tóm tát luân án tiến sĩ hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở việt nam hiện nay - Pdf 19

Công trình được hoàn thành tại
Học viện Khoa học xã hội
Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THƯ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 62.38.50.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2013
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. Mai Hồng Quỳ
2. PGS.TS. Bùi Nguyên Khánh
Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Thị Mơ
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Như Phát
Phản biện 3: PGS.TS. Đinh Dũng Sỹ
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện họp tại Học viện khoa học xã hội vào hồi… giờ, ngày 30
tháng 11 năm 2013
Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện Quốc gia và Thư viện Học viện Khoa học xã hội.
NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Thư, “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
8 năm 2009, tr.39-45
2. Nguyễn Thị Thư, “Về một số quyền của người tiêu dùng theo pháp

nay. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật
BVQLNTD, cũng như thực tiễn thực thi, áp dụng pháp luật BVQLNTD
là hết sức cần thiết, trên cơ sở đó đưa ra định hướng, giải pháp cụ thể
1
nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật BVQLNTD trong giai đoạn hiện nay
có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận án
- Mục đích của luận án: Làm sáng tỏ vấn đề lý luận về NTD,
quyền cơ bản của NTD, nghĩa vụ của các chủ thể khác, quan hệ tiêu
dùng và pháp luật BVQLNTD; Đánh giá thực trạng pháp luật
BVQLNTD cũng như việc thực thi pháp luật BVQLNTD sau một năm
thực hiện Luật BVQLNTD trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án: Làm rõ cơ sở lý luận NTD,
quan hệ tiêu dùng, các quyền của NTD, nghĩa vụ của các chủ thể khác
trong hệ thống pháp luật BVQLNTD cũng như vai trò, vị trí của NTD,
pháp luật BVQLNTD trong hệ thống pháp luật Việt Nam; Nghiên cứu
so sánh sự ghi nhận quyền và bảo vệ quyền lợi NTD ở một số quốc gia
trên thế giới, những vấn đề pháp lý nảy sinh và rút ra kinh nghiệm cho
Việt Nam. Phân tích thực trạng pháp luật, thực trạng áp dụng pháp luật
BVQLNTD ở Việt Nam, qua đó nêu rõ những bất cập, hạn chế và
nguyên nhân của chúng; Phân tích, đánh giá xu hướng vận động của
pháp luật BVQLNTD hiện nay trên thế giới, đưa ra định hướng cho việc
hoàn thiện pháp luật BVQLNTD của Việt trong giai đoạn hội nhập kinh
tế quốc tế. Nghiên cứu và đề xuất phương hướng, những giải pháp cụ
thể nhằm hoàn thiện pháp luật BVQLNTD ở phương diện thực thi các
quyền của NTD có hiệu quả khi tham gia vào các quan hệ tiêu dùng với
các nhà sản xuất kinh doanh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án: Là những nội dung pháp luật

buộc phải có.
Thứ hai: Luận án nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách có hệ
thống và toàn diện thực trạng pháp luật BVQLNTD của Việt Nam. Trên
3
cơ sở đó chỉ ra sự khiếm khuyết, bất hợp lý cần sửa đổi, bổ sung của
pháp luật BVQLNTD sao cho phù hợp với đòi hỏi khách quan của nền
kinh tế thị trường cũng như phù hợp với điều kiện văn hóa, xã hội và
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền của Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập quốc tế.
Thứ ba: Luận giải và đề xuất cụ thể, toàn diện các giải pháp nhằm
đáp ứng được yêu cầu bảo vệ hữu hiệu NTD khi quyền lợi của họ bị
xâm phạm khá nghiêm trọng như trong bối cảnh hiện nay; Đưa ra định
hướng, các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD
ở Việt nam hiện nay.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu một cách hệ thống, khoa học và
khá toàn diện những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn làm cơ sở
xây dựng, hoàn thiện pháp luật BVQLNTD. Là sự đóng góp không nhỏ
trong việc hoàn thiện pháp luật BVQLNTD, đảm bảo trật tự và công
bằng xã hội. Luận án cũng có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ
giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực pháp luật
BVQLNTD nói chung và đạo luật BVQLNTD nói riêng.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận án gồm 4 chương:
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ
LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới

cơ quan nhà nước”, báo cáo tại Hội thảo quốc tế tháng 2/2008; Lê
Hồng Hạnh, “Thực trạng pháp luật của Việt Nam về các thiết chế bảo
5
vệ quyền lợi người tiêu dùng”, báo cáo tại hội thảo Bảo vệ NTD– kinh
nghiệm từ pháp luật của Đức và liên minh Châu Âu, tháng 7/2010…
- Nhóm công trình nghiên cứu về kinh nghiệm quốc tế như:
Chuyên đề “Cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng: thực tiễn Việt Nam
và kinh nghiệm quốc tế”, tháng 8/2007 của Viện khoa học pháp lý; Tài
liệu Hội thảo “Bảo vệ người tiêu dùng- kinh nghiệm từ pháp luật của
Đức và liên minh châu âu với Việt nam”, tháng 7/2010.
1.1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
Đến nay, chưa có công trình khoa học ở cấp độ tiến sĩ nghiên cứu,
đánh giá một cách toàn diện và có hệ thống vấn đề lý luận của pháp luật
BVQLNTD; thực trạng pháp luật BVQLNTD sau một năm thực hiện
Luật BVQLNTD, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
bảo vệ quyền lợi NTD. Chính vì vậy, luận án không trùng lặp với bất kỳ
công trình nghiên cứu nào đã thực hiện trước đây, việc nghiên cứu đề tài
luận án có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Cơ sở lý thuyết
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh;
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo vệ con người,
BVQLNTD trong giai đoạn hiện nay. Lý thuyết về các quyền cơ bản
của NTD với tư cách là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Lý
thuyết về bảo vệ kẻ yếu trong mối tương quan với kẻ mạnh nhằm đảm
bảo sự công bằng xã hội. Đây là những lý thuyết có ảnh hưởng rất lớn
tới việc xây dựng pháp luật nói chung, pháp luật BVQLNTD nói riêng
của các quốc gia, kể cả Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận là chủ

7
Quan hệ tiêu dùng là quan hệ dân sự được thực hiện trên cơ sở
hợp đồng mua bán, theo đó, NTD mua và/hoặc sử dụng hàng hóa, dịch
vụ đó không vì mục đích kinh doanh. Quan hệ tiêu dùng có các đặc
điểm sau:(i) Có ít nhất một bên là NTD; (ii) Sử dụng hàng hóa, dịch vụ
cho mục đích tiêu dùng cá nhân; (iii) Là một quan hệ bất bình đẳng và
NTD khó có quyền tự do khế ước; (iv) NTD luôn bị chèn ép và gánh
chịu rủi ro trong hợp đồng mẫu, điều kiện thương mại chung. Chính vì
các đặc điểm này mà các quy định của dân luật truyền thống không thể
và không nên áp dụng cho quan hệ tiêu dùng.
2.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng
2.2.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Sau khi nghiên cứu, luận án đưa ra khái niệm pháp luật
BVQLNTD như sau: “Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng là hệ thống
các nguyên tắc và các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong hoạt động bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng”.
2.2.2. Đặc điểm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Thứ nhất, pháp luật BVQLNTD có “biên giới” với rất nhiều
ngành luật khác nhau. Hệ thống quy phạm pháp luật BVQLNTD tồn tại
ở nhiều ngành luật khác nhau bao gồm luật dân sự, luật hành chính và
luật hình sự. Và nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau
trong lĩnh vực cạnh tranh, quảng cáo, đo lường chất lượng sản phẩm, an
toàn vệ sinh thực phẩm
Thứ hai, pháp luật BVQLNTD là một lĩnh vực luật công được
dùng để điều chỉnh quan hệ tư giữa thương nhân và NTD. Pháp luật
BVQLNTD thể hiện sự can thiệp của nhà nước vào quan hệ pháp luật
dân sự nhằm bảo vệ NTD được xem là “kẻ yếu” trong mối quan hệ với
thương nhân khi thực hiện các giao dịch dân sự.

2.3.2. Hệ thống văn bản pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở
Việt Nam
Quan hệ tiêu dùng có mặt ở hầu hết các lĩnh vực của đời sống
kinh tế, xã hội, đồng nghĩa với sự xuất hiện của NTD trong tất cả các
quan hệ này.Thế nên hệ thống pháp luật BVQLNTD bao gồm nhiều văn
bản luật liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như Luật quảng cáo;
Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Luật đo lường; Luật tiêu chuẩn và
quy chuẩn kỹ thuật; Luật an toàn thực phẩm; Bộ Luật Dân sự và Bộ
Luật Tố tụng dân sự, Luật BVQLNTD Trong đó, Luật BVQLNTD giữ
vị trí trọng tâm, quy định những vấn đề cơ bản nhất và một số chế định
đặc thù, những vấn đề khác không được quy định trong Luật Bảo vệ
NTD sẽ được dẫn chiếu, thông qua các quy định của pháp luật về cạnh
tranh, quảng cáo, chất lượng sản phẩm, an toàn thực phẩm…
2.4.Cấu trúc nội dung pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng
2.4.1. Quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng
Hiện nay Liên Hiệp quốc và nhiều nước trên thế giới đã công
nhận NTD có tám quyền sau: (i) Quyền được thỏa mãn những nhu cầu
cơ bản, đó là quyền được tiếp cận với những hàng hoá, dịch vụ thiết
yếu; (ii) Quyền được an toàn, được có những hàng hoá, dịch vụ không
gây nguy hiểm cho sức khoẻ, tính mạng hay tổn hại đến tinh thần; (iii)
Quyền được cung cấp những thông tin trung thực, chính xác và đầy đủ
về hàng hoá, dịch vụ; (iv) Quyền lựa chọn hàng hoá, dịch vụ phù hợp
với khả năng và nhu cầu của bản thân; (v) Quyền được lắng nghe, được
bày tỏ ý kiến đối với cơ quan nhà nước và các tổ chức kinh doanh trong
việc liên quan đến lợi ích của NTD; (vi) Quyền được khiếu nại và bồi
thường; (vii) Quyền được giáo dục và đào tạo về tiêu dùng; (viii) Quyền
được có môi trường sống lành mạnh và bền vững.
10
Bên cạnh các quyền được ghi nhận, NTD có trách nhiệm phát

quyền lợi người tiêu dùng
Có thể thấy đây là những quy định khá đặc thù để thực thi pháp
luật BVQLNTD một cách hiệu quả. Theo đó bao gồm: (i) Thu hồi hàng
hóa có khuyết tật: Người cung cấp hàng hóa có trách nhiệm bằng mọi
biện pháp cần thiết ngừng việc cung cấp và thu hồi hàng hóa có khuyết
tật trên thị trường; (ii)Trách nhiệm sản phẩm: Tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho NTD trong
trường hợp hàng hóa mình cung cấp có khuyết tật kể cả khi họ không có
lỗi trong việc phát sinh khuyết tật; (iii) Chống hành vi thương mại
không lành mạnh; (iv) Giải quyết tranh chấp với NTD theo thủ tục đơn
giản hoặc khởi kiện tập thể, đảo nghĩa vụ chứng minh lỗi cho nhà kinh
doanh; (v) Chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ NTD.
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
3.1.Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
3.1.1. Trước khi có Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Các quy định điều chỉnh quan hệ tiêu dùng giữa NTD và thương
nhân chưa xem NTD là bên “yếu thế” hơn. Thế nên, pháp luật dân sự
được áp dụng vào quan hệ này mà chưa có những chế định đặc thù, dẫn
đến sự bất hợp lý, bất công, không hiệu quả trong công tác BVQLNTD.
3.1.2. Sau khi có Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Pháp luật BVQLNTD được xây dựng trên nguyên tắc ưu tiên lợi
thế cho NTD. Luật BVQLNTD đã khắc phục khiếm khuyết của pháp
luật BVQLNTD trước đó bằng việc bổ sung nhiều chế định đặc thù
như: trách nhiệm sản phẩm, kiểm soát hợp đồng mẫu, một số ngoại lệ
12
khi giải quyết tranh chấp tại tòa án Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế
như sau:
1. Đối tượng bảo vệ của pháp luật BVQLNTD quá rộng, ngoài cá

định số 02/2012/QĐ-TTg mới đăng ký hợp đồng mẫu, ĐKGDC. Thế
nhưng, vẫn còn rất nhiều loại hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống của số đông NTD và/hoặc cũng được cung cấp
bởi các nhóm độc quyền nhưng chưa được yêu cầu đăng ký hợp đồng
mẫu, ĐKGDC. Điều này không hợp lý và chưa đảm bảo được quyền lợi
NTD; Trường hợp những hợp đồng mẫu, ĐKGDC đã được chấp nhận
đăng ký bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng vẫn còn tồn tại
những điều khoản bất công, trái với quy định của pháp luật về
BVQLNTD và gây thiệt hại cho NTD thì ai là người chịu tránh nhiệm
BTTH cho NTD, thương nhân hay cơ quan quản lý nhà nước đã thẩm
định, chấp nhận hợp đồng theo mẫu, ĐKGDC đó? vấn đề này Luật chưa
quy định; Ngoài ra, quy định về hình thức của hợp đồng mẫu trong
Nghị định 99/2011/NĐ-CP và Nghị định 19/2012/NĐ-CP quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVQLNTD tỏ ra mâu thuẫn,
chưa đảm bảo tính thống nhất của pháp luật;
8. Luật chưa xác định bản chất, địa vị pháp lý và nguyên tắc tổ
chức hoạt động của tổ chức BVQLNTD (do hội này không có hội viên
nên khó có thể áp dụng pháp luật về hội hiện hành); Thiếu những quy
định về điều kiện đảm bảo thực thi các quyền và nghĩa vụ của hội, đặc
biệt là về nguồn tài chính. Ngoài ra, cũng cần giải thích khái niệm “ vì
lợi ích công cộng”, vì đây là điều kiện để hội được khởi kiện vụ án
BVQLNTD;
9. Quy định về giải quyết tranh chấp của NTD theo thủ tục đơn
giản tại khoản 2 Điều 41 Luật BVQLNTD không khả thi, không thể
thực hiện được vì Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi năm 2011 vẫn chưa
thừa nhận thủ tục này. Ngoài ra, Luật có sự phân biệt không hợp lý giữa
14
NTD là cá nhân và NTD là tổ chức, gia đình trong hợp đồng mẫu,
ĐKGDC. Theo đó, NTD là cá nhân thì có quyền bảo lưu điều khoản giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài và có quyền chọn phương thức giải quyết

dính chất cấm Trifluralin, ruốc, mắm tép được làm từ thịt thối…
Thực tiễn thi hành pháp luật BVQLNTD thể hiện qua thái độ, ý
thức của các chủ thể thực thi pháp luật BVQLNTD như sau: (i) Ý thức
pháp luật của NTD rất kém, đại bộ phận NTD thiếu thông tin về pháp
luật, hiểu biết về quyền và nghĩa vụ của mình hoặc tỏ ra thờ ơ với pháp
luật BVQLNTD. Hầu hết thiếu tự tin trong tiếp cận công lý; (ii)Tổ chức
bảo vệ người tiêu dùng hoạt động kém hiệu quả do thiếu nhân lực và tài
chính. Các tổ chức ở các địa phương khác nhau chưa có sự phối hợp
hoạt động và chưa phải là chỗ dựa cho NTD; (iii) Việc vi phạm pháp
luật BVQLNTD của các tổ chức, cá nhân kinh doanh gia tăng, đặc biệt
trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm. Rất nhiều thương nhân không
đăng ký hợp đồng mẫu, ĐKGDC và lạm dụng vị trí thống lĩnh và độc
quyền chèn ép NTD; (iv) Việc thực thi pháp luật BVQLNTD của các cơ
quan Nhà nước yếu kém, lúng túng, thụ động và chưa thực sự đủ tầm
điều chỉnh và quản lý các vấn đề phát sinh; Chưa có cơ chế chỉ đạo và
phối hợp hiệu quả, ngoài ra, hầu hết các cơ quan quản lý nhà nước về
BVQLNTD đều gặp khó khăn về nguồn nhân lực vì phải kiêm nhiệm.
Các vấn đề nói trên được luận án phân tích, đánh giá một cách
khoa học, công phu, chi tiết và chỉ rõ nguyên nhân của những tồn tại đó.
CHƯƠNG 4
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƯỜI TIÊU DÙNG
4.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng
Từ kết quả nghiên cứu ở chương 3 của luận án cho thấy, pháp luật
16
BVQLNTD ở Việt Nam hiện nay vẫn còn những hạn chế, bất cập đòi
hỏi phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Việc hoàn thiện pháp luật xuất
phát, bắt nguồn từ các nhu cầu sau: Nhu cầu bảo vệ quyền lợi NTD;
Nhu cầu đảm bảo thực hiện quyền con người; Nhu cầu điều chỉnh hành

khuyến khích nghiên cứu, áp dụng chuyển giao các thành tựu khoa học
và công nghệ về bảo vệ NTD.
6. Nâng cao khả năng tự bảo vệ của NTD thông qua hoạt động
tuyên truyền, tư vấn, phổ biến pháp luật bảo vệ NTD, hỗ trợ, giáo dục
kiến thức tiêu dùng cho NTD. Và đặc biệt nên đưa giáo dục về tiêu
dùng vào các chương trình giáo dục ở các trường học.
7. Tiến hành xã hội hóa hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD, khuyến
khích, tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia
đình, cá nhân tham gia hoạt động BVQLNTD.
8. Phải ưu tiên đầu tư cho hoạt động BVQLNTD, coi đầu tư cho
công tác bảo vệ NTD là đầu tư phát triển. Cần huy động mọi nguồn lực
về tài chính, chất xám của toàn xã hội và phải có một khoản chi riêng
cho sự nghiệp BVQLNTD trong ngân sách Nhà nước hàng năm.
9. Phát triển mạng lưới bảo vệ NTD rộng khắp từ trung ương đến
địa phương, mà đặc biệt chú trọng phát triển ở nông thôn, vùng sâu
vùng xa. Xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính, đội ngũ các bộ
thực hiện công tác BVQLNTD theo hướng chính quy hiện đại, tăng
ngân sách hợp lý cho sự nghiệp bảo vệ NTD.
10. Hình thành cơ chế giám sát xã hội đối với chủ thể sản xuất,
kinh doanh kể cả cơ quan quản lý nhà nước từ phía NTD, các tổ chức
bảo vệ quyền lợi NTD mà đặc biệt là các cơ quan thông tin đại chúng.
11. Cần tập trung đào tạo, nâng cao năng lực, trình độ, đạo đức
của cán bộ trực tiếp làm công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực
BVQLNTD, tận dụng sự hỗ trợ vốn, kinh nghiệm của các tổ chức chính
phủ, phi chính phủ trong và ngoài nước.
18
12. Tăng cường năng lực hoạt động, căng cường quyền tham gia
giám sát cho các tổ chức BVQLNTD. Nhà nước cần có sự đầu tư, hỗ trợ
kinh phí cho các tổ chức BVQLNTD nhằm phục vụ công tác bảo vệ
quyền lợi NTD. Đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ, phối hợp với các tổ chức

sản, sức khỏe, tính mạng, vẫn có quyền khởi kiện nhà kinh doanh đòi
BTTH với tư cách là NTD.
Thứ ba, quy định cụ thể khái niệm “hàng hóa” và “dịch vụ”
trong Luật Bảo vệ quyền lợi NTD để làm cơ sở xác định phạm vi bảo
hộ, phạm vi điều chỉnh của pháp luật BVQLNTD.
Thứ tư, bổ sung một số quy định liên quan đến quyền của NTD
như bổ sung quyền được thỏa mãn nhu cầu cơ bản; Làm rõ cơ chế pháp
lý về quyền được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng của
NTD.
Thứ năm, cụ thể hóa nghĩa vụ bảo hành hàng hóa, dịch vụ của
nhà sản xuất kinh doanh. Theo đó, bảo hành là nghĩa vụ đương nhiên
mà không cần phải có thỏa thuận. Bởi lẽ, bảo hành là biện pháp khắc
phục những lỗi hỏng hóc, sự cố về kỹ thuật của hàng hóa do lỗi của nhà
sản xuất trong quá trình sản xuất, lưu kho, vận chuyển Đây là trách
nhiệm, nghĩa vụ đương nhiên của người cung cấp hàng hóa, dịch vụ và
đó cũng là một nguyên tắc thông thường trong luật dân sự mà nhiều
quốc gia trên thế giới đều ghi nhận.
Thứ sáu, cần quy định cụ thể về chế định trách nhiệm sản phẩm:
(i) Cần giới hạn thêm phạm vi miễn trừ trách nhiệm BTTH do hàng hóa
có khuyết tật gây ra của thương nhân để đảm bảo công bằng cho họ
như trong trường hợp: khuyết tật hàng hóa là do phải tuân thủ các quy
định bắt buộc của pháp luật; sản phẩm không dùng để bán hoặc để phân
phối dưới các hình thức khác, nhưng bằng một cách trái pháp luật NTD
có được và sử dụng; NTD sử dụng hàng hóa hết hạn sử dụng (ii) Cần
20
xác định thương nhân nào nhiều trách nhiệm BTTH do hàng hóa có
khuyết tật gây ra trong trường hợp hàng hóa qua nhiều công đoạn sản
xuất bởi các thương nhân khác nhau; (iii) Cần quy định chủ thể có trách
nhiệm tìm ra khuyết tật của hàng hóa là nguyên nhân gây thiệt hại, bởi
lẽ NTD không đủ khả năng để chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa

hành chính trong lĩnh vực BVQLNTD là quá thấp không đủ sức răn đe,
ngăn chặn hành vi vi phạm. Cần nâng mức phạt tiền cũng như thẩm
quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
BVQLNTD. Để mức xử phạt vi phạm hành chính phù hợp, không bị
“lạc hậu” so với sự phát triển kinh tế trong thời gian dài, nên quy định
cách thức để tính tiền phạt dựa trên khoản lợi bất chính mà chủ thể vi
phạm có được hoặc có thể thu được từ hành vi vi phạm.
Mười một, hoàn thiện phương thức giải quyết tranh chấp của
người tiêu dùng. Luật BVQLNTD đề cập đến thủ tục rút gọn, hay còn
được gọi là thủ tục đơn giản. Theo khoa học pháp lý, nếu xét xử theo
thủ tục đơn giản thì vụ án chỉ do một thẩm phán xét xử; bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật ngay. Tuy nhiên, hiện nay pháp
luật tố tụng dân sự hiện hành lại chưa thừa nhận thủ tục này. Vì vậy, tư
tưởng về “thủ tục đơn giản” để giải quyết tranh chấp phát sinh từ quan
hệ tiêu dùng vẫn chưa có cơ hội trở thành hiện thực. Thiết nghĩ, đây
cũng là vấn đề được sửa đổi, bổ sung trong pháp luật. Ngoài ra, không
nên phân biệt giữa NTD là cá nhân và NTD là tổ chức, gia đình khi thực
hiện quyền NTD của mình. Quy định này không thể hiện một học thuyết
pháp lý minh bạch và tiến bộ và không thể hiện bản chất “gốc” của
quan hệ tiêu dùng. Vì vậy, kiến nghị cần sửa đổi.
KẾT LUẬN
Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trên thế giới là một lĩnh vực
non trẻ so với lịch sử phát triển lâu đời của nền kinh tế thị trường. NTD
là khái niệm khá mới mẻ ở Việt Nam và trong cả khoa học pháp lý. Vấn
22


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status