Khảo sát kiến thức, thái độ và thực hành về phòng chống bệnh tiêu chảy của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại ấp tân thành, xã tân phước hưng, huyện phụng hiệp, tỉnh hậu giang - Pdf 19

1 ĐẶT VẤN ĐỀ

Tiêu chảy là một trong những bệnh lý có tỷ lệ mắc cũng như tử vong rất cao,
đặc biệt ở các nước đang phát triển như Việt Nam [2], [6], [9].
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, cùng với nhiễm khuẩn hô hấp cấp
tính , tiêu chảy là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây bệnh và tử vong trẻ
em trên toàn thế giới. Hàng năm ước tính vẫn còn 1,3 tỷ lượt trẻ em dưới 5 tuổi bị
tiêu chảy, và không dưới 3,5 triệu trẻ tử vong vì tiêu chảy. Trung bình mỗi trẻ dưới
5 tuổi mắc từ 3,3 – 9 đợt tiêu chảy trong 1 năm [23], [30].
Ở Việt Nam, tình hình tiêu chảy cũng tương tự như ở các nước đang phát triển,
tiêu chảy vẫn còn là một bệnh phổ biến ở nước ta nói chung và đồng bằng sông
Cửu Long nói riêng, tỷ lệ mắc cao và do chết vẫn còn. Việc điều trị và dự phòng
bệnh tiêu chảy không phải là nhiệm vụ riêng của ngành Y tế mà cần có sự hợp tác
chặt chẽ của các Ban ngành, Đoàn thể và đặc biệt là toàn thể nhân dân. Trong đó
quan trọng nhất là các bà mẹ có con dưới 5 tuổi vì đây là người trực tiếp chăm sóc
cho con mình. Việc bồi dưỡng kiến thức, thái độ và hướng dẫn thực hành về phòng
chống bệnh tiêu chảy vô cùng cần thiết đối với những đối tượng này. Bởi vì với
kiến thức, thái độ và thực hành đúng để phòng ngừa tiêu chảy cấp trẻ em là yếu tố
quan trọng nhất để giảm tỷ lệ tiêu chảy trẻ em và giảm thiểu mức độ tử vong trẻ
em do tiêu chảy [2], [8], [10], [12].
Tỉnh Hậu Giang sau khi được tái thành lập năm 2004 là một tỉnh nghèo, huyện
Phụng hiệp là một huyện vùng sâu có diện tích tự nhiên 485,28 Km
2
, dân số
209,856 người, có 12 xã và 2 thị trấn với trên 90% dân số sống bằng nghề nông,
cây trồng chủ yếu là mía và cây ăn trái; tỷ lệ hộ nghèo 22,5%, trình độ dân trí còn
thấp, hầu hết người dân có thói quen sử dụng nước sông lắng phèn để ăn uống và
sinh hoạt; số lượng trẻ em dưới 5 tuổi là 19.095 trẻ chiếm tỷ lệ 9,09% dân số, nên


1.1. KHÁI NIỆM VỀ TIÊU CHẢY VÀ TIÊU CHẢY TRẺ EM
Bệnh tiêu chảy được định nghĩa là: người bệnh đi đại tiện nhiều lần trong
ngày, chủ yếu là phân nhão, lỏng hay nước. Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi
nhưng thường gặp ở trẻ em, tỷ lệ tử vong cao và chủ yếu xảy ra ở trẻ nhỏ. Một
trường hợp được xem là tiêu chảy trẻ em khi trẻ đi tiêu 3 lần trở lên, đi tiêu phân
lỏng hay phân đàm máu trong khoảng thời gian 24 giờ [2], [6], [9].
Biểu hiện đầu tiên là người bệnh đau bụng, đi ngoài liên tục, phân nhiều
nước, mất nước, có thể bị sốt nhẹ, li bì hoặc hôn mê. Bệnh sẽ diễn biến nặng hơn
với các biểu hiện cơ thể suy kiệt, mắt trũng, nôn mửa Có trường hợp bị mất nước
và chất điện giải, không cấp cứu kịp thời có thể dẫn đến tử vong [12], [16], [18],
[19].
Bệnh dễ phát sinh thành dịch do nguy cơ lây chéo cao. Tình trạng lây chéo
không chỉ xảy ra ở bệnh viện mà còn xảy ra ở gia đình. Thậm chí, có gia đình cả
nhà đều bị bệnh tiêu chảy do khâu vệ sinh, phòng chống kém. Đây chính là nguyên
nhân khiến bệnh tiêu chảy bùng phát thành dịch rất nhanh.
1.1.1. Các thể lâm sàng của tiêu chảy cấp
Theo tổ chức thế giới thống nhất có 5 thể lâm sàng [23], [30].
1.1.1.1. Tiêu chảy cấp:
Là thể hay gặp nhất chiếm 80%, có đặc điểm tiêu phân lỏng nhiều nước,
không quá 5 ngày, có thể gây tử vong chủ yếu do mất nước và điện giải, đáp ứng
tốt nhất với điều trị bằng ORS, thể này là mục tiêu chính của chương trình quốc gia
phòng chống tiêu chảy .
4
1.1.1.2. Tiêu chảy kéo dài:
Là tình trạng tiêu chảy cấp không đáp ứng với điều trị thông thường và kéo
dài trên 7 ngày, trung bình có từ 3 - 5 % tiêu chảy cấp chuyển thành tiêu chảy kéo

- Tiêu chảy là do sự kém hấp thu và tăng xuất tiết ở ruột, dẩn đến cơ thể trẻ
bị mất nước và điện giải, khối lượng nước và điện giải mất nước trong tiêu chảy
cấp dễ gây nên tử vong nếu không được bù nước điện giải kịp thời.
1.1.2. Tiêu chảy ở trẻ em
Khi mắc bệnh tiêu chảy, trẻ em thường có các triệu chứng như: ói, đi tiêu tóe
nước, có lúc có máu, sốt, đau bụng, bụng chướng Bệnh tiêu chảy vốn không quá
nguy hiểm, tuy nhiên do một số người thiếu hiểu biết nên đã dẫn đến những hậu
quả nặng nề. Tiêu chảy trẻ em sẽ rất nguy hiểm có thể dẫn đến tử vong nếu không
được bù nước và chất điện giải đã bị mất theo phân [6], [12].
Bác sĩ Phạm Thị Ngọc Tuyết, Khoa tiêu hóa Bệnh viện Nhi đồng II Thành
phố Hồ Chí Minh, cho biết, tiêu chảy là một trong 10 bệnh có tỷ lệ trẻ mắc phải
cao nhất Việt Nam. Nguyên nhân chủ yếu của căn bệnh này là do trẻ dùng thực
phẩm nhiễm khuẩn vì không được bảo quản tốt. Ngoài ra, việc cho trẻ ăn uống
không đúng giờ, không đúng liều lượng; thực phẩm có hàm lượng đạm cao; hàm
lượng thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng trên rau củ quả quá lớn cũng là nguyên
nhân gây tiêu chảy [6], [12].
6 Một nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi đồng II khẳng định, tỷ lệ trẻ nhập viện vì
bệnh tiêu chảy rất cao so với các bệnh khác. Và số lượng không thay đổi nhiều qua
các năm. Mỗi năm có gần 7.000 bệnh nhi nhập viện này vì bệnh tiêu chảy. Hơn
90% trong số đó là trẻ các quận, huyện ngoại thành, chiếm 30% số giường bệnh
nội trú. Lứa tuổi mắc bệnh nhiều nhất là trẻ dưới 3 tuổi [12].
Trẻ em thường mắc bệnh tiêu chảy. Câu hỏi đặt ra do đó là tần số các vi
khuẩn này ờ trẻ em mắc bệnh tiêu chảy ra sao. Để trả lời câu hỏi này, Isenbarger và
đồng nghiệp theo dõi và phân tích 1655 trẻ em ở vùng Đồng bằng sông Hồng trong
vòng 12 tháng. Trong thời gian theo dõi, có 2160 ca bệnh tiêu chảy; tính trung bình
mỗi em mắc tiêu chảy khoảng 1,3 lượt trong 12 tháng. Trong số ca bệnh tiêu chảy,
65% bị nhiễm vi khuẩn Shigella (loại S. flexneri) [26].

rotavirus ).
Trong một nghiên cứu đặc biệt về các trường hợp tiêu chảy do vi khuẩn
Shigella gây ra tại một số nước Á châu, các nhà nghiên cứu phát hiện rằng ở Việt
Nam, trong số 11.419 cas tiêu chảy, 72% có nhiễm vi khuẩn S.flexneri và 26%
S.sonnei. Ở Trung Quốc, Indonesia, Pakistan và Bangladesh cũng có tỷ lệ tương tự
như nước ta. Ngược lại, ở Thái Lan, trong số 8.612 cas tiêu chảy, 15% bị nhiễm
S.flexneri và 85% bị nhiễm S.sonnei. Việc xét nghiệm vi khuẩn này không khó và
đã được phát triển nhưng quan trọng hơn đã có vắc-xin phòng chống bệnh.
Một báo cáo mới đây của tổ chức Y tế thế giới (WHO) [23], [30] cho thấy,
80% các bệnh tật của con người có liên quan đến nước và vệ sinh môi trường 50%
số bệnh nhân trên thế giới và 25.000 người chết hàng ngày do các bệnh này. 40%
các ca tử vong do bệnh sốt rét và 94% các ca tử vong do bệnh tiêu chảy có thể
tránh được nếu có những quản lý tốt hơn về môi trường.
8 Năm 2002, một nghiên cứu thuần tập (prospective study) được thực hiện ở
tỉnh Khánh Hòa. Trong thời gian 1/1995 đến 9/2001, các nhà nghiên cứu ghi nhận
548 bệnh nhân, trong số này có 471 người lớn và 57 trẻ em.
Phân tích vi sinh học cho thấy trong số 548 trường hợp tiêu chảy, có 53%
dương tính với vi khuẩn V. parahemolyticus.
Năm 2008, tại Kuala Lumpur (Malaysia) đã diễn ra đại hội quốc tế về các
bệnh truyền nhiễm lần thứ 13, với sự tham dự của 2.000 bác sĩ, giáo sư và các cơ
quan thông tấn báo chí đến từ nhiều quốc gia trên thế giới. Tại đại hội, báo cáo
tham luận của các chuyên gia cho biết: nhiễm Rotavirus là nguyên nhân hàng đầu
gây ra các bệnh lý liên quan đến tiêu chảy ở trẻ nhũ nhi. Hằng năm trên thế giới có
25% - 55% số trẻ dưới 5 tuổi bị tiêu chảy và viêm dạ dày, ruột phải nhập viện là do
nhiễm Rotavirus. Bình quân mỗi năm thế giới có hơn 661 ngàn trẻ em tử vong vì
viêm dạ dày - ruột do nhiễm Rotavirus, trong đó 90% trường hợp xảy ra ở châu Á
và châu Phi. Riêng tại các quốc gia châu Á, mỗi năm có khoảng 171 ngàn trẻ bị tử

dung dịch khác tại nhà đã làm giảm tỷ lệ chết trẻ em từ 1,24% năm 1987 xuống
còn 0,37% năm 1990 (theo báo cáo của chương trình quốc gia phòng chống tiêu
chảy) [30].
Các nguyên tắc cơ bản để phòng chống bệnh tiêu chảy:
- Không bao giờ được quên những quy tắc vệ sinh an toàn thực phẩm dưới
đây:
- Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, đặc biệt là trước bữa ăn
- Uống nhiều nước (ít nhất 2 lít/ngày)
- Nếu cảm thấy không yên tâm về nước uống, hãy dùng trà thay cho nước
lọc, hoặc mua những chai nước tinh khiết được đóng chai an toàn.
10 - Không uống nước với đá nếu không biết rõ nguồn gốc của của loại đá này.
- Tránh ăn những món ăn như rau sống, cá hoặc thịt sống, hoa quả không gọt
vỏ.
- Không ăn thức ăn để lâu ngày, ôi thiu…
- Tránh để rơi vào tình trạng stress, lo âu
- Không uống nhiều rượu và ăn các gia vị cay.
1.2. CHĂM SÓC KHI TRẺ BỊ TIÊU CHẢY
1.2.1. Cho trẻ ăn và bú nhiều hơn thƣờng ngày
Nhiều nghiên cứu cho thấy các bà mẹ thường quan niệm, trẻ bị tiêu chảy phải
kiêng ăn thịt, cá, chất tanh, đường, sữa thậm chí chỉ cho trẻ ăn cháo muối trắng
là một quan niệm sai lầm. Vì như vây, trẻ bị mất nước lại không đủ chất dinh
dưỡng khiến cơ thể càng kiệt quệ hơn, không đủ sức chống đỡ lại bệnh tật. Tốt
nhất là cho trẻ ăn uống bình thường, ăn những thức ăn dễ tiêu, chia làm nhiều bữa
nhỏ và vệ sinh thân thể sạch sẽ [6], [12].
Nếu trẻ còn bú mẹ cần được bú nhiều hơn và mỗi cữ bú lâu hơn. Cho trẻ ăn
thành nhiều bữa, và thêm ít nhất 2 bữa so với những ngày không bệnh. Ăn uống
chậm. Nếu trẻ còn bú bình, tốt nhất nên dùng muỗng đút sữa chậm.

- Natriclorua : 3,5g
- Natricarbonat : 2,5g hoặc Trisodiumcitrate 2,9g
- KaliChorua : 1,5g
- Glucoza : 20g
+ Dung dịch ORS: khi hòa tan hỗn hợp ORS trong nước gọi là dung dịch ORS.
12 + Sử dụng dung dịch ORS đúng ( theo TCYTTG ), 1 gói ORS ( bột trắng mịn,
khô) pha trong 1.000 ml nước sôi để nguội khuấy đều cho tan; dung dịch đã pha
chỉ dùng trong vòng 24 giờ, cho trẻ uống dung dịch ORS ngay sau khi bị tiêu chảy.
+ Các dung dịch khác :
- Nước cháo muối:
Thành phần gồm 1 nắm gạo và 1 nhúm muối kèm 1 lít nước đun sôi đến
nhừ.
- Nước dừa tươi: một trái dừa tươi lấy nước cho uống.
- Nước chín, nước canh rau, nước súp, nước cơm.
1.2.3. Biết khi nào cần đƣa trẻ đến cơ sở y tế
Các triệu chứng ở trẻ bị tiêu chảy thường sẽ giảm sau 5-12 ngày, trẻ bắt đầu
chơi, đòi ăn trở lại và lúc này cần cho trẻ ăn thêm mỗi ngày một bữa trong ít nhất
hai tuần để “phục hồi” sức khỏe.
Một số ít trẻ bị tiêu chảy có thể diễn biến phức tạp, vì vậy khi trẻ bị tiêu chảy,
cần phát hiện những diễn biến không thuận lợi và nhanh chóng đưa trẻ đến cơ sở y
tế ngay để được xử trí kịp thời. Đó là lúc Trẻ bỏ ăn, bỏ bú; Trẻ mệt, bệnh nhiều
hơn; Trẻ rất khát nước; Trẻ ói liên tục; Trẻ sốt; Trẻ tiêu phân có máu; Trẻ li bì, khó
đánh thức; Trẻ có co giật
Không nên tự cho trẻ uống thuốc cầm ỉa hoặc ăn các lá và quả chát như lá
nhọ nồi, lá ổi xanh, quả ổi xanh Có thể sau khi uống, trẻ sẽ cầm ỉa ngay nhưng
thực ra, điều này rất nguy hiểm vì nó làm cho bệnh càng thêm kéo dài, thậm chí
nặng hơn do các virus, vi khuẩn được thải hồi chậm.

Chƣơng 2
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Toàn bộ bà mẹ có con dưới 5 tuổi sống tại ấp Tân Thành, xã Tân Phước
Hưng, Huyện Phụng Hiệp.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn đối tƣợng
- Tiêu chuẩn đưa vào: Toàn bộ bà mẹ có con dưới 5 tuổi đang sống tại ấp Tân
Thành xã Tân Phước Hưng, Huyện Phụng Hiệp.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Những bà mẹ không thể tiếp cận (vắng nhà từ 3 lần trở
lên, từ chối trả lời phỏng vấn) hoặc không thể trả lời câu hỏi của người phỏng vấn
(những người mắc bệnh tâm thần, câm điếc, bệnh giai đoạn nặng), hoặc những bà
mẹ không trực tiếp nuôi con (có người nuôi giùm do bận đi làm)
2.1.2. Kiểm soát sai lệch chọn lựa đối tƣợng nghiên cứu
Nếu bà mẹ vắng nhà 1 lần hoặc 2 lần, nhân viên điều tra phải quay lại phỏng
vấn sau. Nếu vắng nhà từ 3 lần trở lên xem như không tính.
2.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu:
Theo phương pháp nghiên cứu ngang mô tả có phân tích [11].
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu:
Theo cách tính cỡ mẫu cho một nghiên cứu ngang mô tả, chúng tôi sử dụng
công thức [11]:

2
d
p)qp(1
α/2

N = 246 x 120% ≈ 300
Vậy, cỡ mẫu trong nghiên cứu của chúng tôi là 300 bà mẹ có con nhỏ tại Ấp
Tân thành, xã Tân Phước Hưng, Huyện Phụng Hiệp, Tỉnh Hậu Giang.
2.3. CHỌN MẪU
2.3.1. Địa bàn nghiên cứu
Ấp Tân thành, xã Tân Phước Hưng, Huyện Phụng Hiệp, Tỉnh Hậu Giang.
2.3.2. Cách chọn mẫu
Chọn toàn bộ các bà mẹ có con nhỏ tại Ấp Tân thành, xã Tân Phước Hưng,
Huyện Phụng Hiệp, Tỉnh Hậu Giang.
2.4. PHƢƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ
16 Đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành của các bà mẹ có con nhỏ tại Ấp Tân
Thành, xã Tân Phước Hưng, Huyện Phụng Hiệp, Tỉnh Hậu Giang dựa vào phiếu
điều tra (xem phần phụ lục) [3], [4], [5], [7]:
- Phương pháp phỏng vấn trực tiếp những hiểu biết về kiến thức, đồng thời
tìm hiểu thái độ, hành vi của các bà mẹ có con nhỏ đối với bệnh tiêu chảy.
- Quan sát và phỏng vấn trực tiếp về thực trạng, tình hình thực tế phòng
chống bệnh tiêu chảy của người được điều tra.
2.5. CÁC BIẾN SỐ VÀ CHỈ SỐ
2.5.1. Biến số [13], [14], [15], [16], [17]:
- Tuổi : biến số định tính gồm 3 giá trị (dưới 20 tuổi, từ 20 – 40 tuổi , trên 40)
- Nghề nghiệp: biến số danh định gồm 4 giá trị (nội trợ, buôn bán, công nhân viên,
nghề khác).
- Học vấn : biến số định tính gồm 3 giá trị (Mù chữ , Cấp 1 và cấp 2, Từ cấp 3 trở
lên)
+ Mù chữ: không biết đọc, không biết viết
+ Cấp 1 và cấp 2: từ lớp 1 đến lớp 9
+ Từ cấp 3 trở lên: từ lớp 10 đến lớp 12, trung cấp, cao đẳng, đại học, sau Đại

con bị tiêu chảy
 Những dấu hiệu chứng tỏ trẻ bị tiêu chảy nặng cần đƣa đến cơ sở y tế
Là biến nhị giá gồm 2 giá trị Đúng và Sai. Bà mẹ cần biết một trong các triệu
chứng của ỉa chảy trẻ em thể nặng, đó là:
* Có biểu hiện khát nước
18 * Nôn liên tục nhiều lần
* Có sốt
* Có máu trong phân
* Đi ngoài nhiều , phân tóe nước
+ Đúng: Bà mẹ có kiến thức đúng về những dấu hiệu nặng của bệnh tiêu chảy
khi trả lời đúng từ 1 ý trở lên.
+ Sai: khi bà mẹ không trả lời được ý nào ở trên hoặc khác.
 Các loại dung dịch có thể sử dụng tại nhà khi trẻ bị tiêu chảy: là biến nhị
giá gồm 2 giá trị Đúng và Sai.
+ Đúng: khi bà mẹ có chọn ORS hoặc bú sữa mẹ (nếu trẻ dưới 6 tháng), hoặc
dùng nước cháo muối.
+ Sai:khi bà mẹ không trả lời được ý nào ở trên hoặc trả lời khác.
 Cách cho trẻ ăn, hoặc uống (bú) tại nhà khi trẻ bị tiêu chảy:
Là biến nhị giá gồm 2 giá trị Đúng và Sai.
+ Đúng: khi bà mẹ cho trẻ ăn hoặc uống (bú) như mọi ngày hoặc hơn nếu được
+ Sai: khi bà mẹ chọn giảm khẩu phần hoặc giảm số bữa ăn xuống, hoặc chỉ
cho ăn cháo trắng hoặc không nên cho ăn gì cả.
- Thái độ về nguyên nhân gây bệnh tiêu chảy: là biến nhị giá gồm 2 giá trị Đúng
và Sai.
+ Đúng: khi bà mẹ đồng ý rằng đa số trẻ bị tiêu chảy là do ăn phải thức ăn, hoặc
nước uống bị nhiễm bẩn.
+ Sai: khi bà mẹ trả lời không đồng ý hoặc không ý kiến.
+ Đúng: Khi Bà mẹ trả lời trước 24h
+ Sai: Khi Bà mẹ trả lời sau 24h.
- Nguồn cung cấp ORS : Là biến nhị giá gồm 2 giá trị đúng và sai:
+ Đúng: Khi Bà mẹ trả lời là tại trạm y tế, nhà thuốc tây, đại lý thuốc tây, ghe
hàng, cửa hàng dược, Bệnh viện.
+ Sai: Không biết.
- Thói quen đi vệ sinh: là biến nhị giá gồm 2 giá trị Đúng và Sai
+ Đúng: khi bà mẹ cho con đi vào bô, hoặc đi cầu tiêu hoặc tã.
+ Sai: khi bà mẹ cho con đi vệ sinh ra nền đất.
- Cách vệ sinh cho trẻ sau khi đi tiêu: là biến nhị giá gồm 2 giá trị Đúng và Sai
+ Đúng: khi bà mẹ chọn rửa bằng nước và có xà phòng
+ Sai: khi bà mẹ chọn lau bằng giấy vệ sinh hoặc rửa bằng nước không xà
phòng hoặc khác.
- Sử dụng nƣớc trong ăn uống: là biến danh định gồm 3 giá trị (nước máy, nước
mưa, nước giếng)
- Loại nƣớc thƣờng dùng cho trẻ uống tại nhà: là biến nhị giá gồm 2 giá trị
Đúng và Sai
+ Đúng: khi bà mẹ chọn nước đun sôi để nguội .
+ Sai: khi bà mẹ chọn nước từ vòi không đun sôi.
- Thói quen rửa tay bằng xà phòng trƣớc khi nấu ăn: là biến nhị giá gồm 2 giá
trị Đúng và Sai
+ Đúng: khi bà mẹ trả lời Có
+ Sai: khi bà mẹ trả lời Không

21 2.6. THU THẬP THÔNG TIN

3.1. ĐẶC TÍNH MẪU NGHIÊN CỨU
Bảng 3.1. Đặc tính của mẫu nghiên cứu: (n=300)
Nội dung
Nhóm
Tần số
Tỷ lệ %
Tuổi
< 20
3
1
20- 40
265
88,33
> 40
32
10,67

Nghề nghiệp

Nội trợ
182
60,67
Buôn bán
50
16,67
Công nhân viên
15
5
Nghề khác
53

96
31,67
Từ 12-dưới 24 tháng
102
34
Từ 24 tháng –dưới 5 tuổi
51
16,67
Hoàn cảnh kinh tế
Giàu
32
10,67
Khá
118
39,33
Trung bình
123
41,00
Dưới trung bình
27
9,00
Tổng cộng
300
100
23 1.00%
88.33%
10.67%

Nhận xét: Hầu hết bà mẹ chỉ học đến cấp 1 và cấp 2 (65,67%). Số bà mẹ học
từ cấp 3 trở lên chiếm khoảng 33,33%. Chỉ có 1% bà mẹ mù chữ. Biểu đồ 3.4. Phân bố số con của mẫu nghiên cứu

Nhận xét: Bà mẹ có 1 con chiếm đa số (55%),kế đến là bà mẹ có 2 con
(30,67%). Bà mẹ có 3 con (13,33%) và 4 con trở lên (1%) chiếm tỉ lệ thấp.

Tỷ lệ %
Nghề
nghiệ p
25 17.11%
31.88%
16.78%
34.23%
< 6 tháng
6- < 12 tháng
12- <24 tháng
24- < 5 tuổi

Biểu đồ 3.5. Phân bố theo độ tuổi nhỏ nhất của con theo mẫu nghiên cứu

Nhận xét: Số bà mẹ có con từ 6-dưới 12 tháng (31,67%) có tỷ lệ gần bằng
với bà mẹ có con từ 12-dưới 24 tháng (34,17%). Nhóm tỉ lệ thấp hơn thì số bà mẹ
có con dưới 6 tháng (17%) có tỷ lệ xấp xỉ với bà mẹ có con từ 24 tháng –dưới 5
tuổi (16,67%).


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status