đánh giá hiện trạng và đề xuất một số biện pháp bảo tồn đa dạng sinh học hồ tây, hà nội - Pdf 18

MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Hình1: Tỉ lệ phần trăm các loài tảo ở Hồ Tây 11
(theo Vũ Đăng Khoa, 1999)[11] 11
1.2.3. Điều kiện kinh tế - xã hội của khu vực Hồ Tây 12
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 18
2.1. Đối tượng nghiên cứu 18
Hình 2: Hình ảnh Hồ Tây (Hà Nội) 19
Hình 3: Sơ đồ vị trí lấy mẫu tại Hồ Tây (Hà Nội) 20
(theo Lưu Thị Lan Hương 2009) 20
24
3.2.4. Phương pháp tính chỉ số đa dạng sinh học 26
Bảng 2 : Chỉ tiêu H’ đánh giá sự đa dạng sinh học 26
(theo Dương Trí Dũng 2001)[4] 26
Bảng 3: Chỉ tiêu H’ cho ô nhiễm môi trường nước học 26
(theo Dương Trí Dũng 2001)[4] 26
Bảng4 : Chỉ tiêu D đánh giá sự đa dạng sinh học 26
(theo Dương Trí Dũng 2001)[4] 26
Bảng 5: Chỉ tiêu D đánh giá ô nhiễm môi trường nước học 26
(theo Dương Trí Dũng 2001)[4] 26
2.3.6.Phương pháp nuôi trồng cây thủy sinh trong phòng thí nghiệm 27
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 28
3.1.4.Kết quả điều tra khu hệ cá 34
3.2.Kết quả phân tích chỉ số đa dạng thành phần loài sinh vật ở Hồ Tây. .40
Hình 9: Đồ thị so sánh chỉ số H’ , D động vật đáy tại các điểm thu mẫu 43
Bảng 9: Số lượng cống thải vào hồ ngày (10/2013) 48
i
Hình 10 : Sơ đồ mô phỏng chu trình vật chất trong hồ 55
Hình 12: Kết quả mô phỏng biến động của 3 nhóm cá (nhóm ăn thực vật

(theo Dương Trí Dũng 2001)[4] 26
Bảng 3: Chỉ tiêu H’ cho ô nhiễm môi trường nước học 26
(theo Dương Trí Dũng 2001)[4] 26
Bảng4 : Chỉ tiêu D đánh giá sự đa dạng sinh học 26
(theo Dương Trí Dũng 2001)[4] 26
Bảng 5: Chỉ tiêu D đánh giá ô nhiễm môi trường nước học 26
(theo Dương Trí Dũng 2001)[4] 26
2.3.6.Phương pháp nuôi trồng cây thủy sinh trong phòng thí nghiệm 27
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 28
3.1.4.Kết quả điều tra khu hệ cá 34
3.2.Kết quả phân tích chỉ số đa dạng thành phần loài sinh vật ở Hồ Tây. .40
Hình 9: Đồ thị so sánh chỉ số H’ , D động vật đáy tại các điểm thu mẫu 43
Bảng 9: Số lượng cống thải vào hồ ngày (10/2013) 48
iv
Hình 10 : Sơ đồ mô phỏng chu trình vật chất trong hồ 55
Hình 12: Kết quả mô phỏng biến động của 3 nhóm cá (nhóm ăn thực vật
nổi (1), nhóm ăn động vật nổi (2), nhóm ăn sinh vật đáy (3) trong điều
kiện phát triển bền vững 57
Hình 16 : Sơ đồ mô phỏng khi tiến hành đánh bắt nhiều loại cá ở Hồ Tây
trong điều kiện phát triển bền vững (thực vật nổi - 1, Động vật nổi – 2,
cá – 3, đánh bắt – 4) 60
KẾT LUẬN 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO 66
MẬT ĐỘ ĐỘNG VẬT NỔI CÁC TRẠM THU MẪU (tháng 3/2013) 5

v
DANH MỤC HÌNH

ĐẶT VẤN ĐỀ
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

trong điều kiện phát triển bền vững (thực vật nổi - 1, Động vật nổi – 2,
cá – 3, đánh bắt – 4) 60
KẾT LUẬN 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO 66
MẬT ĐỘ ĐỘNG VẬT NỔI CÁC TRẠM THU MẪU (tháng 3/2013) 5

vii
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hồ Tây là một hồ tự nhiên, có diện tích lớn nhất của thủ đô Hà Nội.
Hồ rất nổi tiếng với các giá trị đặc trưng về danh lam thắng cảnh, các hoạt
động du lịch, văn hóa - thể thao và gắn liền với lịch sử, tâm linh của người
dân thủ đô, cũng như người dân Việt Nam từ bao đời nay. Hồ Tây còn có giá
trị đặc sắc về ĐDSH, chứa đựng nguồn tài nguyên động, thực vật đa dạng và
độc đáo. Với việc tham gia công ước Ramsar, Việt Nam có nghĩa vụ sử dụng
khu vực này một cách hợp lý để vừa đạt hiệu quả kinh tế vừa bảo vệ ĐDSH
cũng như cảnh quan của nó. Về mặt pháp lý, thông báo số 72/TB-TW ngày
26/5/1994 của Bộ Chính Trị về một số vấn đề quy hoạch và xây dựng thủ đô
Hà Nội đã nêu rõ: “Phải hết sức giữ gìn và tôn tạo những cảnh quan thiên
nhiên đặc sắc, độc đáo của Hà Nội, nhất là vẻ đẹp của các hồ lớn”. Quyết
định số 473/BXD/KTQH ngày 08/01/1994 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng cũng
khẳng định: “Khu vực Hồ Tây phải được quy hoạch xây dựng thành trung tâm
giao dịch quốc tế, trung tâm dịch vụ du lịch, trung tâm văn hóa thể thao và là
vùng bảo vệ cảnh quan thiên nhiên phục vụ các hoạt động vui chơi giải trí
của thủ đô”. Đồng thời, Quyết định gần đây nhất, quyết định số 1479/QĐ-
TTg , ngày 13/10/2008 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt quy hoạch hệ
thống khu bảo tồn vùng nước nội địa đến năm 2020 “Hồ Tây, bảo vệ sinh thái
hồ tự nhiên, ngoài ra khu bảo tồn còn có ý nghĩa về du lịch – nghiên cứu -
giáo dục” Qua đó có thể thấy sự quyết tâm của các cấp, các ngành trong việc
quy hoạch và bảo vệ Hồ Tây trước tình trạng tính bền vững của HST này đang
bị đe dọa do hoạt động xả thải không hợp lý của người dân xung quanh khu

2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan về Đa dạng sinh học
1.1.1. Khái niệm về đa dạng sinh học
Có thể coi, thuật ngữ “đa dạng sinh học” lần đầu tiên được Norse và
McManus (1980) định nghĩa, bao hàm khái niệm có liên quan với nhau là: đa
dạng di truyền (tính đa dạng di truyền trong một loài) và đa dạng sinh thái
(số lượng các loài trong một quần xã sinh vật).[ 31].
Hiện nay có nhiều định nghĩa về đa dạng sinh học. Định nghĩa do Quỹ
Bảo tồn Thiên nhiên thế giới (1989)[17] quan niệm: Đa dạng sinh học là sự
phồn thịnh của sự sống trên trái đất, là hàng triệu loài thực vật, động vật và
vi sinh vật, là những gen chứa đựng trong các loài và là những hệ sinh thái
vô cùng phức tạp tồn tại trong môi trường”. Do vậy, đa dạng sinh học bao
gồm 3 cấp độ: đa dạng gen, đa dạng loài, đa dạng hệ sinh thái. Đa dạng loài
bao gồm toàn bộ các loài sinh vật sống trên trái đất, từ vi khuẩn đến các loài
động, thực vật và các loài nấm. Ở mức độ vi mô hơn, đa dạng sinh học bao
gồm cả sự khác biệt về gen giữa các loài, khác biệt về gen giữa các quần thể
sống cách ly về địa lý cũng như sự khác biệt giữa các cá thể cùng chung sống
trong một quần thể. Đa dạng sinh học còn bao gồm cả sự khác biệt giữa các
quần xã mà trong đó các loài sinh vật sinh sống, các hệ sinh thái nơi mà các
loài cũng như các quần xã sinh vật tồn tại và cả sự khác biệt của các mối
tương tác giữa chúng với nhau.
Theo Công ước Đa dạng sinh học thì “ Đa dạng sinh học là sự phong
phú của mọi cơ thể sống có từ tất cả các nguồn trong các hệ sinh thái trên
cạn, ở biển và các hệ sinh thái dước nước khác và mọi tổ tổ hợp sinh thái mà
chúng tạo nên. Đa dạng sinh học bao gồm sự đa dạng trong loài (đa dạng di
truyền hay còn gọi đa dạng gen), giữa các loài (đa dạng loài), các hệ sinh thái
(đa dạng hệ sinh thái). [30].
3

i
là số cá thể của loài
thứ i trong mẫu. Thuận ngữ là một sự kết hợp, nó được tính như sau:
Để bổ sung cho cách đếm tương ứng, có nhiều chỉ số về sự phong phú
thành phần loài được bổ sung vào như sau:
Margalef (1969) : D = (S-1)/ Ln N
Menhinick (1964):
Odum, Cantlon và Kornicher (1960) R= S/ LogN
Có sự khác biệt về chỉ số phong phú thành phần loài và sự khác biệt
còn phụ thuộc vào loại chỉ số được sử dụng.
Rõ ràng phải có một cách nào đó để xác định tính đa dạng, đưa vào
tính toán chỉ số phong phú thành phần loài và sự ưu thế của những cá thể
trong từng loài. Cách tính đó được gọi là chỉ số đa dạng hay là chỉ số không
đồng nhất. [4]
- Chỉ số đa dạng
Có hai loại chỉ số được xác định đó là chỉ số ưu thế và chỉ số thống kê
 Chỉ số ưu thế
Chỉ số ưu thế cho biết nhiều về số lượng của loài phổ biến hay loài ưu
thế, nó được Simpson (1949) giới thiệu đầu tiên trong thuật ngữ sinh thái.
Chỉ số Simpson cho biết tần suất của bất kì hai cá thể nào phân bố ngẫu
nhiên từ một quần xã rất lớn phụ thuộc vào những loài khác nhau, đó là:
Với P
i
là tần suất của những cá thể loài i.Trong đó P
i
=
5
Với quần xã có số lượng hạn chế thì D được tính như sau:
Với n
i

6
trị cao nhất là H
max
xuất hiện khi mọi loài trong quần xã có số lượng tương
đương nhau, lúc đó nó sẽ tương đương với lnS. Sự cân bằng trong quần xã
đa dạng thực sự được tính theo công thức:
Evenness = H’/H
max
= H’ / lnS với E nằm trong khoảng [0,1].
Chỉ số Brillouin: Tính ngẫu nhiên của mẫu không thể hoàn toàn giống
nhau được, thí dụ như đối với bẫy bằng ánh sáng nơi có nhiều loài côn trùng
phân bố và chịu sự hấp dẫn của ánh sáng với các mức khác nhau và như thế
thì chỉ số Brillouin được dùng như sau:
Một kết quả so sánh các chỉ số được liệt kê trong bảng 1. Vài chỉ số
được sử dụng nhiều hơn một số chỉ số khác. Đề bảo tồn tính đa dạng sinh
học, chỉ số nào phát hiện được nhiều loài hiếm thì được sử dụng, khi so sánh
các quần xã khác nhau về số lượng, thì chỉ số Simpson và Berger – Parker
không thích hợp. [8]
 Chỉ số đa dạng ngoài tiêu chuẩn
Rõ ràng chỉ số đa dạng chỉ thích hợp trong từng trường hợp nhất định.
Đối với việc bảo tồn, những loài hiếm cần được quan tâm nhưng cũng cần có
sự kết hợp nhiều thông tin sinh học trong việc tính toán quần xã đặc biệt
trong khi sử dụng các chỉ số này để thực hiện công tác bảo tồn.
1.1.3. Các phương pháp bảo tồn
- Bảo tồn nguyên vị
Bảo tồn nguyên vị bao gồm các phương pháp và công cụ nhằm mục
đích bảo vệ các loài, các chủng và các sinh cảnh, các hệ sinh thái trong điều
kiện tự nhiên. Tùy theo đối tượng bảo tồn để áp dụng các hình thức quản lý
thích hợp. Có thể nói đây là biện pháp hữu hiệu nhất bảo tồn tính Đa dạng
sinh học. [33].

nước và bán ngập nước, động vật không xương sống và cá.
Thành phần loài cá các thủy vực nội địa Việt Nam bao gồm trên 700
loài và phân loài thuộc 228 giống, 57 họ và 18 bộ. Riêng bộ cá chép có 276
loài và phân loài thuộc 100 giống và 4 họ, 1 phân họ được coi là đặc hữu ở
Việt Nam. Số lượng loài cá ở các cửa sông dao động từ 70 đến hơn 230 loài,
với tổng số hơn 580 loài, thuộc 109 họ và 27 bộ.[34]
8
Các thủy vực nội địa có 1.438 loài tảo thuộc 259 chi và 9 ngành, 794
loài động vật không xương sống. Có 54 loài giáp xác nhỏ lần đầu tiên được
mô tả ở Việt Nam, riêng 2 nhóm tôm, cua (giáp xác lớn) có 59 loài thì có tới
33 loài (55,9%) lần đầu tiên được mô tả. Trong tổng số 147 loài trai ốc, có
43 loài (29,2%), 3 giống lần đầu tiên được mô tả, tất cả đều là đặc hữu của
Việt Nam hay vùng Đông Dương. Điều đó cho thấy sự đa dạng và mức độ
đặc hữu của khu hệ tôm, cua, trai, ốc, nước ngọt nội địa Việt Nam là rất lớn.
[14].
1.2. Tổng quan về Hệ sinh thái Hồ Tây
1.2.1. Điều kiện tự nhiên của Hồ Tây
1.2.1.1. Vị trí địa lý và một số đặc trưng của Hồ Tây
Hồ Tây nằm ở phía Tây Bắc nội thành Hà Nội, thuộc quận Tây Hồ,
phía Bắc giáp đê bao Yên Phụ - Tứ Liên, phía Nam giáp với đường Thụy
Khuê, phía Đông giáp với đường Thanh Niên, phía Tây giáp với đường Lạc
Long Quân. Hồ có hình móng ngựa và nằm ở 20
0
04’ vĩ độ Bắc, 105
0
50’ kinh
độ Đông. Hồ Tây nằm cao hơn so với mặt biển 6m. [1]
1.2.2.2. Điều kiện tự nhiên của hệ sinh thái Hồ Tây
Đây là hồ có diện tích lớn nhất trong số các hồ của Thành phố Hà Nội.
Hồ có diện tích mặt nước khoảng 516 ha, chiều dài gần 3km, rộng trung bình

tiết đủ 4 mùa trong năm đã góp phần tạo nên sự đa dạng sinh học cho Hồ
Tây. Theo các nghiên cứu của Nguyễn Xuân Quýnh [13]Dương Đức Tiến
[15], Đặng Ngọc Thanh[14], Mai Đình Yên [21] hệ sinh thái Hồ Tây có sự
đa dạng về động thực vật được coi là điển hình nhất của hệ sinh thái nước
ngọt, nước đứng của đồng bằng Bắc Bộ. Diễn thế sinh thái và sự biến đổi
thành phần đa dạng sinh học trong vài chục năm qua là không lớn.
Qua các số liệu nghiên cứu về thực vật ở Hồ Tây những năm trước trở
lại đây cho thấy:
Về thực vật, quanh hồ có khoảng 214 loài cây bóng mát, hoa và cây
cảnh. Về thực vật nổi, theo Vũ Đăng Khoa (1996) [11], thực vật nổi ở Hồ
Tây gồm có 115 loài và dưới loài thuộc 5 ngành: tảo lục (Chlorophyta), tảo
lam (Cyanophyta), tảo silic (Bacillariophyta), tảo mắt (Euglenophyta) và tảo
giáp (Pyrophyta)
10
Hình1: Tỉ lệ phần trăm các loài tảo ở Hồ Tây
(theo Vũ Đăng Khoa, 1999)[11]
Trong cơ cấu thành phần loài, tảo lục có số lượng nhiều nhất (73 loài
chiếm 63,48% tổng số loài), sau đó tảo silic (19 loài chiếm 16,52%), tảo lam
(12 loài chiếm 10,43%), tảo mắt (7 loài chiếm 6,09%), loài tảo giáp có số
lượng ít nhất gồm 2 chi với 4 loài chiếm 3,48%.
Về động vật, động vật có xương sống có 39 loài. Động vật nổi
(Zooplankton) theo kết quả điều tra của Hồ Thanh Hải và cộng sự (1999)[14]
đã xác định được 35 loài và nhóm động vật nổi. Trong thành phần loài động
vật nổi, giáp xác râu ngành phong phú nhất, có 14 loài, chiếm 40%. Nhóm
trùng bánh xe có 12 loài (34,3%). Nhóm giáp xác chân chèo kém phong phú,
chỉ có 7 loài. Cũng như thực vật nổi, đặc điểm động vật nổi với thành phần
loài trùng bánh xe phong phú cũng thể hiện đặc tính thủy vực dạng hồ vùng
đồng bằng giàu dinh dưỡng hữu cơ.
Các kết quả nghiên cứu của Đặng Thị Sy, Nguyễn Hữu Dụng [5] cho
thấy trong mùa khô, mật độ động vật nổi trung bình trên 10.000 con/m

1.2.3. Điều kiện kinh tế - xã hội của khu vực Hồ Tây
Theo tài liệu của UBND quận Tây Hồ, mật độ dân cư đông thường tập
trung ở phía Đông và Đông Nam của hồ. Họ sống chủ yếu bằng nghề thủ
công, trồng trọt hoặc kinh doanh nhỏ tại các khu vực có địa hình cao ráo, khí
hậu tốt như Quảng An, Nghi Tàm, Quảng Bá. Diện tích đất sử dụng quanh
hồ khoảng 78,72 ha, trong đó có diện tích đất ở là 52,48 ha. Còn lại 26,24 ha
là diện tích đất nông nghiệp chủ yếu dùng để trồng cây hoa màu và trồng cây
cảnh.
Hàng năm có một lượng khá lớn phân hóa học và thuốc bảo vệ thực
vật được thải vào hồ. Ngoài ra còn có nước thải sản xuất của các cơ sở quanh
12
hồ như khu vực Thụy Khuê, khu vực Phủ Tây Hồ, xưởng phim truyền hình
Việt Nam, khu vực làng Võng Thị , các cơ sở sản xuất đồ uống, sản xuất
nhựa, than tổ ong, vùng sản xuất nông nghiệp và đặc biệt là nước thải của
các hộ dân cư, khách sạn, nhà hàng xung quanh hồ chảy vào. Hiện tượng
những hộ dân xung quanh hồ, những nhà hàng kinh doanh và một số khách
du lịch vứt rác, đổ phố thải, vật liệu xây dựng xuống lòng hồ gây mất vệ
sinh, làm ô nhiễm và giảm vẻ đẹp của hồ.
Cơ sở hạ tầng của khu vực quanh Hồ Tây không đồng đều và có nhiều
biến đổi so với các năm trước. Các hệ thống thoát nước hầu như đã xuống
cấp hoặc chưa hoàn thiện do các cơ sở sản xuất và kinh doanh cũng như các
hộ dân cư quanh khu vực thường thải trực tiếp vào hồ mà không qua một hệ
thống xử lý nào. Bên cạnh đó, việc khách du lịch vứt rác bừa bãi xuống hồ
cũng là một trong những nguyên nhân khiến hồ bị ô nhiễm. [18].
1.2.4. Tổng quan một số công trình nghiên cứu về Hồ Tây
1.2.4.1. Đặc tính thủy lý – thủy hóa Hồ Tây
Trong 10 năm gần đây, một số nhóm nghiêm cứu của Trường Đại học
Xây Dựng, Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật [6], Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên ĐHQGHN đã tiến hành quan trắc chất lượng nước Hồ Tây.
Các kết quả nghiên cứu về thủy lý – thủy hóa của nước Hồ Tây cho thấy:

vào hồ qua các đường cống. Nguồn phân tán là nguồn thải vào hồ qua các
quá trình rửa trôi, xói mòn do mưa và sử dụng nước trên vùng lưu vực vào
hồ không theo hệ thống cống rãnh cố định. Trong trường hợp của Hồ Tây
hiện nay, trên vùng lưu vực không có hoặc rất ít các nguồn thải công nghiệp
có độc tố. Bởi vậy xem xét chất lượng nước từ các nguồn thải vào Hồ Tây là
nghiên cứu và đánh giá các nguồn thải từ vùng lưu vực có các chất dinh
dưỡng gây ô nhiễm hữu cơ cho hồ là chủ yếu.
Tại vùng lưu vực Hồ Tây, số lượng nguồn thải điểm theo các cống vào
hồ rất lớn, nhưng cho tới nay, chỉ có thể thống kê được một số nguồn thải
điểm nhất định. [6].
Bảng 1: Lượng nước thải của một số cống chính đổ vào Hồ Tây
(theo Hồ Thanh Hải và cộng sự năm 2001)[6]
Cống Lưu lượng mùa đông
(m
3
/ngày)
Lưu lượng mùa hè
(m
3
/ngày)
Tầu Bay 2592 17280
Cây Si 10281,6 35424
14
Đõ 3628 25920
Quảng Bá 173 1555,2
Khách sạn Tây Hồ 335
Khách sạn Thắng Lợi 320 3024
Trích Sài 5186 3024
Hầu hết các nguồn thải điểm này đều không qua một hệ thống xử lý
nước thải nào khi đổ vào hồ.

nằm trong khoảng từ 0,078 – 4 mg/l tại các
điểm gần bờ và giữa hồ. Hàm lượng Nito tổng số trong hồ giao động từ 1,32
15
– 8,45 mg/l. Tỉ lệ N/P dao động từ khoảng 0,76 – 7,37, chủ yếu với tỉ lệ N/P
<5. Theo Vallentype (1983) tỉ lệ N/P cần thiết hình thành sinh khối tảo là 7,
khi tỉ lệ N/P < 7, N trở thành yếu tố giới hạn sự tăng trưởng của thực vật phù
du. Như vậy, tại Hồ Tây hiện tượng phú dưỡng diễn ra với tính chất cục bộ
tại một số khu vực xung quanh các cống thải nơi có hiện tượng ô nhiễm hữu
cơ và tỉ lệ N/P >7. Tại các khu vực có N/P < 7 hiện tượng phú dưỡng chưa
xảy ra. [7]
Các nguồn thải chính theo con đường phân tán được phân biệt bao
gồm:
Lượng dinh dưỡng từ khí quyển thông qua lượng mưa, trực tiếp đổ
vào hồ. Lượng dinh dưỡng này liên quan tới tổng lượng mưa và diện tích bề
mặt của hồ.
Lượng dinh dưỡng từ vùng lưu vực bao gồm từ đất với các loại hình
sử dụng và mức độ thâm canh (nếu là đất nông nghiệp) số lượng người, số
lượng gia súc, gia cầm…
Lượng dinh dưỡng từ trầm tích đáy quay trở lại hồ qua quá trình
khoang hóa các chất dinh dưỡng dạng hạt, dạng keo tụ (đây cũng được coi là
nguồn dinh dưỡng tự sinh của hồ).[6]
Từ những kết quả trên có thể thấy mối quan hệ hữu cơ giữa vùng lưu
vực và chất lượng nước hồ. Các hoạt động của con người trong phát triển
kinh tế - văn hóa- xã hội ở vùng lưu vực tác động rất mạnh mẽ đến chất
lượng môi trường nước hồ. Nếu các hoạt động trên vùng lưu vực được điều
chỉnh hợp lý, các nguồn thải điểm được kiểm soát nghiêm ngặt và nhất thiết
có hệ thống thu nhận và xử lý các nguồn thải điểm thì chất lượng môi trường
nước Hồ Tây sẽ tốt hơn và đáp ứng được nhu cầu sử dụng nước và thủy vực.
Các điều kiện tự nhiên cùng với các điều kiện thủy lý hóa, các nguồn nước
thải đổ vào hồ là những điều kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất sinh

Trích đoạn Phương pháp tính chỉ số đa dạng sinh học
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status