Nghiên cứu đặc điểm nhiễm khuẩn ở bệnh nhân mắc một số bệnh máu ác tính tại viện huyết học – truyền máu trung ương - Pdf 19

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn là một trong những biến chứng thường gặp nhất ở những
bệnh nhân mắc bệnh cơ quan tạo máu, đặc biệt ở những bệnh máu ác tính
[21]. Bệnh nhân mắc bệnh cơ quan tạo máu thường có những bất thường
trong cơ chế miễn dịch bảo vệ cơ thể, quá trình sinh máu bình thường của cơ
thể bị ức chế dẫn đến giảm bạch cầu hạt trung tính, mono bào và lympho bào,
gây giảm tổng hợp Imunoglobulin, gây thiếu hụt cả đáp ứng miễn dịch đặc
hiệu và không đặc hiệu, do đó những bệnh nhân này được xếp vào nhóm có
nguy cơ cao bị nhiễm khuẩn [14].Việc sử dụng hóa trị liệu trong điều trị các
bệnh máu ác tính sẽ ức chế mạnh tủy xương, gây ra tình trạng suy tủy, là
nguyên nhân giảm các dòng tế bào máu, đặc biệt là giảm nặng BCTT, đồng
thời gây ra những bất thường trong đáp ứng miễn dịch thể và tế bào, làm tổn
thương niêm mạc, từ đó càng làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn ở những bệnh
nhân này [14], [28]. Một lý do khác làm gia tăng tỷ lệ nhiễm khuẩn ở những
bệnh nhân mắc bệnh máu ác tính sau hóa trị liệu là tình trạng nhiễm khuẩn
bệnh viện (nosocomial infection) và điều kiện vệ sinh, chăm sóc kém về
nhiều mặt trong quá trình bệnh nhân nằm điều trị nội trú.
Chính những lý do trên làm thay đổi đặc điểm nhiễm khuẩn, thời gian
nhiễm khuẩn và hiệu quả điều trị kháng sinh ở những bệnh nhân mắc bệnh cơ
quan tạo máu. Việc khống chế nhiễm khuẩn đóng vai trò cực kỳ quan trọng
trong chăm sóc hỗ trợ những bệnh nhân này. Vì vậy việc cân nhắc lựa chọn kháng
sinh được đặt ra ở mỗi cơ sở điều trị bệnh máu. Điều quan trọng là việc lựa chọn
kháng sinh phải phụ thuộc vào mô hình tác nhân gây bệnh vì tỷ lệ nhiễm khuẩn và
loại vi khuẩn thường gặp không giống nhau giữa những cơ sở điều trị, nó phụ thuộc
vào đối tượng bệnh và môi trường điều trị cụ thể ở từng nơi.
1
Tại Viện Huyết học – Truyền máu Trung Ương, khoa lâm sàng C8 là
khoa điều trị hóa chất nên hiện tượng nhiễm khuẩn là rất phổ biến. Đặc biệt
hiện nay có rất nhiều phương pháp mới trong điều trị đang được áp dụng
nhằm nâng cao hiệu quả điều trị. Để có những hiểu biết về tình trạng nhiễm
khuẩn tại khoa, góp phần giúp các Bác sỹ lâm sàng có định hướng về loại vi

chuyên môn của bệnh viện, liên quan đến sự an toàn của người bệnh và nhân
viên y tế.
3
Theo kết quả điều tra của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thực hiện tại
47 bệnh viện thuộc 14 nước đại diện cho các khu vực khác nhau trên thế giới
cho thấy NKBV xảy ra ở 8,7% bệnh nhân nhập viện [36]. Tỷ lệ NKBV trong
các bệnh viện thuộc khu vực Đông Nam Á cao hơn nhiều so với các bệnh
viện thuộc khu vực các nước phát triển.
Tại Việt Nam, theo số liệu của Vụ Điều Trị, Bộ Y tế năm 2001, tỷ lệ
NKBV ở 11 bệnh viện trên toàn quốc là 6,8%. Các NKBV thường liên quan
tới các thủ thuật xâm nhập và tập trung chủ yếu ở các khu vực ngoại khoa, sản
khoa, và điều trị tích cực [2].
Các vi khuẩn có ở mọi nơi, trong không khí, thức ăn, nước, bề mặt môi
trường, trong các chủng vi khuẩn bình thường của người và súc vật. Do đó, vi
khuẩn có mặt trên bề mặt da, niêm mạc của bệnh nhân và nhân viên, ví dụ
trong mũi, miệng, bàn tay của nhân viên y tế và người bệnh, đường tiêu hóa
Khả năng gây bệnh của vi khuẩn tùy thuộc độc lực của chúng và đường
vào cơ thể. Nó cũng phụ thuộc vào sức đề kháng với nhiễm khuẩn của bệnh
nhân mà sức đề kháng này bị giảm đi nhiều ở BN trong bệnh viện. Do đó,
những vi khuẩn vô hại ở người khỏe mạnh có thể gây bệnh ở các bệnh nhân
nằm viện. Các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện thường đề kháng với
kháng sinh cao hơn so với các vi khuẩn của nhiễm khuẩn mắc phải trong
cộng đồng.
Phần lớn tác nhân gây bệnh trong thời gian nằm viện là vi khuẩn Gr (-).
Vi khuẩn Gr (-) là nguyên nhân hàng đầu gây nhiễm khuẩn và tử vong.
Pseudomonas aeruginosa, Escherrichia coli, Klebsiella pneumoniae là những
loại vi khuẩn hay gặp nhất. E. coli và K. pneumonia là những vi khuẩn thường
cư trú trên đường tiêu hoá của người [3].
4
Vi khuẩn Gr (+) hay gặp nhất là Staphylococci epidermidis, Staphylococci

dụng kim tiêm chọc tĩnh mạch, kèm theo nhiễm khuẩn trước đó, nhiễm khuẩn
bệnh viện, suy dinh dưỡng, tuổi cao, và đồng thời có một số bệnh khác nữa
như tiểu đường, tim mạch, tiêu hóa, gan, phổi, và/ hoặc bệnh thận. Các vị trí
nhiễm khuẩn thường gặp dẫn đến nhiễm khuẩn huyết bao gồm nhiễm khuẩn
phổi, nhiễm khuẩn tiết niệu, các thủ thuật xâm nhập.
Nhiễm khuẩn huyết gây tổn thương đến rất nhiều hệ thống các cơ quan
trong cơ thể: Thần kinh, nội tiết, miễn dịch, và hệ thống tim mạch. Dấu hiệu
của nhiễm khuẩn huyết và shock nhiễm khuẩn bao gồm những thay đổi của
huyết áp, nhịp tim và nhịp thở v.v Nếu không điều trị kịp thời có thể tiến
triển thành shock nhiễm khuẩn dẫn đến tử vong ngay cả khi các nguyên nhân
gây shock được xử lý. Những yếu tố làm tăng cơ hội sống sót của bệnh nhân
bằng cách nhanh chóng chuyển bệnh nhân vào tình trạng chăm sóc đặc biệt và
điều trị tích cực bằng kháng sinh [10], [11].
1.2. Các nguyên nhân gây nhiễm khuẩn ở bệnh nhân mắc bệnh máu
ác tính .
1.2.1. Giảm nặng bạch cầu hạt trung tính
1.2.1.1. Định nghĩa
Giảm BCTT là tình trạng khi số lượng bạch cầu trong máu ngoại vi dưới
0.5 G/l hoặc từ 0.5 -1 G/l nhưng đang có xu hướng giảm dưới 0.5 G/l [13].
6
1.2.1.2. Nguyên nhân gây giảm BCTT
- Do ức chế tủy xương và suy tủy: Ở những BN mắc Leukemia, tủy
xương thường bị lấn át bởi tế bào non ác tính nên không thể sản xuất được
BCTT. Còn ở những BN suy tủy xương do suy giảm tế bào gốc vạn năng sinh
máu làm cho quá trình sản xuất BCTT giảm, làm giảm số lượng BCTT ở máu
ngoại vi [13].
- Do hóa chất: Hóa trị liệu những bệnh ác tính thường đi kèm với nhiều
mức độ giảm BCTT, giảm tiểu cầu và làm giảm sự hình thành hồng cầu.
Những biến chứng này liên quan đến nhiều mức độ diệt tế bào ở các giai đoạn
CFU. Sự hồi phục hoàn toàn thường cho thấy không có sự tổn thương ở mức

BCTT, 36% trong 26 BN có viêm phổi và giảm BCTT. Mức độ giảm BCTT
cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết do viêm phổi, 8 trong số 10 BN
có số lượng BCTT dưới 0,1G/l mắc nhiễm khuẩn huyết trong khi chỉ có 6
trong số 20 bệnh nhân với số lượng BCTT từ 0,1 - 1G/l nhiễm khuẩn huyết có
viêm phổi [36].
Bên cạnh giảm số lượng BCTT thì thời gian bạch cầu giảm cũng là yếu
tố ảnh hưởng đến nhiễm khuẩn. Vì số lượng BCTT giảm dưới 1G/l trong
khoảng thời gian ngắn dưới 1 tuần thì ít nguy cơ nhiễm khuẩn hơn những
trường hợp số lượng BC cũng ở mức đó nhưng kéo dài trên 4 tuần. Ngược lại,
số lượng BC giảm dưới 0,1G/l dù chỉ trong vài ngày cũng đi kèm với nguy cơ
nhiễm khuẩn cao. Số ngày nhiễm khuẩn cũng giảm một cách đáng kể khi số
lượng BCTT tăng cao [27]. Ở bất cứ số lượng BCTT nào thì nhiễm khuẩn
8
nặng thường xảy ra trên những bệnh nhân tái phát nhiều hơn những bệnh
nhân điều trị lần đầu.
1.2.2. Do vi khuẩn, nấm
Xu hướng đi tìm tỷ lệ nhiễm khuẩn và tác nhân gây bệnh thường gặp
bắt đầu có từ những năm 1950 và năm 1960 khi các hóa chất gây độc tế bào
bắt đầu được đưa vào sử dụng trong điều trị bệnh lý ung thư. Vào những năm
này cầu khuẩn Gram (+) là tác nhân gây bệnh hay gặp nhất. Đến những năm
1970 trực khuẩn Gram (-) lại là tác nhân gây bệnh hay gặp hơn cả ở những
bệnh nhân ung thư máu có kèm theo giảm BCTT [28].
Tuy nhiên, nhiễm khuẩn do vi khuẩn Gram (+) như Staphylococcus,
Streptococci, Corynebacteria và Clostridia đã tăng trong những năm 1990, có
thể là do sự gia tăng sử dụng cathether tĩnh mạch trung tâm và kháng sinh dự
phòng (là nơi vi khuẩn phát triển). Listeria, một nhiễm khuẩn nặng do vi
khuẩn Listeria monocytogenes gây ra, làm gia tăng nhiễm khuẩn ở bệnh nhân
ung thư. Listeria đã trở thành một biến chứng thường gặp của cấy ghép tủy
xương đầu những năm 2000 và cũng là nguyên nhân gây tử vong ở nhiều
bệnh nhân.

này được quan sát thấy ở cả những bệnh nhân mắc bệnh máu không phải là
Leukemia cũng như những bệnh nhân mắc Leukemia. Tuy nhiên hầu hết các
bệnh nhân bị nhiễm khuẩn Pseudomonas aeruginosa thường biểu hiện triệu
chứng rầm rộ hơn và chắc chắn gây nhiễm khuẩn huyết sau khi xâm nhập vào
cơ thể, đặc biệt là trong giai đoạn BCTT giảm nặng [21].
10
1.2.2.2. Vi khuẩn Gram (+):
Hay gặp nhất là Staphylococci coagulase (+) (S.Epidermidis), Staphylococci
coagulase (-) (S. aureus), Steptococsi nhóm D, trong đó hay gặp nhất là S.faecalis
và Streptococus α (S.mutans hoặc s. viridan) [51].
Nhiễm khuẩn do Staphylococci coagulase (+) hoặc coagulase (-) thường
gặp ở những bệnh nhân đã đặt catheter tĩnh mạch hoặc hàng rào da bị tổn
thương do nhiều nguyên nhân. S. aureus có xu hướng gây ra nhiễm khuẩn
nặng hơn và có thể nhanh chóng chuyển thành shock nhiễm khuẩn hoặc tạo
những ổ nhiễm khuẩn mủ sâu. Hầu hết những nhiễm khuẩn do Staphylococci
coagulase (-) thường tương đối nhẹ hơn so với S. aureus, hiếm khi thấy shock
nhiễm khuẩn. Steptococsi nhóm D bình thường nằm trên đường tiêu hóa, phần
lớn nằm trong khoang miệng và là tác nhân thường gặp của nhiễm khuẩn
trong ổ bụng và nhiễm khuẩn đường tiết niệu (hay gặp thứ hai sau trực khuẩn
Gr (-) đường ruột). Nhiễm khuẩn do Steptococci nhóm D gặp với tỷ lệ ngày
càng tăng lên sau khi dùng hóa chất gây ra tổn thương niêm mạc miệng (ví dụ
liều cao Ara – C) [51]. Vi khuẩn Gram (+) khác gặp ở bệnh nhân giảm BCTT
gồm loài Bacillus, C. jeikeium, S. faecium và Lactobacillus. Nhóm vi khuẩn
này hầu hết đều cư trú trên da và đường tiêu hóa ở người bình thường, trong
khi một số khác như S. aureus kháng methicillin và Corynebacterium
jeikeium thường không nằm trong các khoang tự nhiên mà thường mắc phải
từ nguyên nhân bên ngoài, đặc biệt hay ở những bệnh nằm viện lâu. Nhiễm
khuẩn huyết do những vi khuẩn cư trú trên da thường do việc sử dụng kim
tiêm chọc tĩnh mạch [20]. Một nghiên cứu của Klastersky và cộng sự (Anh)
năm 1998 cho thấy nhiễm khuẩn huyết do các vi khuẩn sống trên đường tiêu

mắc phải từ những tác nhân bên ngoài có trong môi trường bệnh viện,
Aspergillus thường gây nhiễm khuẩn ở phổi nhiều hơn.
Nhiễm khuẩn nấm ở bệnh nhân mắc bệnh máu ác tính có thể gặp hai loại:
Nhiễm khuẩn nấm toàn thể cấp tính: khởi phát đột ngột, cấy máu thấy
nấm, tụt huyết áp, có kèm theo tổn thương trên da, bệnh tiến triển nhanh và tử
vong trong vòng vài ngày.
Nhiễm khuẩn nấm toàn thể mạn tính tiến triển dần ngày càng nặng
trong vòng nhiều tháng, đây là loại nhiễm khuẩn nấm hiện đang được quan
tâm [12]. Hội chứng này được Bodey mô tả lần đầu tiên vào năm 1976, là
nhiễm khuẩn nấm gan và lách [6]. Ở trường hợp điển hình triệu chứng nhiễm
khuẩn ở gan và lách bắt đầu khi BCTT giảm kéo dài mà bệnh nhân vẫn sốt
dai dẳng mà không một vị trí nhiễm khuẩn nào được tìm thấy, điều trị bằng
nhiều loại kháng sinh phổ rộng không mang lại hiệu quả, bệnh nhân vẫn sốt
mặc dù có thể đã qua giai đoạn giảm BCTT, số lượng BCTT đã phục hồi về
bình thường. Giai đoạn này, nồng độ alkalin phosphattase huyết thanh sẽ tăng
cao, bệnh nhân có triệu chứng đau bụng, gan lách to. Siêu âm và CT scan thấy
nhiều ổ áp xe nhỏ ở gan, lách, thận. Chẩn đoán bằng hình ảnh tổ chức học từ
mẫu sinh thiết gan hoặc lách thấy có nhiều hạt nhỏ chứa nấm bên trong,
nhưng không phân lập được nấm khi cấy mẫu sinh thiết này [18]. Theo Elias
(1991), gần đây tỷ lệ nhiễm khuẩn nấm toàn thể ngày càng tăng lên và là
nguyên nhân hạn chế hiệu quả các phác đồ điều trị bệnh máu ác tính, làm tăng
tỷ lệ tử vong, khó chẩn đoán và điều trị.
13
1.3. Triệu chứng lâm sàng của nhiễm khuẩn ở bệnh nhân mắc bệnh máu
ác tính.
Sự suy giảm miễn dịch ở bệnh nhân ung thư và tình trạng suy tủy sau
điều trị hóa trị liệu đã làm cho BCTT giảm, cơ thể không tạo được một đáp
ứng viêm đầy đủ nên việc chẩn đoán nhiễm khuẩn rất khó. Hậu quả là các
triệu chứng lâm sàng của nhiễm khuẩn như rales phế nang, có BC trong dịch
cơ thể và sự hình thành ổ apxe có thể không có. Bằng kỹ thuật đo cửa sổ da,

1.4.1. Thay đổi về giải phẫu
Dù chỉ rộng 2m², da là hàng rào vật lý ngăn cách nội môi với ngoại
môi. Niêm mạc với diện tích rộng 400m², cấu trúc tương đối mỏng mảnh là
nơi tiếp xúc với nhiều vi khuẩn và nấm nhất, chủ yếu qua đường tiêu hóa, hô
hấp[1]. Da và niêm mạc là hàng rào bảo vệ đầu tiên rất quan trọng giúp cơ thể
chống lại các tác nhân gây nhiễm khuẩn cả bên trong và bên ngoài cơ thể.
Những bệnh nhân mắc bệnh cơ quan tạo máu thường có những tổn thương ở
hàng rào da và niêm mạc có thể do sự xâm nhập của tế bào ác tính hoặc là hậu
quả sau điều trị hóa trị liệu, tiêm chọc tĩnh mach nhiều lần, hoặc là hậu quả
những nhiễm khuẩn khư trú gây tổn thương niêm mạc. Những vị trí tổn
thương trên niêm mạc như vậy sẽ tạo vị trí thuận lợi cho vi khuẩn cư trú, sinh
sôi và xâm nhập vào cơ thể. Loại vi khuẩn hay gặp tại vị trí tổn thương trên
da và niêm mạc sẽ phụ thuộc vào vị trí tổn thương và sự có mặt hay không
các yếu tố đi kèm khác. Ví dụ da bị chọc do tiêm tĩnh mạch hoặc đặt catheter
tĩnh mạch sẽ tăng nguy cơ nhiễm trùng do cầu khuẩn Gram (+), thường là
15
cầu khuẩn coagulase (-). Tuy nhiên ở những bệnh nhân nằm viện lâu hoặc
những bệnh nhân có số lượng BCTT giảm nặng hoặc đã được dùng kháng
sinh phổ rộng trước đó thì nhiễm khuẩn tại vị trí tiêm chọc thường gây ra do
nhiều loại vi khuẩn. Chúng gồm những vi khuẩn Gram (+) khác như loài
Bacillius, nhiều loại vi khuẩn Gram (-) Pseudomonas aeruginosa hoặc các
trực khuẩn Gram (-) đường ruột [48].
Bình thường đường tiêu hóa cũng tồn tại các loại vi khuẩn ái khí và kỵ
khí. Tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa có thể dẫn đến nhiễm khuẩn do các
tác nhân gây bệnh khác nhau và đôi khi còn nhiễm khuẩn do nhiều loại vi
khuẩn một lúc. Phát hiện vị trí trên niêm mạc đường đường tiêu hóa có thể
giúp dự đoán được loại vi khuẩn gây bệnh từ hiểu biết về vi khuẩn chí tại
vùng tổn thương đó và định hướng phương pháp điều trị thích hợp thích hợp
trước khi có kết quả vi khuẩn học. Ví dụ nấm Candida albican và Aspergillus
phát triển mạnh trong môi trường acid, chúng có thể xâm lấn gây nhiễm

vi khuẩn này ở trong phân càng làm nguy cơ nhiễm khuẩn bệnh viện.
17
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Gồm 132 bệnh nhân mắc bệnh máu ác tính đang được điều trị tại khoa
điều trị hóa chất C8 thuộc Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương.
- Các bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định là:
+ Leukemia cấp dòng tủy
+ Leukemia cấp dòng Lympho
+ Leukemia kinh
+ U lympho
+ Đa u tủy xương
- Các bệnh nhân trên có tình trạng nhiễm khuẩn (Theo tiêu chuẩn của
CDC).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu.
2.2.2. Chọn mẫu
- Theo phương pháp: Chọn mẫu thuận tiện
- Cách chọn mẫu: trong thời gian nghiên cứu những bệnh nhân nào đủ
tiêu chuẩn thì đưa vào nhóm nghiên cứu.
18
2.2.3. Các bước tiến hành:
- BN được chẩn đoán xác định bệnh
- Sốt sau 48 giờ nhập viện.
- Nếu bệnh nhân có sốt và tìm được vị trí nhiễm khuẩn, tùy vào vị trí
nhiễm khuẩn mà làm các xét nghiệm:
+ Cấy máu khi BN sốt ≥ 38º5 kéo dài trên một giờ.
+ Cấy nước tiểu nếu bệnh nhân có biểu hiện đái buốt, đái rắt hoặc đái

Sốt + tìm thấy vị trí NK
Tuỳ thuộc vị trí bị NK mà
thực hiện các xét nghiệm
- Tế bào máu ngoại vi
- Chụp XQ tim phổi
- Cấy đờm
- Cấy máu
- Cấy nước tiểu
- Cấy vết loét miệng
- Cấy mủ ở vị trí apxe
- Cấy phân
Sốt + không thấy vị trí NK
Làm đồng thời các XN:
- Tế bào máu
ngoại vi
- Chụp XQ tim
phổi
- Cấy máu
- Cấy phân
- Cấy nước tiểu
- Tiếp tục theo dõi
nhiệt độ và biểu hiện
NK.
2.3. Biện pháp kỹ thuật:
2.3.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân:
- Sốt: Khi nhiệt độ đo ở miệng hoặc nách ≥ 38,5ºC một lần, hoặc ít nhất
là 38ºC trên hai lần hoặc nhiều lần cách nhau ít nhất 1 giờ trong khoảng 12
giờ. Loại trừ tất cả các trường hợp sốt do thuốc hoặc do truyền máu [52].
- Biểu hiện tại nơi tổn thương:
+ Nhiễm khuẩn đường họng miệng: Miệng có những vết trợt, loét trên

trùng bao quản.
- Đờm: lấy vào buổi sáng, bệnh nhân ngủ dậy đánh răng xúc miệng, sau
đó khạc đờm vào lọ vô khuẩn.
- Nước tiểu: lấy nước tiểu vào buổi sáng. Bệnh nhân nhịn tiểu cả đêm
hoặc trước đó 2 giờ. Rửa sạch bộ phận sinh dục ngoài bằng xà phòng. Lấy
nước tiểu giữa dòng vào ống vô khuẩn. Bệnh phẩm được gửi tới phòng xét
nghiệm trong vòng 2 giờ đầu.
- Cấy máu tĩnh mạch: Lấy 5ml máu tĩnh mạch bằng bơm tiêm vô
khuẩn cho vào canh thang theo tỷ lệ 10%.
- Mủ:
+ Với vị trí ổ áp xe chưa vỡ: Dùng kim tiêm vô khuẩn cho mủ vào lọ vô trùng.
+ Với ổ áp xe đã vỡ: Sát trùng da quanh nơi tổn thương, dùng tăm
bông vô khuẩn chấm vào mủ, bảo quản trong ống vô khuẩn.
23
- Phân: lấy phân qua bô. Bô không có chất sát trùng và tráng bằng nước
sôi để nguội. Chọn chỗ phân có nhầy máu mũi hoặc lợn cợn trắng. Dùng tăm
bông lấy một lượng phân ít nhất 1g (khoảng bằng ngón tay út). Lấy xong gửi
ngay đến phòng xét nghiệm trong vòng 1 giờ.
2.3.4. Dụng cụ làm xét nghiệm:
- Lọ vô khuẩn để đựng sinh phẩm gồm: Lọ đựng mủ, ống đựng nước
tiểu, lọ đựng phân, lọ có tăm bông vô trùng để lấy sinh phẩm.
- Môi trường nuôi cấy vi khuẩn. Khoanh giấy kháng sinh đồ do hãng
Biorad cung cấp. Tất cả các xét nghiệm định danh vi khuẩn đều được thực
hiện tại labo vi sinh của Viện Huyết học - Truyền máu Trung Ương .
- Máy đếm tế bào tự động Sysmex, kính hiển vi quang học Nikon, xét
nghiệm tế bào được thực hiện tại Khoa tế bào của Viện Huyết học - Truyền
máu - Trung Ương .
- Chụp XQ tim phổi được thực hiện tại Khoa chẩn đoán hình ảnh của
Viện Huyết học - Truyền máu - Trung Ương .
2.3.5. Kỹ thuật xử lý, phân lập và xác định vi khuẩn

+ Nếu dưới 10 khuẩn lạc thì coi như âm tính.
2.3.5.4. Cấy máu
- Lấy vô trùng 5 ml máu tĩnh mạch cho vào canh thang BHI. Tỷ lệ máu
so với canh thang là 10%, để tủ ấm 37
0
C, đọc bình máu hàng ngày.
- Nếu sau 4 ngày theo dõi không thấy vi khuẩn mọc thì trả kết quả sơ
bộ là âm tính, nhưng vẫn theo dõi bình máu đến hết ngày thứ 7.
25

Trích đoạn Nhiễm khuẩn huyết Nhiễm khuẩn đường tiêu hóa Ảnh hưởng của giảm số lượng BCTT đến tỷ lệ nhiễm khuẩn
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status