Hiệu quả bổ sung sữa có prebiotic và probiotic đến tình trạng dinh dưỡng, tiêu hoá, miễn dịch của trẻ 18 – 36 tháng tuổi tại huyện gia bình, tỉnh bắc ninh - Pdf 19

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
DƯƠNG THỊ TÌNH

HIÖU QU¶ Bæ SUNG S÷A Cã PREBIOTIC Vμ PROBIOTIC
§ÕN T×Nh TR¹NG DINH D¦ìng, tiªu ho¸, miÔn dÞch
cña trÎ 18 – 36 th¸ng tuæi t¹i huyÖn gia b×nh,
tØnh b¾c ninh LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
HÀ NỘI – 2009

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI


Trớc tiên tôi xin by tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban giám hiệu,
Phòng đo tạo sau đại học, các thầy cô giáo, các cán bộ giảng dạy của
trờng Đại học Y H Nội đã tận tình dạy dỗ v chỉ bảo tôi trong
những năm học qua.
Tôi xin by tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS. TSKH H Huy Khôi
nguyên viện trởng Viện Dinh Dỡng Quốc Gia Chủ nhiệm bộ môn
Dinh Dỡng v An ton thực phẩm trờng Đại học Y H Nội, cùng
ton thể Ban lãnh đạo Viện Dinh Dỡng Quốc Gia, Trung tâm huấn
luyện Đo tạo dinh dỡng v vệ sinh an ton thực phẩm, Phòng
quản lý khoa học v đo tạo, Khoa Vi chất dinh dỡng, đã tạo mọi điều
kiện, động viên v giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập v thực hiện
nghiên cứu ny.
Tôi đặc biệt biết ơn sâu sắc tới PGS. TSKH Nguyễn Xuân Ninh
chủ nhiệm khoa vi chất dinh dỡng Viện Dinh Dỡng Quốc Gia đã
ginh thời gian quý báu trực tiếp cùng tôi xuống thực địa để triển khai
v kiểm tra hoạt động can thiệp, tận tình hớng dẫn về chuyên môn kỹ
thuật cũng nh cách xử lý số liệu cho tôi hon thnh luận văn ny.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám đốc trung tâm Y tế dự phòng
huyện Gia Bình. Ban giám hiệu cùng ton thể các thầy cô giáo của hai
trờng mầm non thuộc huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, ton bộ phụ
huynh của các đối tợng trẻ tham gia nghiên cứu đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong việc tổ chức, triển khai, giám sát v thực hiện
nghiên cứu ny đúng tiến độ.
Tôi xin đợc by tỏ lòng biết ơn tới công ty sữa Nestle Việt Nam
đã ti trợ kinh phí v cung cấp sữa cho tôi thực hiện nghiên cứu ny.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn tất cả bạn bè đồng nghiệp gần xa, đặc
biệt cảm ơn sự động viên của chồng v con gái tôi, gia đình nội ngoại
hai bên đã tạo mọi điều kiện về tinh thần cũng nh vật chất cho tôi
trong suốt những năm học qua.


2.7. Đánh giá sau 5 tháng can thiệp 32 2.8. Xử lý số liệu. 34
2.9. Đạo đức nghiên cứu 34
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 35
3.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu 35
3.2. Hiệu quả của bổ sung sữa có synbiotic đến sự phát triển cân nặng,
chiều cao của trẻ. 36
3.3. Hiệu quả của uống sữa đến tình trạng mắc bệnh viêm đường hô hấp
cấp, tiêu chảy cấp , táo bón và chỉ số miễn dịch Ig A huyết thanh. 41
3.4. Hiệu quả bổ sung sữa có synbiotic đến cải thiện tình trạng một số vi
chất dinh dưỡng. 46
Chương 4: BÀN LUẬN 53
4.1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ nhỏ trước khi can thiệp 53
4.2. Đánh giá khả năng chấp nhận sản phẩm sữa có Synbiotic 53
4.3. Hiệu quả của uống sữa ở trẻ nhỏ 18-36 tháng tuổi 54
KẾT LUẬN 66
KIẾN NGHỊ 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ARI : Viêm đường hô hấp cấp (Acute Respiratory Infection)
CS : Cộng sự
CFU : Colony forming units
CRTL : Nhóm chứng

Bảng 3.4. Thay đổi các chỉ số Z-score tại thời điểm bắt đầu và thời điểm kết
thúc nghiên cứu. 39

Bảng 3.5. Số lần mắc bệnh viêm đường hô hấp cấp trung bình/trẻ và số ngày
mắc bệnh viêm đường hô hấp cấp trung bình /1 lần bệnh. 41

Bảng 3.6. Số lần mắc bệnh tiêu chảy cấp trung bình/trẻ và số ngày mắc bệnh
tiêu chảy cấp trung bình/lần bệnh 42

Bảng 3.7. Tỷ lệ trẻ bị táo bón trong thời gian 5 tháng can thiệp 43
Bảng 3.8. Thay đổi hàm lượng Ig A huyết thanh tại thời điểm bắt đầu và kết
thúc nghiên cứu. 44

Bảng 3.9. Thay đổi về hàm lượng các dinh dưỡng huyết thanh của hai nhóm
trẻ tại thời điểm bắt đầu và kết thúc nghiên cứu. 46

Bảng 3.10. Hiệu quả bổ sung đến tỷ lệ mắc bệnh thiếu máu, thiếu kẽm huyết
thanh và thiếu vitamin A huyết thanh. 48

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1. Sự gia tăng chiều cao của hai nhóm trẻ sau 5 tháng can thiệp. 38
Biểu đồ 3.2. Sự thay đổ tỷ lệ (%) trẻ bị táo bón ở hai nhóm tại các thời điểm
nghiên cứu. 43

Biểu đồ 3.3. Sự thay đổi hàm lượng chỉ số Ig A huyết thanh của hai nhóm trẻ
tại các thời điểm nghiên cứu 45

vi khuẩn chí đường tiêu hóa. Nhiều nghiên cứu phát hiện trong sữa mẹ có
nguồn vi khuẩn tiềm năng, đem lại lợi ích cho sức khỏe con người như
Staphylococci, Micococci, Lactobacilli, Enterococci…[66], [75].
Synbiotic: là thuật ngữ được sử dụng khi sản phẩm được bổ sung cả
probiotic và prebiotic (là thức ăn của chủng các vi khuẩn này) nhằm phát huy
tác dụng hiệp đồng giữa chúng [86]. Tác giả Weizmen đã thực hiện nghiên
cứu can thiệp có đối chứng để đánh giá ảnh hưởng của probiotic: ông thấy khi
tăng cường vi khuẩn L. reuteric hoặc B. lactis cho trẻ từ 0-10 tháng tuổi,
nhóm trẻ được bổ sung vi khuẩn có tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy cấp thấp và thời
gian mắc bệnh tiêu chảy ngắn hơn so với nhóm đối chứng [96]. Tác giả cũng
khẳng định sữa có chứa vi khuẩn Lactobacillus reuteri hoặc Bifidobacterium

2
lactis an toàn, dung nạp tốt trên đối tượng trẻ sơ sinh [82], [97]. Một số công
trình nghiên cứu gần đây cho chúng ta hiểu thêm vai trò của probiotic đối với
các bệnh tiêu chảy, viêm đường hô hấp cấp, táo bón, ung thư, tim mạch, viêm
loét dạ dày-tá tràng…[26], [36], [43], [49]. Ngày nay thức ăn được tăng
cường synbiotic phổ biến tại các nước châu Âu như các sản phẩm lên men từ
sữa, thịt, nước uống [32], [33], [53], [94]. Khuynh hướng ngày càng gia tăng
các loại sản phẩm này là do con người hiểu biết nhiều hơn về lợi ích của
synbiotic đối với sức khỏe. Các nhà khoa học cũng nhận thấy trẻ được bú sữa
mẹ hoàn toàn có lượng vi khuẩn có ích sống ở đường tiêu hóa phong phú hơn,
ít vi khuẩn gây bệnh hơn những trẻ không được bú sữa mẹ đầy đủ [40], [46],
[65]. Đây cũng là lý do quan trọng giải thích tại sao trẻ được bú mẹ hoàn
toàn có tỷ lệ mắc bệnh rối loạn đường tiêu hóa thấp hơn những trẻ không
được bú mẹ. Người ta phát hiện sữa mẹ chứa nhóm vi khuẩn sinh lactic, là vi
khuẩn có lợi cho việc tiêu hóa và hấp thu thức ăn [66], [75]. Vì vậy hiện nay
trên thị trường có bán nhiều sản phẩm sữa với thành phần gần giống với sữa mẹ
nhằm bổ sung các chất dinh dưỡng cùng một lượng vi khuẩn có ích giúp hệ vi
khuẩn chí của trẻ phát triển bền vững, ổn định.
4

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình suy dinh dưỡng và mắc bệnh tiêu chảy ở trẻ em
Ngày nay người ta quan tâm vấn đề phát triển sức khỏe toàn diện, chất
lượng con người và chất lượng cuộc sống. Do đó thế hệ trẻ được đặt ra là mối
quan tâm đầu tiên của toàn xã hội. Từ khi bà mẹ mang thai đã được quan tâm
chăm sóc đặc biệt và những năm đầu tiên của cuộc đời, trẻ được ưu tiên chăm
sóc nhiều hơn nhằm giảm thiểu nguy cơ bệnh tật sau này. Ở các nước có nền
kinh tế chậm phát triển còn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết: theo kết quả
điều tra trẻ em dưới 5 tuổi ở các nước đang phát triển năm 2007 thấy có trên
200 nghìn trẻ em bị thiếu năng lượng, SDD [34]. Phần lớn trong số đó sống ở
Đông Nam Á và vùng ngoại ô Sahara Afica. Một số nghiên cứu điều tra cắt
ngang gần đây ở các nước Châu Á như điều tra tại Nepal năm 2000 cho thấy
trẻ em độ tuổi từ 6-59 tháng tuổi sống trong trại tị nạn, có tỉ lệ trẻ bị SDD cấp
tính chiếm 4,2%, SDD mạn tính chiếm 26,9%, trẻ bị thiếu máu chiếm tới
43,3% [35]. Năm 2004 điều tra 878 trẻ dưới 5 tuổi ở Sri Lanka thấy tỷ lệ trẻ
SDD thể nhẹ cân chiếm 16,1%, tỷ lệ trẻ SDD thể gày còm chiếm 34,7% và tỷ

1.2.1.2. Hội chứng lỵ
Các triệu chứng như đi ngoài phân nhày máu mũi, đau quặn bụng, mót
rặn (trẻ nhỏ thường biểu hiện mặt đỏ, rên ì ì khi đi ngoài), có thể có sốt. Hội
chứng lỵ cũng góp phần không nhỏ đến tỷ lệ tử vong của trẻ, đặc biệt quan
trọng là gây nên tình trạng SDD trẻ em [20].
6
1.1.1.3. Tiêu chảy kéo dài
Biểu hiện khởi đầu cấp tính nhưng kéo dài thường trên 14 ngày. Một số
báo cáo cho thấy cứ 3-23% đợt trẻ bị tiêu chảy cấp tiến triển thành tiêu chảy
kéo dài. Tình trạng này hay gặp ở trẻ nhỏ 1-2 tuổi bị tiêu chảy kéo dài rồi dẫn
đến SDD và liên quan tới tỷ lệ tử vong trẻ em cao [20].
Tiêu chảy kéo dài là nguyên nhân gây tử vong trẻ em chiếm tới 35%
[20], các nhà khoa học cũng chưa xác định được loại vi khuẩn đặc hiệu nào
gây bệnh tiêu chảy kéo dài ở trẻ, mặc dù các tác giả cũng tìm thấy Salmonella
và E. coli bám dính vào niêm mạc ruột (EAEC), có lẽ là nguyên nhân làm tổn
thương niêm mạc ruột, chúng đóng vai trò quan trọng trong bệnh sinh của
bệnh tiêu chảy kéo dài [18], [20].
Tiêu chảy mạn tính: cần phân biệt với tiêu chảy kéo dài, vì tính chất
của tiêu chảy mạn tính là hay tái phát, kéo dài do các nguyên nhân không
nhiễm khuẩn như mẫn cảm với gluten hay rối loạn di truyền [3], [20].
1.1.1.4. Táo bón
Trẻ có dấu hiệu đi ngoài trên 2 ngày/1 lần, phân cứng và có cảm giác
khó khăn, phải rặn khi đi ngoài [20].
1.2.2. Bệnh viêm đường hô hấp cấp
Trẻ có dấu hiệu ho, khó thở, đặc biệt nhịp thở của trẻ vượt quá ngưỡng
quy định nhịp thở sinh lý cho từng lứa tuổi: trẻ từ 2-11 tháng tuổi thì tần số
thở > 50 nhịp/phút, trẻ từ 12-59 tháng tuổi thì tần số thở > 40 nhịp/phút [4].

hồi tràng và phát triển chậm ở đại tràng (nơi có độ pH gần như trung tính)
[65], [86]. Cơ thể điều chỉnh sự cân bằng và phân bố các loại vi khuẩn thông
qua sự thay đổi nồng độ pH, hoạt động của hệ miễn dịch và nhu động ruột.
1.3.2. Các loài vi khuẩn
Phần lớn các vi khuẩn đường ruột thuộc các nhóm sau: Bacteroides,
Clostridium, Fusobacterium, Eubacterium, Ruminococus, Peptococus,

8
Peptostrepcoccus và các Bifidobacterium. Các giống khác như Escherichia và
Lactobacilus thì chiếm số lượng thấp hơn. Đặc biệt các vi khuẩn thuộc loài
Bacteroides chiếm tới 30% vi khuẩn đường ruột, đóng vai trò quan trọng đối
với hoạt động của hệ tiêu hóa. Ngày nay người ta phân lập thêm được một số
loại vi nấm như Candida, Saccharomyces, Aspergillus và Penicillium [28],
[32], [39].
1.3.3. Sự xuất hiện của một số vi khuẩn có ích ở đường tiêu hóa
Trong thời kỳ bào thai đường tiêu hóa của trẻ là vô khuẩn, ngay sau khi
trẻ được sinh ra đã thấy sự xuất hiện một số loại vi khuẩn ở miệng, họng…
các vi khuẩn này có nguồn gốc từ mẹ hoặc từ môi trường xung quanh [46],
[65], [71]. Đối với trường hợp mổ đẻ thì vi khuẩn có thể có nguồn gốc từ mẹ
nhưng chủ yếu từ môi trường xung quanh xâm nhập vào cơ thể trẻ thông qua
các hành động cho trẻ bú, hôn và vuốt ve trẻ [66], [71].
E. coli và Streptococci là những vi khuẩn phát hiện có mặt trên cơ thể
trẻ, chỉ sau vài giờ số lượng các vi khuẩn này tăng lên từ 10
8
-10
10
/g phân [65],
[71], [86]. Trong vòng một tuần đầu sau sinh các vi khuẩn này góp phần tạo
điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn kỵ khí xâm nhập và phát triển. Các loài vi
khuẩn kỵ khí chủ yếu là Bifidobacteria, Bacteroides, Clostridium và

thành từ quá trình lên men đường bao gồm acid propionic, acid butyric, khí và
các acid hữu cơ cũng được tạo ra từ quá trình lên men này [6], [74], [93]. Các
acid acetic, acid propionic giúp gan sản xuất ATP, còn acid butyric ngoài việc
cung cấp năng lượng cho các tế bào niêm mạc đường ruột, còn có tác dụng
ngăn ngừa phòng chống các viêm ruột, bệnh dị ứng, tim mạch, ung thư…
[53], [57], [69], [70]. Một số nghiên cứu chứng minh được vai trò của vi
khuẩn có ích làm tăng quá trình hấp thu lipid, hấp thu vitamin K, đặc biệt các
acid mạch ngắn làm tăng hấp thu các chất muối khoáng như calci, magie và

10
sắt…các acid mạch ngắn cũng có tác dụng làm thay đổi sự phát triển của tế
bào niêm mạc ruột thông qua kích thích tổng hợp protein như protein vận
chuyển natri và glucose [6], [58].
1.3.4.2. Ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh
Vi khuẩn có ích ngăn chặn sự phát triển của các vi khuẩn gây bệnh,
nấm và các trực khuẩn có hại như Clostridium diffichile (khi phát triển quá
mức các loại vi khuẩn này sẽ gây lên bệnh viêm manh hồi tràng). Vi khuẩn có
ích có thể ngăn chặn sự phát triển và xâm nhập của vi khuẩn gây bệnh [47],
[69]. Chúng ức chế các chủng vi khuẩn gây hại bằng cách cạnh tranh tiếp
nhận các chất dinh dưỡng tại các receptor của tế bào niêm mạc manh hồi
tràng. Mặt khác vi khuẩn có ích còn truyền tín hiệu hóa học đến tế bào niêm
mạc ruột làm tăng quá trình vận chuyển chất dinh dưỡng vào trong tế bào
khiến cho các vi khuẩn gây hại không lấy được thức ăn, do đó chúng bị đói.
Mặt khác các vi khuẩn có ích còn tiết ra các chất bacteriocin có thể kìm chế
sự phát triển hoặc tiêu diệt được các chủng vi khuẩn gây hại [47], [73], [79].
Quá trình lên men và tạo các acid béo cũng làm giảm nồng độ pH ở manh hồi
tràng nên làm giảm sự tăng sinh của các chủng vi khuẩn gây bệnh, tạo điều
kiện thuận lợi cho chủng vi khuẩn có ích [6], [41].
1.3.4.3. Tăng cường miễn dịch
Các vi khuẩn có ích đường ruột tác động một cách liên tục lên hệ tiêu

[81], khi nuôi cấy để phân tích hệ vi khuẩn chí của đường ruột của nhóm trẻ
sơ sinh, trẻ nhỏ mắc bệnh dị ứng và nhóm trẻ không có biểu hiện dị ứng.
Nhận thấy sự khác nhau về thành phần các loại vi khuẩn ở hai nhóm trẻ này:
các vi khuẩn gây hại như C. difficile và S. aureus ở nhóm trẻ bị bệnh dị ứng
nhiều hơn ở nhóm trẻ không bị bệnh dị ứng, ngược lại số lượng vi khuẩn có
ích như Bacteroides và Bifibacteria thì lại ít hơn [58], [86]. Từ nghiên cứu

12
này các nhà khoa học cho rằng vi khuẩn có ích ở nhóm trẻ không bị bệnh dị
ứng giúp cho hệ miễn dịch phản ứng một cách hợp lý với các kháng nguyên,
khi thiếu các vi khuẩn này sẽ làm cho cơ thể đáp ứng quá mức gây ra hiện
tượng dị ứng [57], [81]. Có tác giả lại cho rằng sự khác nhau của các chủng vi
khuẩn đường ruột chỉ là kết quả chứ không phải là nguyên nhân gây bệnh.
1.3.4.5. Phòng chống bệnh viêm ruột
Các nhà khoa học cho rằng hệ vi khuẩn chí “dung nạp” hệ miễn dịch
(dịch tễ bệnh viêm ruột), tác giả khác lại cho rằng các acid béo mạch ngắn
mới có tác dụng đến phòng chống bệnh viêm ruột ở trẻ nhỏ [58], [62]. Ở các
nước có nền kinh tế chậm phát triển, trẻ em sinh ra không được bú mẹ hoàn
toàn, ăn bổ sung sớm có liên quan đến việc tiêu thụ đường và mỡ động vật
nên có tỷ lệ trẻ mắc bệnh IBD cao hơn ở các nước phát triển. Người ta cũng
nhận thấy được sự ảnh hưởng của vệ sinh an toàn thực phẩm cùng với việc
tiêu thụ rau quả, thức ăn sống không qua chế biến…là nguyên nhân ảnh
hưởng đến tỷ lệ trẻ mắc bệnh. Đặc biệt việc lạm dụng kháng sinh một cách
bừa bãi đã giết chết một số loại vi khuẩn có lợi (do sức đề kháng của các loại
vi khuẩn này với thuốc và môi trường bên ngoài kém), tạo điều kiện cho vi
khuẩn có hại phát triển làm mất cân bằng hệ vi khuẩn chí, đó là yếu tố quan
trọng đối với bệnh nguyên của bệnh IBD [28], [45], [49]. Như vậy việc bổ
sung synbiotic vào thực phẩm là cần thiết để cân bằng hệ vi khuẩn chí đường
ruột, giúp phòng ngừa và điều trị bệnh tiêu chảy, bệnh viêm ruột ở trẻ nhỏ
[36], [53].

kéo nước vào ống tiêu hóa gây lên tình trạng tiêu chảy hoặc khi thiếu các acid
béo mạch ngắn cũng có tác dụng gây hiện tượng tiêu chảy [6], [58]. Khi số
lượng các loại vi khuẩn có ích bị giảm cũng đồng nghĩa với việc làm giảm
khả năng ức chế các vi khuẩn gây bệnh như C. difficile và S. kedougou. Ở một

14
số trường hợp bệnh nặng như nhiễm trùng máu, chảy máu ở đường tiêu hóa,
tình trạng chán ăn kéo dài hoặc hiện tượng trơ miễn dịch… nhận thấy có sự
thay đổi thành phần của các chủng vi khuẩn trong hệ vi khuẩn chí đường ruột
[58], [79], [89].
1.3.6. Vai trò của vi khuẩn có ích đối với bệnh tật
Hệ vi khuẩn chí cư trú ở đường tiêu hóa của con người bên cạnh tác
dụng có lợi đôi khi còn có hại. Chúng có thể sản xuất ra độc tố và
carcinogen liên quan đến các bệnh nhiễm trùng, IBD và ung thư đại
tràng… [2], [50], [58]. Do đó điều quan trọng nhất là đảm bảo được sự
cân bằng về số lượng và chủng loại các vi khuẩn.
1.3.6.1. Đối với căn bệnh ung thư
Các vi khuẩn như Bacteroides và Clostridiu, H. Pylori, là những chủng
vi khuẩn mà các nhà khoa học đã tìm được mối liên quan đến căn bệnh ung
thư, ngược lại các vi khuẩn thuộc dòng Lactobicillus và Bifidobacteria có tác
dụng phòng ngừa căn bệnh ung thư [69], [73].
1.3.6.2. Sự di chuyển của vi khuẩn
Các vi khuẩn có ích thông thường cư trú ở đường tiêu hóa thì không
gây hại nhưng khi nó ra khỏi nơi cư trú đó thì lại rất nguy hiểm đối với sức
khỏe con người [49], [50]. Khi đường tiêu hóa bị tổn thương các chủng vi
khuẩn có cơ hội đâm xuyên qua lớp tế bào niêm mạc ruột vào cơ thể để gây
bệnh. Các vi khuẩn này khi ra khỏi đường tiêu hóa có thể gây ra hàng loạt các
bệnh khác nhau như áp xe, nhiễm trùng máu, viêm phổi…đe dọa đến sức
khỏe và tính mạng con người [50], [58].
1.3.6.3. Bệnh viêm ruột (IBD)


16
Trong đường tiêu hóa con người có khoảng 10
14
loài vi khuẩn thuộc
400 nhóm vi khuẩn khác nhau bao gồm cả vi khuẩn có ích và vi khuẩn gây
bệnh. Nhận thấy khi hệ vi khuẩn chí cân bằng thì hệ tiêu hóa con người khỏe
mạnh [25], [58], [71]. Chính vì vậy người ta tiến hành nhiều nghiên cứu đánh
giá hiệu quả của sản phẩm được tăng cường probiotic nhằm mục đích nâng
cao sức khỏe cho con người. Bifidobacteria và Lactobacilli là 2 loại vi khuẩn
có ích chính, đóng vai trò quan trọng trong phòng chống bệnh tật [47], [62],
[86]. Bên cạnh việc ức chế cạnh tranh sự phát triển của các vi khuẩn gây hại,
các vi khuẩn có ích còn điều chỉnh sự đáp ứng miễn dịch xảy ra tại ruột một
cách hệ thống, nhịp nhàng [42], [77].
1.4.1.1. Đặc điểm của vi khuẩn được sử dụng trong các sản phẩm bổ sung
Bifidobacterium
Bifidobacterium là vi khuẩn được phân lập đầu tiên ở manh hồi tràng
của người và động vật. Bifidobacteria phát triển, tồn tại trong cơ thể trẻ từ
những ngày đầu sau sinh, số lượng chủng vi khuẩn này tương đối ổn định
nhưng có xu hướng giảm dần theo lứa tuổi [40], [65], [71]. Các chủng vi
khuẩn thuộc họ Bifidobacteria chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác như: khẩu
phần ăn, căng thẳng tinh thần và đặc biệt là việc sử dụng thuốc kháng sinh
[28], [58], [86]. Bifidobacteria là vi khuẩn kỵ khí Gr(-), không chuyển động,
không tạo bào tử, có phản ứng catalase âm tính, hình dạng của chúng khác
nhau. Thành phần Guanine và Cytosine trong AND của chúng là 54mol% và
67mol%, chúng được phân loại là vi khuẩn tạo acid lactic. Hiện nay, có
khoảng 30 loài bifidobacteria được phân lập [51], [64] và chủng
bifidobacteria được phân lập, sử dụng là probiotic tăng cường vào thực phẩm
như: Bifidobacteria aldolescentis, Bifidobacterium bifidum, Bifidobacterium
animalis, Bifidobacteria thermophilum, Bifidobacteria breve, Bifidobacterium


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status