báo cáo (tóm tắt) đề tài - xây dựng hệ thống danh pháp và thuật ngữ hóa học việt nam ( phần danh pháp ) - Pdf 17

Báo cáo (tóm tắt) Đề tài:
XÂY DỰNG HỆ THỐNG DANH PHÁP VÀ THUẬT NGỮ
HÓA HỌC VIỆT NAM
(PHẦN DANH PHÁP)
Mở đầu
Đề tài “Xây dựng hệ thống Danh pháp và Thuật ngữ hóa học Việt
Nam” (dưới đây gọi tắt là Đề tài) do Hội Hóa học Việt Nam chủ trì (Liên
hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam quản lý) có ý nghĩa rất lớn đối
với những người học Hóa học, dạy và nghiên cứu Hóa học, sản xuất hóa
chất cũng đối với tất cả những người làm việc trong các lĩnh vực liên quan
đến Hóa học và hoá chất.
Từ khi đất nước ta tiếp cận với các lĩnh vực khoa học tự nhiên đã có
nhiều học giả quan tâm đến việc phiên chuyển các thuật ngữ khoa học sang
tiếng Việt, mà người có đóng góp lớn nhất là GS Hoàng Xuân Hãn. Những
đề xuất của GS Hoàng Xuân Hãn đã đặt nền móng cho việc “Việt hóa” các
danh từ khoa học, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của các ngành
khoa học tự nhiên, trong đó có Hoá học, ở nước ta. Sau GS Hoàng Xuân
Hãn, nhất là sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, ở miến bắc cũng
như miền nam đã có những văn bản cấp bộ quy định cách phiên chuyển và
gọi tên các nguyên tố, tên các hợp chất hóa học cũng như dịch hoặc phiên
chuyển các thuật ngữ hóa học từ tiếng nước ngoài, trong đó với tư cách là
những nhà hóa học tiêu biểu, các GS Nguyễn Thạc Cát và Lê Văn Thới đã
có những đóng góp quan trọng. Sau năm 1975 đã có một số hội thảo bàn về
danh pháp và thuật ngữ, trong đó có đề cập đến danh pháp và thuật ngữ hóa
học. Bộ Giáo dục cũng đã ban hành quy định về chính tả tiếng Việt và thuật
ngữ tiếng Việt. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay chúng ta vẫn chưa có một
hệ thống danh pháp và thuật ngữ hoá học thống nhất, đặc biệt là việc viết tên
các nguyên tố và hợp chất hoá học khá tùy tiện, ngay đối với từng cá nhân
cũng ít khi nhất quán. Trong giới đại học và nghiên cứu tình trạng đó khá
nặng nề. Sinh viên và nghiên cứu sinh không biết viết thế nào cho đúng, thầy
giáo không biết nên sửa như thế nào, thậm chí, trong một công trình khoa

• Tính kế thừa.
Về tổng thể, đã có sự thống nhất ý kiến cao đối với các nguyên tắc
nêu trên. Tuy nhiên, nhiều đề xuất và phương án khác nhau hết sức phong
phú đã xuất hiện khi vận dụng các nguyên tắc đó vào việc đặt ra những quy
tắc cụ thể của hệ thống danh pháp, đặc biệt là những quy tắc phiên chuyển
tên gọi các nguyên tố hóa học và các hợp chất hóa học từ tiếng nước ngoài
ra tiếng Việt.
Tính hệ thống và tính nhất quán, về bản chất, cũng là tính khoa
học, cho nên đảm bảo tính khoa học là nguyên tắc quan trọng nhất. Và nếu
đảm bảo được tính khoa học thì cũng đồng thời làm cho các nguyên tắc về
tính hệ thống và tính nhất quán dễ dàng được tuân thủ. Để các nguyên tắc
trên đây ít bị vi phạm thì khi xây dựng các quy tắc cụ thể cần tránh có nhiều
ngoại lệ. Đây là việc làm rất khó khi phải xây dựng một hệ thống danh pháp
khoa học trong hệ thống ngôn ngữ tiếng Việt trên cơ sở chất liệu và quy tắc
của một số ngôn ngữ cổ điển và hiện đại phương Tây.
2
Về tính dân tộc và phổ cập phải được hiểu, đây là hệ thống danh
pháp hoá học Việt Nam, áp dụng cho người Việt Nam. Trong quá trình thảo
luận nhiều ý kiến đã đề cập đến nguyên tắc này và nhận thức chung cho
rằng, hệ thống danh pháp này được xây dựng lên không phải chỉ để cho các
nhà khoa học sử dụng, nhưng cũng không phải để phục vụ rộng rãi cho mọi
người dân trong xã hội. Đây là một hệ thống danh pháp khoa học; nó là một
thành tố của hệ thống thuật ngữ tiếng Việt, nhưng có thể có những đặc thù
riêng của một tiểu hệ thống có chứa một số thành tố vay mượn. Vì vậy, tính
dân tộc và tính phổ cập cũng cần phải được hiểu trong khuôn khổ là để đáp
ứng nhu cầu của một số tầng lớp cư dân nhất định, chứ không phải đối với
toàn xã hội. Thực tế thì sự tiếp cận của đại đa số dân chúng đối với các thuật
ngữ hoá học cũng chỉ hạn chế trong một số hoá chất và quá trình công nghệ
hết sức thông dụng; đối với những thuật ngữ này, như đã trình bày ở trên, sẽ
áp dụng hai phương án phiên chuyển. Đối với học sinh trung học bắt đầu

đặt nền móng và hướng dẫn các thế hệ nối tiếp hoàn thiện hệ thống danh
pháp và thuật ngữ hoá học. Nhưng thế hệ hiện nay cũng không có quyền
dừng lại chỉ ở những thành quả mà các thế hệ đi trước đã khai phá và để lại.
Bởi vì, so với khoảng 50 – 60 năm trước đây, các ngành khoa học đã được
phát triển đến mức mà có lẽ lượng thông tin đã tăng lên rất nhiều lần. Riêng
số lượng các hợp chất hoá học hiện nay đã lên tới nhiều chục triệu. Trong
lúc đó nhu cầu giao lưu giữa các quốc gia đã thu hút không phải chỉ hàng
trăm, ngàn nhà hoá học như trước đây, mà nhu cầu đó đã trở nên bức thiết
đối với hàng triệu người làm hóa học trên toàn thế giới, trong đó có rất nhiều
người không phải là chuyên nghiệp. Cho nên, đối với tất cả các lĩnh vực
khoa học trên toàn thế giới, không có ngoại lệ cho bất kỳ ở một quốc gia
nào, những người có liên quan đến hoá học và công nghệ hoá học đều đang
trong quá trình hội nhập. Trong Hoá học và Công nghệ hoá học hệ thống
danh pháp IUPAC đang ngày càng được áp dụng rộng rãi, trở thành nền tảng
của hệ thống danh pháp ở nhiều quốc gia. Chúng ta hết sức trân trọng những
di sản có tính khai phá của các bậc tiền bối, đồng thời thừa kế có chọn lọc di
sản đó để phát triển và mở rộng các quy tắc phiên chuyển và đặt tên các đơn
chất và hợp chất hoá học, đáp ứng đòi hỏi của thực tế nhu cầu phát triển
khoa học-công nghệ và kinh tế-xã hội của đất nước.
Đề tài đang được thực thi trong bối cảnh xã hội cũng rất đáng được
quan tâm. Không kể việc sử dụng tiếng Anh trong xã hội hiện nay, trước hết
là trên các phương tiện truyền thông đại chúng, đang trở nên ngày càng phổ
biến và cũng rất tuỳ tiện (do không có sự chỉ đạo thống nhất), quan điểm coi
tiếng Anh là ngoại ngữ chính, thậm chí là ngoại ngữ phổ cập, đã được chấp
nhận rộng rãi. Có thể coi giai đoạn ngập ngừng trong việc coi tiếng Anh là
đòi hỏi bức bách trong các biện pháp thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của
đất nước trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và cạnh tranh ngày càng khốc liệt
đã qua. Thực tế, sự yếu kém tiếng Anh đang là rào cản quá lớn không phải
chỉ trong công việc của các nhà chính trị hay văn hoá-xã hội, mà ngay đối
với hàng triệu người lao động để có thể tạo ra năng suất lao động cao hơn,

hoá chất chưa thống nhất, lộn xộn và tuỳ tiện. Đặc biệt, trong các giáo trình,
sách chuyên khảo và các luận án, luận văn, các bài báo đăng trên các tạp chí
khoa học , tình trạng chung là các tác giả lúng túng dẫn đến sự không nhất
quán ngay trong một công trình và tự xử lý theo cách nghĩ của mình.
Nguyên nhân của tình trạng này có thể có nhiều, ví dụ tác giả không nắm
được những quy tắc chính thống (ví dụ, quy định của Uỷ ban Khoa học Nhà
nước trước đây), tuy nhiên nguyên nhân chính là các quy định có tính chính
thống (cả ở miền bắc và ở miền nam) có nhiều yếu tố chưa hợp lý. Có thể
tóm tắt các quy định có tính chính thống hiện nay như sau:
1/ Quy định của Uỷ ban Khoa học Nhà nước. Các quy định này (chủ yếu
dựa vào gốc tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, tuỳ trường hợp cụ thể và quen
dùng) được thể hiện tương đối nhất quán trong các sách giáo khoa bậc trung
học và trong Từ điển bách khoa Việt Nam (có được mở rộng). Đó là:
5
• Bỏ dấu thanh và dấu mũ (oxi), viết liền các âm tiết (etilen), một phụ
âm viết hai lần liền nhau bỏ đi một (berili), bỏ bớt nguyên âm E nếu
không gây nhầm lẫn (benzen), các cặp nguyên âm đi liền nhau có thể
giữ nguyên nếu dễ phát âm (iot), hoặc chuyển thành một nguyên âm
(ơtecti), bỏ các hậu tố um và ium (natri, omoni, platin, uran);
• Chuyển tất cả nguyên âm Y thành I (hiđro), trừ khi nguyên âm Y nằm
ở đầu từ (Ytri), phụ âm D thành Đ (Inđi), bỏ phụ âm H sau các phụ
âm T (tiophen), C (clo);
• Bổ sung một số phụ âm trong tiếng Việt không có: F (flo), J (jun), Z
(ziriconi);
• Chuyển phụ âm C đứng trước các nguyên âm mềm thành X (axeton,
axit, nhóm hiđroxyl), chuyển phụ âm W thành V (vonfram) và phụ âm
G đứng trước các nguyên âm mềm thành GI (giecmani), mở rộng sử
dụng phụ âm K (kali). Về phụ âm C, thực ra các quy định chính thống
(của UBKHNN và Bộ Giáo dục) cũng không phải giống nhau. Theo
GS Lê Khả Kế, năm 1960 UBKHNN quy định chấp nhận các vần CE,

• Hậu tố URE (trong tiếng Pháp) hoặc IDE (trong tiếng Anh) của
nguyên tố đứng sau trong công thức hợp chất nhị tố và một số ion đa
nguyên tử chuyển thành UA (clorua, cacbua).
2/ Các quy tắc do GS Lê Văn Thới và Hội đồng biên soạn danh pháp (1963)
đề ra và được áp dụng ở miền nam. Hiện nay các quy tắc này vẫn được sử
dụng trong các trường đại học ở phía nam, tuy nhiên cũng bị pha lẫn với các
quy định nêu tại mục 1 trên đây cũng như sự “tuỳ nghi” của người dùng. Các
quy tắc đó có thể được tóm lược như sau:
• Tên các nguyên tố hoá học, chủ yếu dựa vào tên tiếng Pháp, được viết
theo các quy tắc được liệt kê dưới đây; hậu tố UM và IUM vẫn giữ
nguyên (clor, brom, oxigen, natrium, uranium, magnesium, calcium);
• Bỏ dấu thanh và dấu mũ, viết liền các âm tiết, một phụ âm viết hai lần
liền nhau bỏ đi một;
• Chuyển tất cả phụ âm Y thành I kể cả trong hậu tố chỉ nhóm chức
(etil, oxigen), trừ trường hợp nguyên âm Y nằm ở vị trí đầu của tên
nguyên tố (Ytrium) hoặc nguyên âm Y có trong ký hiệu nguyên tố
(Dysprosium – Dy).
• Bỏ các phụ âm và nguyên âm “câm”: E (benzen), H (metan), S
(verni), T (momen), trừ trường hợp phụ âm H có trong ký hiệu nguyên
tố (Thorium – Th)
• Phụ âm C đọc là “xờ” nhưng không chuyển thành X; chấp nhận thêm
các phụ âm F, J, Z, P và W;
• Các hậu tố ASE và OSE chuyển thành AZ (baz) và OZ (celuloz);
• Chấp nhận các vần ngược không có trong tiếng Việt: AD (cadmium),
AF (hafnium), AL (aldehid, metanal), AR (carbon, argon), ER
(polimer), ES (ester), ID (glucid), IS (histamin) IL/YL (octil), OD
(iod), OL (alcol), OR (cloroform, formol), OS (osmium, phosphoric),
UL (sulfuric, sulfamid), UR (furfural);
• Hậu tố URE (từ gốc tiếng Pháp) chuyển thành UR (clorur).
3/ Bộ Y tế có các quy định riêng cho ngành Dược với nguyên tắc cố gắng

YO (yohimbin);
• Bỏ bớt một trong hai phụ âm của phụ âm đôi: CC (sacarose), FF
(cafein), LL (alyl, paladi), MM (amoni), NN (cinamic), RR (pyrole),
TT (ytri), ngoại lệ là vẫn giữ phụ âm kép MM trong ammin là phối tử
của phức chất để khỏi lẫn với amin.
• Bỏ bớt nguyên âm E ở cuối từ nếu không gây nhầm lẫn (viết benzen,
propan, nhưng phải viết indole, pyrole, thiazole, )
• Bổ sung các phụ âm không có trong tiếng Việt: F (ferum), J (jasmin),
Z (benzen); P (paladi, pentan) và mở rộng phạm vi sử dụng phụ âm K
để phù hợp với ký hiệu (kali, krypton ) hoặc danh pháp IUPAC
(alkan);
8
• Chấp nhận các tổ hợp phụ âm: Br (brom), Cl (clor), Cr (crom), Dr
(hydro), Fl (fluor), Fr (freon), Gl (glucose), Gr (graphit), Kr
(krypton), Pt (platin), Pr (proton), Ps (pseudoionon), Sp (spin), St
(sterol), Str (stronti), Tr (natri).
2/ Phụ âm G đứng trước nguyên âm E không chuyển thành GI hoặc GH, có
thể đọc như “gie” hoặc “ghe” (germani);
3/ Phụ âm D không chyển thành Đ nhưng vẫn đọc như Đ trong tiếng Việt
(hydro, indi); các phụ âm I (i ngắn) và Y (i dài) vẫn giữ nguyên như trong
tiếng Anh. Trong tiếng Anh tên các nguyên tố (molybdenum, beryllium) và
cả tên các hợp chất (trừ trường hợp oxygen và oxide) được viết nhất quán
hoặc I hoặc Y. Trong thực tế, mặc dầu có một quy định trong chính tả tiếng
Việt về việc chuyển Y thành I, hầu như rất ít người chịu viết I thay cho Y
trong những trường hợp mà theo thói quen/truyền thống người ta đã quen
viết Y (kỹ thuật, kỳ quan, tỷ lệ ). Điều quan trọng là việc vẫn giữ các
nguyên âm Y và I không trái với quy tắc chính tả Tiếng Việt mà lại đúng
với nguyên gốc tiếng nước ngoài, tạo thuận lợi cho việc tra cứu cũng như
đọc và viết các công trình khoa học.
4/ Không bỏ phụ âm H nếu phụ âm này nằm trong tổ hợp tạo vần tiếng

của phụ âm C, không những thế, nếu phiên chuyển sẽ gây khó khăn cho việc
tra cứu, bởi vì lúc đó sẽ không thể phân biệt được đâu là vần XE thật đâu là
vần XE được phiên chuyển từ vần CE. Mặc dầu vậy, một số thuật ngữ
tương đối thông dụng có các vần này (vd. axit, axeton, axetic) lâu nay đã
được dùng rộng rãi (ở miền bắc và trong sách giáo khoa bậc phổ thông), kể
cả trong công chúng, cho nên có thể cần tiếp tục duy trì trong những giới
hạn nhất định, mà cụ thể là để tiếp tục tồn tại như một phương án song đôi.
Đối với các hợp chất phức tạp hơn và ít phổ biến hơn thì không phiên
chuyển, như đang áp dụng triệt để trong ngành dược và ở miền nam.
8/ Không sử dụng và phiên chuyển hậu URE (theo tiếng Pháp) mà sử dụng
hậu tố IDE (theo tiếng Anh) trong tên gọi các hợp chất nhị tố, vd., cloride,
carbide, sunfide/sulfide, Có ý kiến đề nghị bỏ nguyên âm E, nhưng như
vậy sẽ có thể bị nhầm lẫn với những hợp chất mà tên gọi có hậu tố ID nhưng
khác về bản chất.
Như vậy, trên cơ sở những quy tắc nêu trên, các đề xuất của Đề tài đối
với hệ thống danh pháp hoá học Việt Nam bao gồm các nội dung như trình
bày dưới đây.
Các nguyên tố hoá học
1. Những nguyên tố đã có tên Việt hoặc Hán-Việt đang được sử dụng
rộng rãi thì cứ tiếp tục gọi như vậy mà không cần phải phiên chuyển
từ tiếng Latin (hoặc tiếng Anh, tiếng Pháp) nữa. Tuy nhiên, để biết
nguồn gốc của ký hiệu và tiện viết tên các dẫn chất cũng như thể hiện
các cation trong các phức chất, vd. kali hexacyanoferat (II) hay
axit/acid tetracloroauric, bên cạnh tên Việt, sẽ viết thêm tên Latin
nhưng để trong ngoặc đơn . Đó là 10 nguyên tố: Ag (Argentum), Au
10
(Aurum), Al (Aluminium), Cu (Cuprum), Fe (Ferrum), Hg
(Hydrargyrum), Pb (Plumbum), Sn (Stannum), S (Sulfur), Zn
(Zincum). Có ý kiến đề nghị xem xét thêm hai nguyên tố Ni và Pt, nên
chăng sử dụng tên Việt là “kền” và “bạch kim”. Tuy nhiên, mức độ

ta cũng phải đọc “halogen” khi nhắc đến các nguyên tố thuộc nhóm
này), tuy nhiên vì hiện nay các tên “hydro” và “oxy” đã trở nên quá
phổ biến và cũng không gây trở ngại gì nhiều cho việc hình thành các
dẫn chất của chúng, cho nên, nên để nguyên, không cần thay đổi.
1
Ý kiến này của Ban chủ nhiệm không được đa số đồng tình; ý kiến chung vẫn muốn giữ tên gọi NITƠ như
hiện nay, cũng coi như một ngoại lệ của việc sử dụng dấu thanh. Một số ý kiến đề nghị đưa ra hai phương
án là NITƠ và NITROGEN (không thể viết NITRO vì sẽ gây nhầm lẫn với nhóm NITRO) để sau này khi
viết tên các hợp chất, vi dụ, các phức chất không gặp khó khăn (xem phần sau).
11
2. Để có sự tương hợp giữa tên và ký hiệu nguyên tố, nguyên tố Ce viết
Ceri chứ không viết Xeri, nguyên tố Cs viết là Caesi chứ không viết
Xesi, nguyên tố Cm viết Curium, nguyên tố Tm viết Thulium.
3. Đối với các trường hợp phụ âm đứng ở cuối âm vận mà không có
trong các vần của Tiếng Việt, phần lớn chấp nhận viết như nguyên
tiếng nước ngoài và người đọc có thể xử lý theo hai cách; hoặc đọc
như các phụ âm độc lập với nhau (vd. ly-bờ-đen, ha-fờ-ni ), hoặc đọc
nhẹ vần ngược đó (vd., A-rơ-gon hay Ca-rơ-bon, đọc nhẹ vần “rơ”),
gần như không đọc thành âm. Đó là các trường hợp vần AD (cadmi),
AF (hafni), AG (magnesi), AR (argon, arsen, carbon), AS (astati),
ER (erbi, germani, terbi, yterbi), IR (zirconi), IS (bismut), OD (iod),
OR (bor, clor, fluor), OS (osmi, phospho), YB (molybden). Đối với
các nguyên tố B, Cl, F, I cần giữ các phụ âm R và D ở cuối để dễ
dàng chuyển sang các dẫn chất của chúng như cloric, fluoric, boric,
iodic v.v Một số ý kiến cho rằng các vần ngược: AL, OL, EL thuộc
loại khó đọc, cho nên sẽ áp dụng quy tắc hai phương án, đó là 6
nguyên tố: canxi/calci, honmi/holmi, niken/nickel, coban/cobalt,
tantan/tantal. wonfram/wolfram.
4. Hiện nay tên người và cả tên địa danh nói chung là không phiên
chuyển, vì vậy, nguyên tố Fr (francium) và các nguyên tố sau U

26.Ferrum → Sắt, ký hiệu Fe,
27.Cobaltum → Coban (1)/Cobalt (2), ký hiệu Co,
28.Niccolum/Nickel → Niken (1)/Nickel (2), ký hiệu Ni,
29.Cuprum → Đồng, ký hiệu Cu,
30.Zincum → Kẽm, ký hiệu Zn,
31.Gallium → Gali, ký hiệu Ga,
32.Germanium → Germani, ký hiệu Ge,
33.Arsenicum → Arsen, ký hiệu As,
34.Selenium → Selen, ký hiệu Se,
35.Bromum → Brom, ký hiệu Br,
36.Krypton → Krypton, ký hiệu Kr,
37.Rubidium → Rubidi, ký hiệu Rb,
38.Strontium → Stronti, ký hiệu Sr,
39.Yttrium → Ytri, Ký hiệu Y,
40.Zirconium → Zirconi, ký hiệu Zr,
41.Niobium → Niobi, ký hiệu Nb,
42.Molybdenum → Molybden, ký hiệu Mo,
43.Technetium → Techneti, ký hiệu Tc,
44.Ruthenium → Rutheni, ký hiệu Ru,
45.Rhodium → Rhodi, ký hiệu Rh,
46.Palladium → Paladi, ký hiệu Pd,
47.Argentum → Bạc, ký hiệu Ag,
48.Cadmium → Cadmi, ký hiệu Cd,
49.Indium → Indi, ký hiệu In,
50.Stanum →Thiếc, ký hiệu Sn,
51.Stibium → Antimon/Stibi, ký hiệu Sb,
13
52.Tellurium → Teluri, ký hiệu Tl,
53.Iodum → Iod, ký hiệu I,
54.Xenon → Xenon, ký hiệu Xe,

85.Astatinum → Astatin, ký hiệu At,
86.Radon → Radon, ký hiệu Rn,
87.Francium → Franci, ký hiệu Fr,
88.Radium → Radi, ký hiệu Ra,
14
89.Actinium → Actini, ký hiệu Ac,
90.Thorium → Thori, ký hiệu Th,
91.Protactinium → Protactini, ký hiệu Pa,
92.Uranium → Urani/Uran, ký hiệu U,
93.Neptunium → Neptuni, ký hiệu Np,
94.Plutonium → Plutoni, ký hiệu Pu,
95.Americium → Americi, ký hiệu Am,
96.Curium → Curium, ký hiệu Cm,
97.Berkelium → Berkeli, ký hiệu Bk,
98.Californium → Californi, ký hiệu Cf,
99.Einsteinium → Einsteini, ký hiệu Es,
100. Fermium → Fermi, ký hiệu Fm,
101. Mendelevium → Mendelevi, ký hiệu Md,
102. Nobelium → Nobeli, ký hiệu No,
103. Lawrencium → Lawrenci, ký hiệu Lr,
104. Rutherfordium → Rutherfordi, ký hiệu Rf,
105. Dubnium → Dubni, ký hiệu Db,
106. Seaborgium → Seaborgi, ký hiệu Sg,
107. Bohrium → Bohri, ký hiệu Bh,
108. Hassium → Hassi, ký hiệu Hs,
109. Meitnerium → Meitneri, ký hiệu Me,
110. Darmstadtium → Darmstadti, ký hiệu Ds,
111. Roentgenium → Roentgeni, ký hiệu Rg.
Tên đồng vị của một nguyên tố hoá học gồm tên của nguyên tố đó
kèm theo chữ số Arap chỉ nguyên tử khối của nó. Trong ký hiệu, chỉ số chỉ

thông thường, còn tên hệ thống phải là dihydrogen trioxosulfate. Tuy vậy,
trên các sách báo quốc tế cả tên hệ thống và tên thông thường đều được sử
dụng.
Vấn đề thứ tự các từ tố trong tên hợp chất được xử lý thống nhất là
trong tên, cũng như trong công thức, phần dương được viết và đọc trước,
phần âm (hoặc âm hơn) được viết và đọc sau. Như vậy, đối với các muối thì
thống nhất như trong hệ thống danh pháp IUPAC (tiếng Anh), nhưng đối với
các axit/acid thì công thức được viết giống, nhưng tên thì viết khác với hệ
thống tiếng Anh (viết công thức HNO
3
như trong danh pháp IUPAC, nhưng
viết tên và đọc tên thì axit/acid nitric chứ không phải nitric axit/acid). Ở đây
không phải chúng ta không nhất quán, khi thì theo tiếng Pháp, khi thì theo
tiếng Anh, mà là theo quy tắc của ngôn ngữ Tiếng Việt. Trong tiếng Việt,
trật tự các từ tố của một từ ghép phụ thuộc vào vai trò của các từ tố; nếu hai
từ tố có vai trò như nhau (đẳng lập) thì thứ tự không quan trọng (vd., khoẻ
mạnh hoặc mạnh khoẻ đều như nhau), nhưng nếu không phải là hai từ tố
đẳng lập thì từ tố đóng vai trò chính phải được đặt trước từ tố kia. Ta nói xe
đạp, chứ không nói đạp xe, cá chép chứ không phải chép cá, bởi vì từ xe và
từ cá mới là các từ chính. Tương tự như vậy, axit/acid mới là từ chính, còn
nitric chỉ là từ phụ, làm rõ nghĩa cho từ chính (axit/acid gì?).
Hợp chất nhị tố
1. Như đã trình bày ở trên về trật tự các từ tố, tên của các hợp chất nhị tố
gồm tên của nguyên tố dương (dương hơn) tiếp theo là tên của nguyên
tố âm (âm hơn) với hậu tố IDE, ví dụ: canxi/calci carbide (CaC
2
),
natri fluoride (NaF), bari cloride (BaCl
2
), sắt sunfide/sulfide (FeS),

(III) oxide (Fe
2
O
3
). (iii) Nếu nguyên tố bị oxy hoá có thể có nhiều hoá
trị và có một hoặc nhiều hơn một nguyên tử thì tên oxide gồm tên
nguyên tố bị oxy hoá có kèm theo tiền tố chỉ dẫn số lượng nguyên tử
(ion) của nguyên tố đó tiếp theo là từ oxide có kèm theo tiền tố chỉ số
lượng nguyên tử (ion) oxy, ví dụ: lưu huỳnh dioxide (SO
2
) , lưu huỳnh
trioxide (SO
3
), dinitơ/dinitrogen oxide (N
2
O), dinitơ/dinitrogen
trioxide (N
2
O
3
), dinitơ/dinitrogen tetraoxide (N
2
O
4
), dinitơ/dinitrogen
pentaoxide (N
2
O
5
), diphospho pentaoxide (P

của anion với hậu tố HYDRIC, ví dụ, các axit/acid: clorhydric (HCl),
bromhydric (HBr), sunfurhydric/sulfurhydric (H
2
S), Muối của các
hydroacid được gọi tên như hợp chất nhị tố đã kể đến ở trên, nghĩa là
có hậu tố IDE ở tên nguyên tố âm hơn nằm ở vị trí cuối trong công
thức của hợp chất, ví dụ, natri cloride (NaCl), bari sunfide/sulfide
(BaS).
17
Hợp chất có hơn hai nguyên tố
Các hợp chất loại này có thể chia thành các nhóm sau đây:
1. Hợp chất, trong đó các nguyên tố ít âm hơn chỉ liên kết với nguyên tố
ít âm nhất. Các hợp chất này được gọi tên bằng cách thêm hậu tố IDE
vào tên của tất cả các nguyên tố, trừ nguyên tố ít âm nhất. Riêng đối
với nguyên tố oxy thì không thêm hậu tố IDE, ví dụ: phospho
trifluoride dibromide (PF
3
Br
2
), phospho oxy bromide (POBr).
2. Hợp chất, trong đó các nguyên tố tạo thành phần âm liên kết với nhau
(trừ các axit/acid có chứa oxy và muối của chúng) thành một cụm gọi
là gốc, có tên riêng và tính chất khác với các nguyên tố tạo ra nó, ví
dụ, anion OH (hydroxide), CN (xyanide/cyanide). Tên những hợp chất
loại này gồm tên phần dương và tên gốc, ví dụ, natri hydroxide
(NaOH), kali xyanide/cyanide (KCN).
3. Các axit/acid có chứa oxy mà công thức có dạng H
m
X
n

án song song, hậu tố Ơ và hậu tố OUS (như trong tiếng Anh), còn hậu
tố EUR vừa khó đọc vừa xa với tiếng Anh. Như vậy, có thể chấp nhận
tên của HNO
2
là axit nitrơ/acid nitrous, H
2
SO
3
là axit sunfurơ/acid
sulfurous, v.v
• Những axit/acid chứa ít hơn các axit/acid có hậu tố Ơ/OUS một
nguyên tử oxy nhưng có cùng số nguyên tử hydro thì tên gọi gồm tên
của axit/acid có hậu tố Ơ/OUS nhưng thêm tiền tố HYPO, ví dụ, các
axit/acid: hyponitrơ/hyponitrous (HNO), hypoclorơ/hypoclorous
(HClO).
18
• Những axit/acid chứa nhiều hơn axit/acid có hậu tố IC một nguyên tử
oxy nhưng cùng số nguyên tử hydro (H
m
XO
p+1
) hoặc cùng số nguyên
tử oxy nhưng kém một nguyên tử hydro (H
m-1
XO
p
) thì tên gồm tên
axit/acid có hậu tố IC cộng với tiền tố PER, ví dụ, các axit/acid:
percloric (HClO
4

3
), orthophosphoric (H
3
PO
4
) và pyrophosphoric (H
4
P
2
O
7
), dạng
PYRO thực ra chỉ là tổ hợp hai dạng META và ORTHO. Cho nên,
không nên gọi H
2
S
2
O
7
là pyrosulfuric và H
4
P
2
O
7
là pyrophosphoric.
c/ Các axit/acid (n bằng hoặc lớn hơn 1) có chứa nhóm (– O – O –) được
gọi bằng tên của axit/acid tương ứng nối thêm tiền tố PEROXO, ví dụ,
các axit/acid: peroxosunfuric/ peroxosulfuric (H
2

2
: axit/acid nitrous và hydro dioxonitrat; H
3
PO
4
: axit/acid
phosphoric và trihydro tetraoxophosphat; H
3
PO
3
: axit/acid phosphorous
và trihydro trioxophosphat; H
4
P
2
O
7
: axit/acid diphosphoric
(pyrophosphoric) và tetrahydro
µ
-oxo-hexaoxodiphosphat; H
2
S
2
O
3
: axit
thiosunfuric/acid thiosulfuric và dihydro trioxothiosunfat
/trioxothiosulfat, v.v Tên của các muối cũng được gọi theo cách đó, chỉ
thay số nguyên tử hydro bằng số cation kim loại. Theo cách gọi này

4
). Không
dùng tên natri bicarbonat cho NaHCO
3
vì không thể hiện được cấu
tạo.
• Muối base: Tên muối loại này gồm tên của muối trung hoà tương ứng,
trong đó từ tố sau được thêm vào tiền tố chỉ số nhóm OH hoặc số
nguyên tử còn lại chưa bị trung hòa. Ví dụ: lanthan
monohydroxycloride (LaOHCl
2
), bismut dihydroxycloride
[Bi(OH)
2
Cl] hoặc nếu loại đi một phân tử nước thì gọi là bismut oxy
cloride (BiOCl).
• Muối kép: Muối này thực chất là hỗn hợp của các muối có chung
anion, vì vậy, tên của loại muối này gồm tên của các cation (viết nối
với nhau bằng gạch ngang) và tiếp theo là tên anion, ví dụ, kali-nhôm
sunfat/sulfat [KAl(SO
4
)
2
], kali-natri carbonat (KNaCO
3
).
5. Những hợp chất cộng hóa trị có công thức phân tử tương tự muối: Tên
các hợp chất này tương tự tên của các hợp chất nhị tố thông thường,
nhưng ở vị trí đầu thay vì tên cation là tên của nhóm nguyên tử liên kết
với nguyên tố đóng vai trò nguyên tố âm hơn. Ví dụ: thionyl cloride

)
2
]SO
4

bis(ethylendiamin)đồng (II) sunfat/sulfat
2. Tên phối tử: nếu là anion thì lấy tên anion + o, vd., F
-
- fluoro, OH
-
- hydroxo, CO
3
2-
- carbonato, O
2-
- oxo, O
2
2-
- peroxo, S
2
O
3
2-
-
thiosunfato/thiosulfato ; nếu là phân tử trung hoà thì lấy tên phân tử
đó, vd., C
6
H
5
N – pyridin, CH

[Fe(CN)
6
] – kali hexacyanoferat (II),
H[AuCl
4
] – acid/axit tetracloroauric/ vàng(III); nếu phức chất
không điện ly (không có cation và anion) thì gọi tên phối tử có tiền
tố và tên nguyên tố trung tâm, vd., Pt[(NH)
2
Cl
2
] – diclorodiammin
platin(II).
Hợp kim
Tên hợp kim gồm tên các kim loại tạo thành hợp kim viết nối với
nhau bằng gạch ngang và tỷ lệ số nguyên tử của các kim loại ấy đặt trong
ngoặc đơn, ví dụ, tên hợp kim: niken/nickel-bismut (1:2), công thức: NiBi
2
;
tên hợp kim: magnesi-đồng-nhôm (2:2:5), tên công thức: Mg
2
Cu
2
Al
5
.
B. Các hợp chất hữu cơ
1/ Về cơ bản, danh pháp các hợp chất hữu cơ sẽ tuân thủ các quy tắc của
IUPAC với các thuật ngữ được phiên chuyển theo những quy tắc đã được
trình bày trên đây đối với cả các tên hệ thống, tên nửa hệ thống và tên thông


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status