn bản hoặc bằng miệng’’.
7
1.1.1.2. Các yếu tố cấu thành thị trường sức lao động.
Nói đến thị trường sức lao động là nói đến mối quan hệ giữa người có
sức lao động có thể tìm được việc làm để có thu nhập và người sử dụng sức
lao động có thể thuê được công nhân bằng cách trả công để tiến hành sản
xuất-kinh doanh. Trên thị trường sức lao động, mức cung, cầu về sức lao
động ảnh hưởng tới tiền công lao động. Đối tượng tham gia thị trường sức lao
động bao gồm: những người chủ sở hữu tư liệu sản xuất, có nhu cầu sử dụng
sức lao động và những người có nhu cầu bán sức lao động có thể có việc làm
và thu nhập.
Từ đó ta thấy: Thị trường sức lao động được cấu thành bởi 3 yếu tố cơ

+ Hai là : Tỷ lệ dân số tham gia thị trường sức lao động, tức là tỷ lệ dân
số từ đủ 15 tuổi trở lên tham gia thị trường sức lao động. Khi tỷ lệ này tăng
thì cung sức lao động sẽ tăng và ngược lại.
+ Ba là, sự di cư lao động, đây là yếu tố có tác động tức thì đến cung
sức lao đông. Nó có thể làm tăng hoặc làm giảm đột ngột đối với cung sức lao
động ở vùng nhập cư và vùng xuất cư.
*. Cầu về sức lao động:
Cầu về sức lao động là nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một
địa phương, một ngành hay một doanh nghiệp với những mức tiền công khác
nhau trong một khoảng thời gian nhất định. Nhu cầu này thể hiện qua khả
năng thuê mướn lao động trên thị trường sức lao động.
Cầu về sức lao động được chia làm hai loại :
+ Cầu thực tế về sức lao động: Là nhu cầu thực tế cần sử dụng sức lao
động tại một thời điểm nhất định.
+ Cầu tiềm năng về sức lao động: là nhu cầu lao động cho tổng số chỗ
làm việc có thể có sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tạo
9
việc làm trong tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ và
các điều kiện khác.
Cầu tiềm năng về sức lao động = cầu thực tế về sức lao động + số chỗ
làm việc sẽ được tạo ra trong tương lai.
Giống như cung về sức lao đông, cầu về sức lao động cũng được xem
xét cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu:
- Về số lượng: Cầu về sức lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và tốc
độ phát triển sản xuất, nếu năng xuất lao động xã hội không đổi và nó tỷ lệ
nghịch với năng xuất lao động xã hội, nếu quy mô sản xuất không đổi.
- Về chất lượng: Cầu về chất lượng lao động ngày một nâng cao trước
sự đòi hỏi của việc nâng cao năng xuất lao động, mở rộng quy mô sản xuất,
tăng khả năng cạnh tranh . . .
- Về cơ cấu: Cầu lao động cũng được xem xét theo các tiêu chí: lứa

phẩm làm từ công nghệ nhiều lao động thì cầu về sức lao động sẽ tăng và
ngược lại.
Ngoài ra, cầu về sức lao động còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác
như: tình hình kinh tế, chính tri, xã hội (ảnh hưởng đến việc mở rộng hay thu
hẹp sản xuất, khuyến khích hay hạn chế đầu tư ...) ; yếu tố tiền công lao động
(khi tiền công lao động tăng lên cầu về sức lao động có xu hướng giảm và
ngược lại), và các yếu tố tạo ra việc làm như: đất đai, vốn, trình độ tổ chức
quản lý, tôn giáo, phong tục tập quán...
*. Giá cả sức lao động:
Tiền công là giá cả sức lao động, là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị
sức lao động; cũng như các loại hàng hoá khác, giá cả hàng hoá sức lao động
không chỉ bị quy định bởi giá trị của nó, mà còn chịu ảnh hưởng của quan hệ
cung -cầu sức lao động. Khi cung vượt quá cầu thì giá cả sức lao động sẽ thấp
11
hơn giá trị sức lao động và ngược lại. Mối quan hệ cung-cầu trên thị
trường sức lao động sẽ dẫn đến việc xác định giá cả sức lao động.
*. Mối quan hệ giữa giá cả và cung -cầu trên thị trường sức lao động.
- Sự hoạt động của thị trường sức lao động được thể hiện thông qua mối
quan hệ giữa giữa giá cả và cung, cầu trên thị trường sức lao động.
Cung, cầu và giá cả sức lao động có mối quan hệ qua lại với nhau trên
thị trường sức lao động. Nếu cung phù hợp với cầu và cung-cầu điều chỉnh
linh hoạt theo tiền công thì thị trường sức lao động vận hành có hiệu quả, thất
nghiệp không xảy ra. Nếu mức cung cao hơn mức cầu thì lao động sẽ thừa,
tiền công giảm xuống và ngược lại. Mặt khác, quan hệ cung cầu về sức lao
động cũng được điều tiết phù hợp với quy luật giá trị. Việc hạ giá hay tăng giá
hàng hoá sức lao động cũng tác động đến cung và cầu. Giá cả của sức lao
động cũng như ‘cái van’ điều chỉnh quan hệ cung, cầu sức lao động.
Cơ sở khách quan của những biến động trong mối quan hệ cung cầu và
giá cả sức lao động là trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội và giá trị
hàng hoá sức lao động. Ngoài ra, chúng còn chịu sự tác động của nhà nước

làm chủ từng phần khả năng lao động-sức lao động của người lao động, mà
hoạt động trong một khoảng thời gian nhất định.
- Giữa người bán và người mua sức lao động có trách nhiệm phối hợp
hành động tương đối dài với nhau. Người lao động như một cá thể, có thể tự
kiểm soát chất lượng công việc của mình với những nỗ lực khác nhau, thể
hiện mức độ trung thực khác nhau với chủ sử dụng lao động đã thuê họ.
Người thuê phải tính đến những yếu tố đó để quản lý sản xuất, nghĩa là phải
xây dựng một cơ chế đãi ngộ, kích thích, tạo động lực đối với người lao động
một cách phù hợp như: điều kiện làm việc, tiền lương, tiền thưởng và các
phúc lợi xã hội khác.
13
- Thị trường sức lao động tồn tại một số cấu trúc thể chế loại đặc
biệt (hệ thống pháp luật phân nhánh, những chương trình kinh tế - xã hội, dịch
vụ việc làm các tổ chức công đoàn, liên hiệp hội các nhà doanh nghiệp, v.v..)
sinh ra đặc thù quan hệ giữa các chủ thể của thị trường sức lao động. Vì vậy,
cần phải thể chế hóa thật chi tiết mọi hướng hoạt động khác nhau của họ.
- Chất lượng lao động ở từng người lao động có khác nhau theo giới
tính, tuổi tác, thể lực, trí tuệ, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác, động
lực làm việc v.v… Vì vậy, mức độ cá thể hóa cao khi ký kết giao kèo, gắn với
trình độ chuyên môn khác nhau của sức lao động, sự đa dạng của công nghệ
và tổ chức lao động, nên việc đánh giá chất lượng lao động khi tuyển dụng,
trả công phù hợp cho từng người gặp nhiều khó khăn và phức tạp;
- Trong trao đổi hàng hóa sức lao động có nhiều điểm khác so với trao
đổi hàng hóa vật chất. Quá trình trao đổi sức lao động so với trao đổi hàng
hóa vật chất được bắt đầu trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa - quyền sử dụng
khả năng lao động được chuyển sang người mua theo những gì đã được ấn
định trong hợp đồng hay thoả ước lao động tập thể. Quá trình trao đổi được
tiếp tục trong sản xuất dưới hình thức trao đổi sức lao động đang hoạt động,
lao động thực tế thành lương danh nghĩa và kết thúc trong lĩnh vực lưu thông
của cải vật chất, có nghĩa là trên thị trường hàng hóa và dịch vụ được trao đổi

hợp của họ. Sự cạnh tranh của các ông chủ trên thị trường sức lao động sẽ bắt
buộc họ không chỉ duy trì mức lương đã đặt ra, mà còn tạo ra những môi
trường làm việc thuận lợi, thể hiện sự quan tâm nhất định về thoả mãn những
nhu cầu cần thiết và đảm bảo những quan hệ qua lại bình thường trong tập thể
lao động giữa những người lao động, cũng như giữa lãnh đạo và nhân viên.
- Thứ tư, khi ký kết hợp đồng lao động bằng miệng hoặc trên văn bản
giữa người thuê lao động với người lao động, vấn đề được xem xét không chỉ
thoả thuận về mức lương và thời gian làm việc, mà còn cả chế độ nghỉ phép,
15
chế độ nâng lương, chế độ khen thưởng, ốm đau và cả bảo hiểm xã
hội cộng với những ưu đãi khác.
- Thứ năm, thị trường sức lao động đảm bảo việc phân chia và sắp xếp
lại dân số tích cực kinh tế trong trường hợp cải cách cấu trúc nền kinh tế hiện
nay ở Việt Nam. Vấn đề này đặc biệt quan trọng và khó khăn khi đất nước
bước vào thời kỳ mới; các doanh nghiệp chịu sự sắp xếp lại theo chiều hướng
khác nhau: sáp nhập, giải thể, liên kết, liên doanh, cổ phần hoá, cho thuê hoặc
bán doanh nghiệp, đã làm cho số người mất việc làm trong các doanh nghiệp
nhà nước tới hàng triệu người. Bên cạnh đó, sự cho phép hình thành và phát
triển đa dạng các loại hình sở hữu, nhiều doanh nghiệp mới ra đời đã giải
quyết nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động và cả những người dôi dư
từ khu vực nhà nước trong nhiều năm qua. Tỷ trọng lao động trong các thành
phần kinh tế, các ngành nghề, khu vực dân cư dần dần được thay đổi theo cơ
cấu ngày càng hợp lý, uyển chuyển, thích ứng và phù hợp với cấu trúc mới
của nền kinh tế.
- Thứ sáu, thị trường sức lao động làm tăng tính cơ động của lao động
giữa các doanh nghiệp trong một ngành, giữa các ngành và các khu vực với
nhau. Trong thời kỳ đầu của cải cách kinh tế ở Việt Nam, dòng chuyển động
này vẫn chưa mang tính cơ động cao vì hàng loạt những nguyên nhân như
tính ỷ lại và trông chờ vào sự sắp xếp công việc của nhà nước là thói quen đã
ăn sâu vào tiềm thức của cả thế hệ người lao động từ thời kinh tế bao cấp, thói

việc làm đầy đủ cho lao động xã hội.
- Nhà nước đảm bảo các điều kiện để thị trường sức lao động vận hành
thắng lợi, đảm bảo công bằng xã hội, khắc phục sự phân hóa giàu nghèo quá
mức, bảo vệ nhóm lao động yếu thế, giảm thiểu rủi ro cho thị trường sức lao
động.
17
Trong nền kinh tế thị trường, định hướng Xã hội chủ nghĩa, sự
phát triển của thị trường sức lao động (một bộ phận của hệ thống thị trường)
chịu sự tác động của các thể chế, chính sách cũng như các công cụ vĩ mô khác
của nhà nước can thiệp vào nhằm hạn chế mặt trái của thị trường này và thúc
đẩy nó phát triển theo những mục tiêu đã định. Thị trường sức lao động không
thể phát triển mạnh nếu không có sự ổn định của môi trường chính trị, tách
rời của quản lý nhà nước.
Hệ thống các loại thị trường nói chung (trong đó có thị trường sức lao
động) ở Hải Phòng cũng như trong cả nước còn đang trong giai đoạn hình
thành và phát triển. Do đó, cần thiết phải tăng cường vai trò nhà nước đối với
việc phát triển các loại thị trường, đặc biệt là thị trường sức lao động. Khi thị
trường sức lao động phát triển, nó có vai trò tiên phong lôi kéo các loại thị
trường khác cùng phát triển.
Tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở
Hải Phòng là một vấn đề cần thiết, có tính khách quan, do những nguyên nhân
chủ yếu sau:
1.2.1.1. Tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức
lao động ở Hải Phòng do yêu cầu tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường
trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng và phát triển một hệ thống thị trường đầy đủ, đồng bộ có vai
trò đặc biệt quan trọng và là một yêu cầu khách quan đối với nước ta nói
chung, thành phố Hải Phòng nói riêng trong giai đoạn hiện nay. Thực tế cho
thấy, hệ thống thị trường với tư cách là tổng hòa những quan hệ kinh tế khách
quan. Trong một chừng mức nhất định, tự nó đang dần dần phát triển, hoàn

Ở Hải Phòng, Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành
phố đã nhận rõ tầm quan trọng của việc “tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị
trường trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, định hướng Xã hội chủ
19
nghĩa”, nên luôn quan tâm chỉ đạo thực hiện việc hình thành, phát triển
đồng bộ hệ thống thị trường trên địa bàn thành phố, đặc biệt quan tâm phát
triển các thị trường mới còn manh nha, yếu kém như: thị trường sức lao động,
thị trường vốn, thị trường khoa học và công nghệ ... thành phố luôn định
hướng, hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các loại thị trường phát triển,
từng bước hoàn thiện trong mối quan hệ tương hỗ và thúc đẩy nhau cùng phát
triển.
1.2.1.2. Tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức
lao động ở Hải Phòng để đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghịêp hóa,
hiện đại hóa đất nước:
Cả lý luận và thực tiễn đều khảng định rằng: công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là con đường duy nhất, tất yếu của nước ta để thoát khỏi tình trạng nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa, với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự hình thành và phát
triển nền kinh tế tri thức trên thế giới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
được Đại hội X của Đảng xác định: “ ...tranh thủ thời cơ thuận lợi do bối cảnh
quốc tế tạo ra và tiềm năng lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công
nghịêp hóa-hiện đại hóa đất nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa gắn liền
với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền
kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Để đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và thành phố, Hải Phòng luôn chú trọng đến các nhân tố tác động đến
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kể cả nhân tố bên trong (như vốn, khoa học
công nghệ, nguồn nhân lực, cơ chế chính sách, kết cấu hạ tầng kinh tế) và các
nhân tố bên ngoài (như: vốn, công nghệ tiên tiến, thị trường quốc tế ...). Trong

để xứng đáng là thành phố cảng, công nghiệp hiện đại; là đô thị trung tâm
21
quốc gia; đầu mối giao thông quan trọng và cửa chính ra biển của các
tỉnh phía Bắc; một cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế động lực phía
Bắc; một trọng điểm phát triển kinh tế biển; một trong những trung tâm công
nghiệp, thương mại lớn của cả nước và trung tâm dịch vụ, du lịch, thủy sản,
giáo dục và y tế của vùng duyên hải Bắc bộ”.
Các mục tiêu cụ thể là: Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng đạt mức
tăng trưởng 14%/năm; lĩnh vực dịch vụ đất đạt tốc độ tăng trưởng 14,2% (giai
đoạn 2006-2010); 14,4% (giai đoạn 2011-2020)lĩnh vực nông-lâm-thủy sản
đạt tốc độ tăng trưởng 5,5% (giai đoạn 2006-2010); 6,4% (giai đoạn 2011-
2020); tốc độ tăng trưởng GDP bình quân từ 13 -13,5% (giai đoạn 2006-
2010) và 13,5-14% giai đoạn 2011-2020.
Cơ cấu kinh tế chung của Hải Phòng chuyển dịch theo hướng tăng dịch
vụ, công nghịêp-xây dựng và giảm lĩnh vực nông-lâm-thủy sản cụ thể là: giai
đoạn 2006-2010, tỷ trọng dịch vụ 52-53%, công nghiệp-xây dựng: 30-40%,
nông-lâm-thủy sản: 7-8%. Giai đoạn 2011-2020, tỷ trọng dịch vụ chiếm 63-
64%, công nghiệp-xây dựng:33-34%, nông-lâm-thủy sản:3-4%.
Kim ngạch xuất khẩu đạt 1,9-2 tỷ USD vào năm 2010 và khoảng 6 tỷ
USD vào năm 2020.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 5% vào năm 2010.
Trên 90% hộ nông thôn dùng nước sạch; 100% số hộ có điện sử dụng.
Cơ bản hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung học và nghề vào năm
2008.
Tỷ lệ qua đào tạo ở các trình độ đạt 60-65% trong tổng số lao động
trong độ tuổi vào năm 2020.
Với mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội như trên, đặt ra nhu cầu rất lớn
về lực lượng lao động (cả số lượng, chất lượng, quy mô, cơ cấu ...). Do đó, để
có đủ lực lượng lao động cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong kỳ quy
hoạch và đáp ứng nhu cầu tăng trưởng theo mục tiêu đề ra, đòi hỏi Hải Phòng

nước mà còn phải vươn ra thị trường quốc tế, nhất là trong giai đoạn hiện
nay nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Công tác đào tạo nguồn
nhân lực cần được đen xen với các chương trình khác để đảm bảo nâng cao
thể lực cho người lao động cả về cân nặng và chiều cao.
Để đảm bảo nâng cao chất lượng và số lượng cung sức lao động trên
địa bàn Hải Phòng, một yếu tố không thể không tính đến đó là việc tiếp nhận
lao động từ nước ngoài vào làm việc, khi mà chất lượng lao động của Hải
Phòng còn nhiều yếu kém, tình trạng thiếu lao động có trình độ quản lý, lao
động có tay nghề cao để đáp ứng cho các doanh nghiệp khá phổ biến. Các cơ
quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân thành phố, đặc biệt là các sở: Sở Lao
động Thương binh và Xã hội,Công an, Y tế, Tư Pháp cần phối hợp chặt chẽ
trong việc xây dựng kế hoạch tiếp nhận lao động nước ngoài vào làm việc để
bù đắp sự thiếu hụt lao động có tay nghề cao hiện nay. Bên cạnh đó, phải kiên
quyết không để các doanh nghiệp tự do tuyển chọn lao động phổ thông là
người nước ngoài vào làm việc trên địa bàn thành phố.
1.2.2.2. Tăng cường vai trò nhà nước trong việc nâng cao chất lượng,
số lượng cầu của thị trường sức lao động.
Cung và cầu sức lao động trên thị trường có mối quan hệ biện chứng
với nhau. Khi chất lượng cầu sức lao động đòi hỏi ở mức độ nào thì kéo theo
cung sức lao động phải biến động cho phù hợp với cầu.
Số doanh nghiệp trên địa bàn Hải Phòng (cầu sức lao động) hiện nay
còn ít, quy mô doanh nghiệp còn nhỏ bé, bình quân mỗi doanh nghiệp khoảng
50 lao động, phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, họat động gia công là chủ
yếu, giá trị gia tăng thấp, khả năng đầu tư phát triển sản xuất, thu hút lao động
hạn chế, tiền lương thấp, điều kiện lao động khó khăn ảnh hưởng đến quan hệ
lao động trong doanh nghiệp.
Như vậy, với số lượng và chất lượng trên đây của các doanh nghịêp
(cầu sức lao động) có thể thấy rằng, chất lượng cầu đòi hỏi không cao. Do đó,
24
Hải Phòng cần tăng cường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status