Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay - Pdf 41

NGUYỄN THỊ THƢ

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THƯ

LUẬT KINH TẾ

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢOVỆ
QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
KHÓA: 2009-2012

HÀ NỘI, NĂM 2013
HÀ NỘI - năm


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
******
NGUYỄN THỊ THƢ

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƢỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

EU

: (European Union) Liên minh Châu Âu

NTD

: Ngƣời tiêu dùng

QPPL

: Quy phạm pháp luật

ACCC

: Ủy Ban Cạnh tranh và Tiêu dùng Australia

CI

: Tổ chức Quốc tế ngƣời tiêu dùng (Consumers International)

TPA

: Luật hoạt động thƣơng mại (Trade Practice Act)

VINASTAS : Hội tiêu chuẩn và bảo vệ ngƣời tiêu dùng Việt Nam
EC

: Cộng đồng Châu âu (European Community)

UBTVQH : Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội

1.2. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu

24

1.2.1. Cơ sở lý thuyết

24

1.2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu

24

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

26
Chƣơng 2:

27

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
2.1 Quan niệm về ngƣời tiêu dùng

27

2.1.1. Khái niệm ngƣời tiêu dùng

27

2.1.2. Vị trí, vai trò của ngƣời tiêu dùng

dùng
2.4.1. Quyền và nghĩa vụ của ngƣời tiêu dùng

64

2.4.2 Trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà sản xuất, cung cấp hàng 71
hóa, dịch vụ
2.4.3. Trách nhiệm từ phía Nhà nƣớc

76

2.4.4. Trách nhiệm của các tổ chức xã hội bảo vệ ngƣời tiêu dùng

78

2.4.5 Những biện pháp đảm bảo thực thi pháp luật bảo vệ quyền 79
lợi ngƣời tiêu dùng
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

83
Chƣơng 3:

85

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
3.1. Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng

85




LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngƣời tiêu dùng, trƣớc hết là con ngƣời, họ có quyền đƣợc bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, tài sản... Hơn nữa, NTD đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển
của nền kinh tế mỗi quốc gia, thế nhƣng trong mối quan hệ với tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh thì ngƣời tiêu dùng luôn ở vị thế yếu hơn. Đó là tình trạng bất cân
xứng về thông tin, hiểu biết, khả năng kiểm tra chất lƣợng hàng hóa, các khuyết tật
và các rủi ro liên quan đến sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, khả năng đàm phán, ký kết
hợp đồng, trong sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là kinh tế thị trƣờng. Trong
tƣơng quan với nhà sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ chuyên nghiệp, họ luôn
nằm ở vị thế yếu hơn so với nhà sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy, NTD luôn và
có nguy cơ gánh chịu rủi ro, thiệt hại trong quan hệ tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ.
Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với
sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng, quyền lợi của NTD ngày càng bị xâm hại
nghiêm trọng. Vì nhu cầu lợi nhuận, đạo đức kinh doanh suy đồi, không ít nhà cung
cấp đã lạm dụng ƣu thế của mình để khai thác, bóc lột, lừa dối ngƣời tiêu dùng bằng
rất nhiều hình thức: sản phẩm không đúng chất lƣợng, không đủ số lƣợng, quảng
cáo gian dối,...và hơn thế nữa, tính mạng, sức khỏe NTD đứng trƣớc sự đe dọa bởi
thực phẩm độc hại, sản phẩm không an toàn...
Mặc dù Luật Bảo vệ quyền lợi NTD đƣợc Quốc hội Việt Nam thông qua
ngày 17/11/2010, có hiệu lực từ ngày 1/7/2011, nhƣng cho đến nay quyền lợi của
NTD vẫn đang và có nguy cơ tiếp tục bị vi phạm trầm trọng. Luật BVQLNTD đã
trao cho NTD Việt Nam nhiều “đặc quyền” hơn so với những quy định của Pháp
lệnh BVQLNTD 1999 nhằm cân bằng vị thế bất bình đẳng giữa NTD và tổ chức, cá
nhân sản xuất kinh doanh trong quan hệ tiêu dùng. Đạo luật này quy định đầy đủ
hơn so với Pháp lệnh BVQLNTD 1999, với sự bổ sung của nhiều quy định quan
trọng nhƣ trách nhiệm sản phẩm, hợp đồng giao kết với NTD, điều kiện giao dịch
chung, một số ngoại lệ khi giải quyết tranh chấp tại tòa án...Tuy nhiên, vì nhiều lý

- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án:
Để đạt đƣợc mục đích đã nêu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
đƣợc xác định cụ thể nhƣ sau:
+ Nghiên cứu có hệ thống nhằm làm rõ cơ sở lý luận ngƣời tiêu dùng, quan
hệ tiêu dùng, các quyền của ngƣời tiêu dùng, nghĩa vụ của các chủ thể khác trong hệ
thống pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng;
+ Nghiên cứu và làm sáng tỏ vai trò, vị trí của NTD, pháp luật BVQLNTD
trong hệ thống pháp luật Việt Nam;

2


+ Nghiên cứu so sánh sự ghi nhận quyền và bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng
ở một số quốc gia trên thế giới qua các thời kỳ lịch sử, những vấn đề pháp lý nảy
sinh và từ đó rút ra những kinh nghiệm cho Việt Nam.
+ Phân tích thực trạng hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành về bảo vệ
ngƣời tiêu dùng khi quyền lợi của NTD bị xâm phạm ở Việt Nam.
+ Phân tích thực trạng áp dụng pháp luật BVQLNTD, qua đó nêu rõ những
bất cập, hạn chế và nguyên nhân của chúng;
+ Phân tích, so sánh, đánh giá xu hƣớng vận động của pháp luật BVQLNTD
hiện nay trên thế giới, đƣa ra định hƣớng cho việc hoàn thiện pháp luật BVQLNTD
của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Nghiên cứu và đề xuất phƣơng hƣớng, những giải pháp cụ thể nhằm hoàn
thiện pháp luật BVQLNTD ở phƣơng diện thực thi các quyền của ngƣời tiêu dùng
có hiệu quả khi tham gia vào các quan hệ tiêu dùng với các nhà sản xuất kinh
doanh.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án: là những nội dung pháp luật liên quan
đến vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD; thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật
BVQLNTD ở Việt Nam; kinh nghiệm thế giới trong xây dựng pháp luật

quan hệ tiêu dùng, pháp luật BVQLNTD; phân tích vị trí vai trò của NTD cũng nhƣ
sự cần thiết phải bảo vệ NTD; làm rõ bản chất của quan hệ tiêu dùng, pháp luật
BVQLNTD, vị trí và vai trò của pháp luật BVQLNTD trong hệ thống pháp luật, từ
đó có thể giải quyết một cách thỏa đáng những vấn đề mang tính lý luận của pháp
luật BVQLNTD. Bên cạnh đó, luận án làm rõ nhu cầu điều chỉnh bởi pháp luật đối
với hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD, xác định đƣợc nguyên tắc, định hƣớng xây
dựng, hoàn thiện pháp luật BVQLNTD, đồng thời xác định đƣợc những nội dung
không thể thiếu đƣợc coi là nội hàm mà lĩnh vực pháp luật này buộc phải có.
Thứ hai: Luận án nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách có hệ thống và
toàn diện thực trạng pháp luật BVQLNTD của Việt Nam hiện hành. Trên cơ sở đó
chỉ ra sự khiếm khuyết, bất hợp lý cần sửa đổi, bổ sung của pháp luật BVQLNTD
sao cho phù hợp với đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trƣờng cũng nhƣ phù
hợp với điều kiện văn hóa, xã hội và yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền của
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Thứ ba: Luận giải và đề xuất cụ thể, toàn diện các giải pháp nhằm đáp ứng
đƣợc yêu cầu bảo vệ hữu hiệu ngƣời tiêu dùng khi quyền lợi của họ bị xâm phạm
khá nghiêm trọng nhƣ trong bối cảnh hiện nay; đƣa ra định hƣớng, các kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt nam hiện nay. Những giải
pháp này có đƣợc dựa trên sự phân tích, đánh giá một cách khoa học, toàn diện các

4


quy định về BVQLNTD của Việt Nam hiện hành cũng nhƣ công tác thực thi pháp
luật BVQLNTD sau một năm thực thi luật BVQLNTD cũng nhƣ xu hƣớng tất yếu
phải hoàn thiện pháp luật BVQLNTD khi chúng ta xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền
và hội nhập quốc tế.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Qua phân tích về tình hình nghiên cứu pháp luật BVQLNTD, có thể khẳng
định rằng, luận án là công trình nghiên cứu một cách công phu, có hệ thống và khá

1.1. Tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Vấn đề BVQLNTD trên thế giới chỉ thực sự đƣợc quan tâm vào những năm
60 của thế kỷ XX. Khi mà tình trạng NTD bị xâm phạm các lợi ích kinh tế trở nên
nhức nhối hơn bao giờ hết mà nguyên nhân của nó không chỉ nằm ở việc độc quyền
hoặc sự liên kết giữa các thƣơng nhân [85,tr.28]. Song song với sự ra đời của các
đạo luật bảo vệ quyền lợi NTD thì các công trình nghiên cứu về vấn đề này cũng
“nở rộ”. Tuy có “tuổi đời còn kiêm tốn”, nhƣng các công trình nghiên cứu về pháp
luật bảo vệ quyền lợi NTD có số lƣợng không ít và thể hiện khá rõ sự chín chắn của
mình.
Những điển hình cho lĩnh vực nghiên cứu này là W. David Slawson với
“Standard Form Contracts and Democratic Control of Lawmaking Power”, Vol. 84
Harvard Law Review
Entwicklung

der

529, 529 (1971) ở Mỹ;

Kaufrechtspraxis

unter

dem

Biesel Manfred với „Die
Einfluß

der


Acquisitions, Ausgabe 14/2007; K.Schmidt với “ Verbraucherschutz im BGB und
AGB- Kontrolle” , JuS 2006,1ff.
Theo đó, trong bài viết “ Verbraucherschutz im BGB und AGB- Kontrolle”
của K.Schmidt, tác giả đã đề cập vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD theo Bộ Luật dân sự
của Đức. Dựa trên nguyên tắc tự do hợp đồng thì các bên có quyền tự do thỏa thuận
không bị hạn chế về nội dung trong hợp đồng. Điều này xuất phát từ tƣ tƣởng tự do
trong thị trƣờng, tự do trong thị trƣờng là sự bảo vệ NTD tốt nhất. Tuy nhiên, trong
bối cảnh của những bất cân xứng về lực lƣợng (về khả năng đàm phán trong hợp
đồng cũng nhƣ bất cân xứng về thông tin...) đã dẫn đến sự hạn chế về quyền tự do
thị trƣờng, từ đây xuất hiện nhu cầu bảo vệ NTD. Vì vậy, cho đến năm 2001 (thời
điểm cải cách Bộ Luật dân sự, mà theo đó, pháp luật về điều kiện giao dịch chung
chƣa đƣợc đƣa vào Bộ Luật dân sự trƣớc đó) Bộ Luật dân sự của Đức đã đƣợc bổ
sung, nhà nƣớc Đức đã ban hành một loạt những đạo luật bao gồm Luật về Điều
kiện giao dịch chung, Luật về bán hàng tại nhà, Luật về bán hàng từ xa...
Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng đã trở thành xu thế toàn cầu, nhanh chóng
lan tỏa đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Một số nghiên cứu tiêu biểu nhƣ: GralfPeter Calliess với “Coherence and Consistency in European Consumer Contract
Law: a Progress Report”, Frankfurt am Main, 2003; Sir John Vickers với
“Contracts and European consumer law: an OFT perspective”, Oxford 2005;
Aristides N. Hatzis với “An Offer You Can’t Negotiate: Some Thoughts on the
Economics of Standard-Form Consumer Contracts” Athens 2006; Michael G.
Faure & Hanneke A.Luth với “Behavioural Economics in Unfair Contract Terms
Cautions and Considerations”, The Author(s) 2011; Friedrich Kessler “Contracts of

7


Adhesion-Some Thoughts About Freedom of Contract”, Yale Law School 1943;
Willem van Boom and Marco Loos với “ Effective Enforcement of Consumer Law
in Europe Synchronizing Private, Public, and Collective Mechanisms”, January,
2008;

nghiệp lớn, có thế lực và những doanh nghiệp độc quyền. Tác giả đã nhận ra sự bất

8


bình đẳng giữa các bên trong hợp đồng mẫu, và NTD là bên gánh chịu sự thua thiệt.
Ông kêu gọi Pháp luật, Tòa án cần nổ lực để bảo vệ bên yếu thế hơn trong hợp đồng
mẫu, bảo vệ công chúng chống lại sự lạm dụng tự do hợp đồng.
+ Tác giả Sir John Vickers với bài viết “Contracts and European consumer
law: an OFT perspective”. Trong bài viết này, tác giả không đi sâu vào pháp luật
hợp đồng, mà dựa trên kinh nghiệm của OFT (The office of fair trading (OFT), tạm
dịch là Văn phòng Thƣơng mại công bằng) để giải quyết sự hài hòa hóa luật hợp
đồng của các nƣớc Châu âu trên cơ sở một loạt các chỉ thị của Cộng đồng Châu âu*.
Theo chỉ thị EC, các điều khoản trong hợp đồng phải đầy đủ, từ ngữ rõ ràng, dễ
hiểu, không cạm bẫy... Các điều khoản không rõ ràng, không công bằng không có
giá trị ràng buộc NTD. Tác giả cho rằng thực hiện Chỉ thị EC giúp cho việc thực thi
pháp luật bảo vệ NTD ở các quốc gia thành viên tốt hơn. Bởi lẽ, việc mua và bán
hàng hóa không chỉ diễn ra ở mỗi quốc gia châu âu mà còn vƣợt qua biên giới. Mà,
pháp luật và cơ chế thực thi ở mỗi quốc gia lại khác nhau, tạo điều kiện cho các
thƣơng nhân sử dụng “ biên giới” nhƣ một lá chắn các hành vi lừa đảo của mình,
điều này dẫn đến khó thực thi việc bảo vệ NTD. Tác giả kêu gọi và đánh giá cao sự
hài hòa hóa pháp luật hợp đồng và pháp luật NTD của các nƣớc Châu âu dựa trên
chỉ thị của EC, với sự tham gia của nhiều quốc gia Châu Âu khác. Điều này sẽ cải
thiện nội dung pháp luật bảo vệ NTD cũng nhƣ giúp cơ quan nhà nƣớc bảo vệ NTD
thực thi và xử lý có hiệu quả các trƣờng hợp xâm phạm lợi ích NTD và bảo vệ cả
những doanh nghiệp chân chính trên khắp Châu âu.
+ Hai tác giả Willem van Boom and Marco Loos với “ Effective Enforcement
of Consumer Law in Europe Synchronizing Private, Public, and Collective
Mechanisms” đã có những phân tích sâu về lợi ích nhóm trong luật tiêu dùng của
Châu Âu và của từng quốc gia thành viên. Phân tích sự liên quan của luật cạnh tranh

nhiều thành phần kinh tế. Cùng sự phát triển của kinh tế thị trƣờng, với sự cạnh
tranh gay gắt giữa các thƣơng nhân, sự xuống cấp của đạo đức và lòng tham đối với
khoản lợi nhuận kếch xù, quyền lợi ích của NTD bắt đầu bị xâm phạm ngày càng
nghiêm trọng hơn.
Có thể nói, “Bàn về tiêu dùng của Chủ nghĩa xã hội” của Trần Tri Hoằng,
Nxb Chính trị quốc gia, 1999 là công trình tiên phong nghiên cứu những vấn đề
mang tính lý luận về tiêu dùng. Cuốn sách đã tổng kết thực tiễn tiêu dùng hơn 40
năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc, đặc biệt trong thời kỳ cải cách, mở
cửa từ năm 1978 đến nay dựa trên cơ sở lý luận của C. Mác- Ph. ĂngGhen, V. I. Lê
Nin về vấn đề tiêu dùng và tham khảo thành tựu lý luận về tiêu dùng trong kinh tế
học phƣơng Tây. Trong cuốn sách này, ông đã trình bày năm vấn đề lớn: Quan
niệm về tiêu dùng; hệ thống tiêu dùng; cơ cấu tiêu dùng; hành vi tiêu dùng và quyền
lợi của ngƣời tiêu dùng. Tác giả tiến hành tìm hiểu một cách toàn diện về lý luận cơ
bản, các quy luật vận hành, diễn biến, các quan hệ của tiêu dùng: giữa sản xuất với

10


tiêu dùng, phân phối với tiêu dùng, trao đổi với tiêu dùng. Ngoài những vấn đề
mang tính lý luận về tiêu dùng, tác giả cũng đã đề cập đến một số quyền của NTD
nhƣ: quyền đƣợc tìm hiểu; quyền đƣợc lựa chọn; quyền bảo đảm chất lƣợng, giá cả,
an toàn, cân đong; quyền sửa chữa, thay đổi, trả lại tiền và đòi bồi thƣờng. Quyền
của NTD tuy chƣa đƣợc đề cập và phân tích một cách đầy đủ, nhƣng đây có thể
xem là sự gợi mở cho các công trình sau, kế thừa và tiếp tục làm rõ hơn các vấn đề
lý luận liên quan đến bảo vệ quyền lợi NTD.
Trong số những công trình mang tính tiên phong nghiên cứu vấn đề bảo vệ
quyền lợi NTD ở Việt Nam, không thể không nhắc đến “Tìm hiểu Luật bảo vệ
người tiêu dùng các nước và vấn đề bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam” của Viện
Nhà nƣớc và Pháp luật biên soạn, Nxb Lao động, 1999. Cuốn sách này là tài liệu
tham khảo rất có giá trị đối với các học giả cũng nhƣ những độc giả trong nƣớc

cũng phải là đối tƣợng điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Bởi lẽ, các hành vi nhƣ can thiệp vào quyền tự do quyết định của khách hàng,
khuyến mại gian dối, quảng cáo sai lệch....không chỉ xâm hại đối thủ cạnh tranh mà
còn trực tiếp xâm hại quyền lợi NTD. Bài viết đặt nền tảng cho nhận thức mới về
pháp luật bảo vệ NTD cũng nhƣ mối quan hệ mật thiết giữa pháp luật bảo vệ NTD
và pháp luật cạnh tranh. Nhƣ vậy, NTD không chỉ đƣợc bảo vệ bởi Luật bảo vệ
NTD, mà còn đƣợc bảo vệ bởi nhiều chế định pháp luật khác nhau, trong đó có cả
pháp luật cạnh tranh.
+ Tác giả Nguyễn Nhƣ Phát, trong bài viết “Pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh”, bài đăng trong cuốn: "Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh ở
Việt Nam hiện nay", NXB. Công an nhân dân, HN. 2001. (tr. 239-267). Trong đó,
tác giả đã khái quát lịch sử hình thành của pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh và pháp luật về kiểm soát độc quyền, cũng nhƣ điểm qua hình thức thể hiện
của pháp luật cạnh tranh của một số quốc gia Châu Âu nhƣ : Pháp, Đức, Italia và
Anh. Bài viết rất có giá trị khoa học và là đóng góp không nhỏ cho quá trình soạn
thảo cũng nhƣ ban hành Luật Cạnh tranh ở nƣớc ta. Ngoài ra, bài viết đã thể hiện
cái nhìn đa chiều và khá bao quát những hành vi cạnh tranh không lành mạnh xâm
phạm đến quyền lợi NTD. Với một số quy định của Luật thƣơng mại và những quy
định của pháp luật về quảng cáo, vẫn chƣa đủ sức để chống lại các dạng hành vi
cạnh tranh không lành mạnh xâm hại đến quyền lợi NTD đang diễn ra khá nhức
nhối trong thƣơng trƣờng hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đề nghị cần đƣa những
hành vi này vào Luật Cạnh tranh để bảo đảm hơn quyền lợi của NTD.
+ Bài viết Thạc sĩ Ngô Vĩnh Bạch Dƣơng, “Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong pháp luật cạnh tranh”, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 11 năm 2000.
Theo tác giả, một trong những nguyên tắc cơ bản của tự do cạnh tranh là sự tự do
hợp đồng, theo đó ngƣời tiêu dùng đƣợc tự do lựa chọn nhà cung cấp để mua hàng

12



chức quốc tế NTD (Consumer International). Ngoài ra, pháp luật bảo vệ NTD của
một số quốc gia phát triển nhƣ Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc, Anh, Mỹ, Canada,

13


Australia cũng đƣợc đề tài xem xét, nghiên cứu. Trên cơ sở phân tích thực trạng
pháp luật và thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ NTD của Việt Nam, đề tài đã đƣa
ra nhiều kiến nghị về phƣơng hƣớng và giải pháp rất có giá trị cho việc xây dựng
Luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng. Đây là một tài liệu rất có giá trị và hữu ích
cho công tác nghiên cứu lập pháp cũng nhƣ khoa học pháp lý về bảo vệ quyền lợi
NTD ở Việt Nam hiện nay.
+ TS. Đặng Vũ Huân với bài viết “Pháp luật và vấn đề bảo vệ người tiêu
dùng” đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề về pháp luật và tiêu
dùng tháng 1 năm 2005, bài viết tiếp cận vấn đề bảo vệ NTD theo kinh tế học. Tác
giả phân tích mối quan hệ kinh tế giữa NTD và tổ chức, cá nhân sản xuất kinh
doanh trong kinh tế thị trƣờng, từ đó có thể thấy NTD giữ vị trí rất quan trọng đối
với nền kinh tế. Bài viết cũng đã chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến quyền lợi của
NTD chƣa đƣợc bảo đảm. Trong đó, một trong những nguyên nhân cơ bản là do các
quy định của pháp luật mang tính tổng quát, chung chung và chƣa có cơ chế xử lý
thích đáng đối với hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ NTD. Bên cạnh đó, tác giả đã
đƣa ra một số kiến nghị mang tính vĩ mô nhằm tăng cƣờng hiệu quả công tác bảo vệ
NTD.
+ TS. Đinh Thị Mỹ Loan, “Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của Việt Nam
- thực trạng và nhu cầu hoàn thiện”, báo cáo tại Hội thảo quốc tế do Viện Nhà nƣớc
và Pháp luật và Viện KAS (CHLB Đức) tổ chức tháng 2/2008. Bài viết giới thiệu
một cách tổng quan về các chế định pháp luật trong hệ thống pháp luật bảo vệ ngƣời
tiêu dùng, trong đó Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng đóng vai trò trung
tâm. Cũng trong bài viết này, tác giả đã phân tích những ƣu điểm và hạn chế, bất
cập trong quy định liên quan đến pháp luật bảo vệ NTD. Mà theo tác giả, các quy

+ PGS.TS Nguyễn Nhƣ Phát với bài viết “Một số vấn đề lý luận xung
quanh Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và
Pháp luật Số 2/2010. Bài viết đã tạo cơ sở cho việc nghiên cứu, góp ý đối với Dự
thảo Luật bảo vệ quyền lợi NTD. Tác giả nêu và làm rõ một số hiện tƣợng pháp lý
đƣợc ghi nhận trong Dự luật, bao gồm các vấn đề quan trọng nhƣ: Vị trí của pháp
luật bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong hệ thống pháp luật; Những vấn đề về ngoại lệ
trong giao kết hợp đồng cũng nhƣ thủ tục giải quyết khiếu kiện của NTD; Kiểm soát
điều kiện giao dịch chung; Trách nhiệm của nhà sản xuất do sản phẩm có khuyết
tật; Khởi kiện tập thể và áp dụng thủ tục rút gọn. Đây là một đạo luật chứa đựng
nhiều vấn đề mới so với nhận thức pháp lý truyền thống và của số đông, vì vậy, có
rất nhiều ý kiến tranh cãi. Tuy nhiên, tác giả đã cổ súy cho những điểm mới này trên
nguyên tắc bảo vệ tối đa lợi ích NTD. Và nhằm tránh xung đột của hệ thống pháp
luật đối với những ngoại lệ khi bảo vệ quyền lợi NTD, tác giả đề nghị nên đƣa
những ngoại lệ này vào Hiến pháp và Bộ luật tố dụng dân sự đang đƣợc nghiên cứu

15


sửa đổi.
Thứ ba: Nhóm công trình nghiên cứu thể hiện “sự quan tâm” đến thực trạng
các quyền cơ bản của ngƣời tiêu dùng trong pháp luật bảo vệ NTD. Cụ thể nhƣ: Tô
Giang, Quyền lợi người tiêu dùng vẫn chưa được đảm bảo, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, số chuyên đề về pháp luật và tiêu dùng tháng 1/2005; “Bảo đảm quyền
của người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường định hướng XNCN ở nước ta hiện
nay”, kỷ yếu đề tài cấp bộ của Viện nghiên cứu quyền con ngƣời, chủ nhiệm đề tài
TS.Tƣờng Duy Kiên, 2007; Ths. Trần Thị Hoè, “Bảo đảm quyền được cung cấp
thông tin của người tiêu dùng ở nước ta hiện nay”, kỷ yếu đề tài cấp bộ của Viện
nghiên cứu quyền con ngƣời, 2007 ; Ths. Hoàng Mai Hƣơng, “Bảo đảm quyền
được bồi thường thiệt hại của người tiêu dùng ở nước ta hiện nay” kỷ yếu đề tài cấp
bộ của Viện nghiên cứu quyền con ngƣời, 2007; Ths. Nguyễn Thị Báo “Trách

liên quan đến quyền đƣợc cung cấp thông tin trung thực về chất lƣợng, giá cả,
phƣơng pháp sử dụng hàng hoá, dịch vụ của NTD. Tuy nhiên, quyền này của NTD
trên thực tế không đƣợc tôn trọng bởi sự gian dối của các doanh nghiệp trong quảng
cáo cũng nhƣ ghi nhãn hàng hóa...Trên cơ sở đó, bài viết đã có vài kiến nghị mang
tính vĩ mô nhằm khắc phục tình trạng nêu trên.
+ Bài viết “Bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại của người tiêu dùng ở
nước ta hiện nay” của Hoàng Mai Hƣơng đăng trong kỷ yếu đề tài cấp bộ của Viện
nghiên cứu quyền con ngƣời năm 2007. Trong bài viết, tác giả đã nhận thấy việc
giải quyết khiếu nại và bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời tiêu dùng còn chƣa thỏa
đáng. NTD gặp rất nhiều khó khăn vì thời gian và khoản kinh phí rất lớn khi tham
gia tố tụng. Vì vậy, Nhà nƣớc cần có chính sách hỗ trợ, bảo đảm quyền đƣợc bồi
thƣờng thiệt hại của NTD trong thực tế.
+ TS. Nguyễn Duy Sơn với bài viết “Bảo đảm quyền được giáo dục của
người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay” đăng trong kỷ yếu đề tài cấp bộ của Viện
nghiên cứu quyền con ngƣời năm 2007. Bài viết đã nhìn nhận một cách thấu đáo
tình trạng không tƣơng xứng về trình độ và khả năng của ngƣời tiêu dùng so với nhà
sản xuất trong việc xác định giá cả, chất lƣợng và xuất xứ của sản phẩm. Bởi lẽ,
NTD bị động, thiếu kiến thức tiêu dùng và hơi dễ tính. Chính sự không hiểu biết về
pháp luật là nguồn gốc gây ra những bất hạnh cho ngƣời tiêu dùng. Vì thế, ngƣời
tiêu dùng Việt Nam cần đƣợc bảo đảm quyền đƣợc giáo dục trên thực tế.
Thứ tư, Nhóm các công trình nghiên cứu các thiết chế bảo vệ quyền lợi NTD
- một bộ phận cấu thành cơ chế pháp lý bảo vệ quyền lợi NTD. Trong đó, các bài
viết tiêu biểu nhƣ: “Quyền của người tiêu dùng và trách nhiệm của các cơ quan
nhà nước”, PGS.TS Đinh Ngọc Vƣợng, báo cáo tại Hội thảo quốc tế do Viện Nhà
nƣớc và Pháp luật và Viện KAS (CHLB Đức) tổ chức tháng 2/2008; GS.TS Lê
Hồng Hạnh, “Thực trạng pháp luật của Việt Nam về các thiết chế bảo vệ quyền lợi

17



thực trạng và triển vọng ở Việt Nam, do ISL và KAS tổ chức tại TP.HCM tháng
11/2009. Tác giả phân tích, luận giải sự cần thiết áp dụng thủ tục xét xử rút gọn

18



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status