Bơm tinh trùng vào buồng tử cung và kích thích buồng trứng bằng HMG VÀ FSH tái tổ hợp - Pdf 19

Bơm tinh trùng vào buồng tử cung và kích thích
buồng trứng bằng HMG VÀ FSH tái tổ hợp

TỔNG QUAN
Kích thích buồng trứng và bơm tinh trùng làm tăng khả năng thụ thai cho các cặp
vợ chồng muộn con. Phương pháp này đã được áp dụng nhiều thập kỉ qua ở nhiều
nơi trên thế giới. Nhiều phác đồ kích thích buồng trứng khác nhau đã được sử
dụng, từ Clomiphene Citrate đến hMG, FSH tái tổ hợp và sử dụng phối hợp các
loại này, tuy nhiên, hiệu quả của các phác đồ này khác nhau theo các nghiên cứu
khác nhau. So sánh hiệu quả kích thích buồng trứng của các chế phẩm
gonadotropin ngày càng được quan tâm hơn kể từ khi có sự ra đời của FSH tái tổ
hợp.
Năm 2003, một nghiên cứu của Filicori M.
[2]
tại Ý đánh giá các đặc điểm của kích
thích buồng trứng bằng FSH tái tổ hợp (α-follitropin) hoặc hMG. Đây là nghiên
cứu tiền cứu ngẫu nhiên trên 50 bệnh nhân được bơm tinh trùng. Tác giả kết luận
việc tiêm hMG làm giảm các dấu hiệu của hoàng thể hóa sớm, giảm thời gian điều
trị, giảm liều gonadotropin và chi phí điều trị mà tỉ lệ thai lâm sàng cũng tương
đương α-follitropin.
Nghiên cứu đầu tiên so sánh hiệu quả của 3 chế phẩm gonadotropin trong các chu
kỳ bơm tinh trùng là nghiên cứu của A. Demirol (2007)
[1]
. Tác giả nhận thấy tỉ lệ
thai sau bơm tinh trùng của các trường hợp vô sinh chưa rõ nguyên nhân sử dụng
FSH tái tổ hợp (α-follitropin) để kích thích buồng trứng cho kết quả thai cao hơn
so với sử dụng FSH nước tiểu hoặc hMG.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này của chúng tôi nhằm hiểu rõ hơn hiệu quả điều trị của FSH tái tổ
hợp và hMG trong các chu kỳ kích thích buồng trứng qua việc so sánh tỉ lệ thai và
đặc điểm các yếu tố ảnh hưởng lên hiệu quả của bơm tinh trùng.

36,1 35,1
Về các đặc điểm chung, tuổi trung bình của vợ trong các chu kỳ sử dụng hMG là
28,8 ± 3,4 tuổi, tương đương với nhóm sử dụng FSH tái tổ hợp là 30 ± 3,8 tuổi.
66,7% bệnh nhân được kích thích buồng trứng bằng hMG thuộc nhóm vô sinh
nguyên phát, trong khi đó, số bệnh nhân vô sinh nguyên phát trong nhóm sử dụng
FSH tái tổ hợp chiếm 76,5%. Thời gian vô sinh trung bình của bệnh nhân trong cả
hai nhóm nghiên cứu không có sự khác biệt: 36,1 tháng ở nhóm hMG và 35,1
tháng ở nhóm FSH tái tổ hợp. 96,9% bệnh nhân sử dụng hMG chưa từng bơm tinh
trùng trước đây, tỉ lệ này là 80,6% ở nhóm sử dụng FSH tái tổ hợp.
Bảng 2: Đặc điểm sử dụng thuốc
Đặc điểm hMG FSH tái tổ hợp Giá trị p
Thời gian theo dõi phát tri
ển
nang noãn (ngày)
13,5 ± 2,6 13 ± 1,8
Lượng thuốc (IU) 898,4 ± 369,8 636,5 ± 156,5
> 0,05
Chi phí thuốc 66,7 76,5
Thời gian vô sinh trung b
ình
(tháng)
36,1 35,1
Số nang vượt trội trung bình

2,59 2,89
Độ d
ày NMTC trung bình
(mm)
10.6 11.9
Tỉ lệ thai lâm sàng (%) 17,7 20,4

hMG là 5,5%, thấp hơn so với nhóm sử dụng FSH tái tổ hợp (13%) nhưng không
có ý nghĩa thống kê.
BÀN LUẬN
Khác với nghiên cứu của chúng tôi, trong nghiên cứu của A. Demirol và T.
Gurgan (2007)
[1]
, tổng đơn vị thuốc sử dụng cho nhóm hMG nhiều hơn đáng kể
so với nhóm sử dụng FSH tái tổ hợp (p=0,001) mặc dù thời gian điều trị trung
bình giữa hai nhóm này không khác biệt. Số nang noãn vượt trội trung bình và tỉ lệ
thai lâm sàng giữa hai nhóm nghiên cứu của các tác giả này đều có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê. Trong khi đó, dân số nghiên cứu của chúng tôi không thấy có sự
khác biệt về số nang vượt trội, độ dày nội mạc tử cung và tỉ lệ thai giữa hai nhóm
nghiên cứu. Mặc dù vậy, nhóm sử dụng FSH tái tổ hợp có số lượng nang vượt trội
trung bình, độ dày nội mạc tử cung trung bình và tỉ lệ thai lâm sàng đều cao hơn
so với nhóm sử dụng hMG.
Ngược lại, về tỉ lệ sẩy thai, nghiên cứu của A. Demirol và T. Gurgan không thấy
có sự khác biệt trong khi nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy tỉ lệ sẩy thai ở nhóm
sử dụng hMG thấp hơn so với nhóm sử dụng FSH tái tổ hợp. Tuy nhiên, cần thực
hiện thêm các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng với cỡ mẫu lớn
hơn cũng như đồng hóa các yếu tố gây nhiễu để đánh giá và so sánh hiệu quả của
việc sử dụng các nhóm gonadotropin này một cách khách quan hơn. Ngoài ra, việc
đánh giá tỉ lệ sinh sống sau các chu kỳ bơm tinh trùng có kích thích buồng trứng
với các gonadotropin khác nhau cũng rất có ý nghĩa để tiên lượng hiệu quả điều trị
của các phác đồ này.
Xét về các yếu tố ảnh hưởng lên hiệu quả điều trị của bơm tinh trùng vào buồng tử
cung, chúng tôi chưa ghi nhận được yếu tố về kỹ thuật bơm tinh trùng (bơm dễ
hay khó, kinh nghiệm của bác sĩ thực hiện thủ thuật) và chưa theo dõi được tất cả
trường hợp thai kỳ sau bơm tinh trùng cho đến kết quả sanh. Những nghiên cứu
theo dõi đến giai đoạn sanh của các bệnh nhân trong tương lai sẽ đóng vai trò tiên
lượng hiệu quả điều trị bằng các chế phẩm thuốc chính xác hơn, thực tế hơn.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status