Đề tài: Chuyên đề thực tập tốt nghiệp “Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh thẻ thanh toán tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam-Techcombank” - Pdf 19

1
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp “Giải
pháp phát triển hoạt động kinh doanh
thẻ thanh toán tại Ngân hàng TMCP Kỹ
thương Việt Nam-Techcombank”
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, thuật ngữ thẻ thanh toán không còn xa lạ đối với
người dân Việt Nam như trước đây.Thẻ thanh toán đã được đưa vào giao dịch
ở nước ta từ những năm đầu thập kỷ 90. Thẻ Ngân hàng là một trong những
phương thức thanh toán hiện đại dựa trên nền tảng của hệ thống thông tin, xử
lý của mỗi Ngân hàng, nên dễ được thị trường chấp nhận nhất và nhanh chóng
được phổ dụng ở Việt nam.
3
Thực tế những năm qua cho thấy dịch vụ thanh toán thẻ đã đem lại
nhiều thành tựu đáng kể cho Việt Nam nói chung và các NH tham gia thanh
toán thẻ nói riêng. Thông qua phát hành và thanh toán thẻ, các Ngân hàng đã
đem lại cho nền kinh tế một lượng vốn đầu tư khá lớn, một lượng ngoại tệ
đáng kể góp phần vào phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta có thể khẳng
định rằng thẻ thanh toán ra đời là một tất yếu của một nền kinh tế phát triển.
Tuy nhiên dịch vụ này trong thời gian tới sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn,
vì vậy quan tâm phát triển thẻ thanh toán là việc rất cần thiết.
NHTM Cổ phần Kỹ thương Việt Nam-Techcombank, một Ngân hàng
đưa vào dịch vụ thanh toán thẻ ngay từ những năm đầu tiên mới thành lập.
Mặc dù hoạt động thanh toán thẻ của Techcombank đã đạt được những kết
quả nhất định, tuy nhiên cũng đã phải đối mặt với không ít những khó khăn.
Hơn nữa, trong thời gian tới Techcombank không những phải lo khắc phục
những bất cập chung mà còn phải cạnh tranh với những Ngân hàng trong và

1.1. Ngân hàng thương mại và hoạt động của ngân hàng thương mại.
1.1.1. Bản chất của ngân hàng thương mại.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, Ngân hàng thương mại
ra đời là một tất yếu khách quan do đòi hỏi của sản xuất và lưu thông hàng
hoá. Qua quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, NHTM đang dần dần hoàn thiện và phát triển các nghiệp vụ cơ bản của
mình.
Ở Việt Nam, theo Điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng: “Tổ chức tín
dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của này và các quy định
khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng
với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các
dịch vụ thanh toán khác”.
Qua những khái niệm trên có thể thấy ngân hàng thương mại là một
doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, có hai hoạt động cơ bản:
- Nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, cá nhân, các tổ chức, cơ quan
nhà nước và các tổ chức tín dụng tài chính khác kể cả trong nước và ngoài
nước.
- Sử dụng các nguồn vốn nói trên để cho vay hoặc chiết khấu và cung
ứng các sản phẩm dịch vụ khác cho nền kinh tế.
Cho đến ngày nay, một ngân hàng thương mại hiện đại có thể có tới
hơn 300 sản phẩm dịch vụ các loại để phục vụ cho các yêu cầu ngày càng
phong phú, đa dạng của mọi đối tượng khách hàng. Tiếp theo chúng ta sẽ tìm
6
hiểu một số chức năng chủ yếu của ngân hàng thương mại trong cơ chế thị
trường.
1.1.2. Chức năng của NHTM.
1.1.2.1. Chức năng thủ quỹ và trung gian thanh toán.
Chức năng thủ quỹ là chức năng đầu tiên của NHTM, gắn liền với sự ra
đời của NHTM và làm cơ sở cho Ngân hàng thực hiện các chức năng tín
dụng, thanh toán và các dịch vụ khác.

đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế đảm bảo cho quá trình sản xuất
kinh doanh được liên tục, là cầu nối giữa tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư, động
viên vật tư hành hoá đưa vào hoạt động sản xuất lưu thông, mở rộng nguồn
vốn thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất. Đối với
NHTM hoạt động tín dụng là hoat động chủ yếu mang lại nguồn thu lớn nhất
cho Ngân hàng, bên cạnh đó nó cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro.Vì
vậy Ngân hàng nghiên cứu, áp dụng biện pháp quản lý nhằm mở rộng hoạt
động và đảm bảo an toàn tín dụng.
1.1.2.3. Chức năng tạo tiền.
Qúa trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín
dụng và thanh toán trong hệ thống Ngân hàng, trong mối liên hệ chặt chẽ với
hệ thống Ngân hàng trung ương của mỗi nước. Khả năng tạo tiền là khả năng
biến mức tiền gửi ban đầu tại một Ngân hàng đầu tiên nhận tiền gửi thành một
khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần khi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng thanh
toán qua nhiều Ngân hàng. Một Ngân hàng này cho vay xong là hết vốn, thì
8
số vốn đó lại chuyển sang Ngân hàng khác trở thành vốn tiền gửi và làm tăng
thêm vốn tiền gửi của các Ngân hàng khác.
Chức năng tạo tiền của hệ thống NHTM liên quan chặt chẽ với chính
sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương. Thông qua đó Ngân hàng Trung ương
có thể tăng hay giảm lượng tiền cung ứng bằng việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt
buộc nhằm điều tiết vĩ mô, ổn định nền kinh tế.
1.1.3. Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại
Theo Từ điển thuật ngữ tài chính tín dụng: “ Nghiệp vụ ngân hàng là
những sản phẩm mà ngân hàng thực hiện trong việc huy động các nguồn vốn
tiền tệ và đầu tư số vốn huy động được, cấp tín dụng, phục vụ thanh toán cho
khách hàng và làm các dịch vụ khác theo sự uỷ thác của khách hàng”.
Các nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại được thể hiện ở nội
dung các khoản mục thuộc bảng tổng kết tài sản hay bảng cân đối kế toán của
ngân hàng và có thể phân chúng thành ba nhóm: Các nghiệp vụ Tài sản Nợ,

- Tài khoản gửi tiết kiệm: Phần lớn là tiền gửi tiết kiệm của các cá
nhân, tuy số tiền gửi của mỗi người không nhiều, nhưng số người gửi đông
nên tiền gửi tiết kiệm của nhiều triệu người trong nước thực sự là một nguồn
vốn kinh doanh quan trọng của ngân hàng, đồng thời việc thu hút nhiều nguồn
vốn này còn có tác dụng kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả thị trường. Số lượng
tiền gửi tiết kiệm thu hút được nhiều hay ít, trước hết phụ thuộc vào lãi suất danh
nghĩa của nó có cao hơn lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát hay không.
1.1.3.2 Cho vay
10
* Thứ nhất: Cho vay tiền
Là loại cho vay mang hình thức một hợp đồng vay tiền. Trong hợp
đồng nêu rõ: ngân hàng cam kết giao cho người vay một khoản tiền trong một
thời gian nhất định và người vay cam kết trả cho ngân hàng khoản tiền tương
ứng với số tiền đã vay cùng với số tiền lãi tỷ lệ với số tiền gốc và thời hạn
vay.
* Thứ hai: tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền
Tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền có các hình thức chủ
yếu: chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá, bao thanh toán Factoring
- Chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá: Chiết khấu thương phiếu
là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở
hữu thương phiếu chưa đến hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng
mệnh giá của thương phiếu trừ đi lợi tức và hoa hồng chiết khấu.
- Bao thanh toán (Factoring): Bao thanh toán là một hợp đồng mà trong
đó một tổ chức tín dụng chuyên nghiệp được gọi là “Factor” mua đứt các trái
quyền của người cung cấp (người bán) đối với khách hàng của họ (người
mua).
Thứ ba: cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính là hình thức tài trợ vốn bằng cách ngân hàng giao
động sản, bất động sản, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, dây chuyển sản
xuất, khách sạn, kho tàng cho khách hàng (người thuê) sử dụng. Nói cách

phát sinh từ các quan hệ kinh tế, tài chính giữa các tổ chức kinh tế quốc tế,
giữa các hãng, giữa các cá nhân của các nước khác nhau để kết thúc một chu
12
trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, bằng các hình thức chuyển
tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại các ngân hàng.
Các công cụ thanh toán quốc tế chủ yếu gồm có: Hối phiếu, Lệnh
phiếu, Séc
c. Thu hộ tiền thuế, tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại
Trên cơ sở các uỷ nhiệm chi, hoá đơn, hợp đồng nhờ thu hộ của các cơ
quan thuế điện lực, bưu điện, nước ngân hàng sẽ thực hiện ghi nợ tài khoản
của khách và ghi có tài khoản tiền gửi cho các cơ quan trên.
d. Cung ứng các phương tiện thanh toán hiện đại như: Phát hành và
thanh toán các loại thẻ, thực hiện rút tiền tự động qua máy ATM, Thẻ séc
Khách hàng cá nhân có tài khoản tiền gửi hoặc tài khoản vãng lai ở
ngân hàng đảm bảo có số dư khi thanh toán, nếu muốn sử dụng thẻ ngân hàng
sẽ cấp cho khách hàng một thẻ séc. Tấm thẻ ghi rõ số tiền tối đa của thẻ, tên
của ngân hàng phát hành thẻ, mã số của chi nhánh phát hành, tên của khách
hàng sử dụng, số thẻ và ngày hết hạn của thẻ. Thẻ được sử dụng theo hai nội
dung: rút tiền mặt tại các ngân hàng và “đảm bảo” cho việc thanh toán hàng
hoá và dịch vụ.
Do khách hàng không phải ký quỹ hoặc không nhất thiết phải có đủ số
dư trên tài khoản so với số tiền ghi trên thẻ, nên trong trường hợp số tiền ghi
trên séc lớn hơn số dư trên tài khoản của khách, ngân hàng vẫn phải đảm bảo
thanh toán cho người thụ hưởng, phần vượt quá số dư ngân hàng sẽ làm vịêc
và xử lý với chủ tài khoản sau. Vì vậy, khi cấp phát thẻ séc, ngân hàng phải
chọn lọc đối tượng để được cấp thẻ séc.
Thẻ séc thường được kết hợp với thẻ rút tiền tự động (ATM) và thẻ
thanh toán thành một thẻ đa năng.
13
- Thẻ thanh toán (Debit Card): Thẻ thanh toán hay còn gọi là “thẻ nợ”

Tuy nhiên, ngân hàng không phải là người đầu tiên phát hành thẻ. Tại
Mỹ, các thẻ bách hoá, thẻ du lịch và giải trí được phát hành trước khi bước
vào ngành công nghiệp ngân hàng. Các ngân hàng tham gia vào lĩnh vực thẻ,
nó cho phép các ngân hàng đưa ra được các dịch vụ mới cho các khách hàng
hiện có và là một phương tiện tối ưu để hấp dẫn các khách hàng mới- các cá
nhân cũng như những doanh nghiệp bán lẻ. Mặc dù không phải là một yếu tố
quyết định, có lẽ nhiều ngân hàng đã tham gia vào lĩnh vực này nhằm đuổi
kịp những phát triển mà sự cạnh tranh đòi hỏi. Dĩ nhiên là các ngân hàng
cũng được khuyến khích áp dụng các dịch vụ thẻ do khả năng gia tăng lợi
nhuận của chính ngân hàng.
Thẻ xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào năm 1914 khi tổng công ty xăng dầu
California (ngày nay là công ty Mobie) cấp thẻ cho nhân viên và một số
khách hàng của mình. Thẻ chỉ nhằm khuyến khích bán sản phẩm của công ty
chứ không kèm theo việc gia hạn tín dụng. Sau đó, các hệ thống cửa hàng bán
lẻ tiếp tục phát triển hình thức tài trợ khách hàng thông qua việc phát hành
thẻ, theo hình thức tiêu trước trả tiền sau, cho các khách hàng phù hợp với
những tiêu chuẩn thẩm định của họ để khuyến khích tiêu dùng, tăng doanh
thu. Thực tế thì hình thức này đã đem lại những hiệu quả nhất định.
Tuy nhiên, việc phát hành thẻ (hay các phiếu bán hàng) có nhiều hạn
chế với các cửa hàng: khả năng tài trợ có hạn, chi phí quản lý cao ảnh hưởng
đến lợi nhuận, thẻ của mỗi hệ thống chỉ sử dụng được trong hệ thống đó nên
tính tiện lợi của thẻ không cao, nhiều đại lý nhỏ không đủ điều kiện và khả
năng cung cấp tín dụng cho các khách hàng của họ. Nhu cầu có một loại thẻ
15
chung để có thể sử dụng thanh toán tại các điểm bán hàng trở nên cấp thiết và
chính nó đã tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính vào cuộc.
Năm 1946, dạng thẻ đầu tiên của thẻ ngân hàng là Charge-It của ngân
hàng John Biggins xuất hiện tại Mỹ, cho phép các khách hàng thực hiện các
giao dịch nội địa bằng các phiếu có giá trị do ngân hàng phát hành. Các đại lý
nộp các phiếu giao dịch cho ngân hàng Biggins, ngân hàng sẽ thanh toán các

InterBank (Master Charge) và Bank of American (Bank Americard) đã xây
dựng một hệ thống các quy tắc, tiêu chuẩn trong xử lý thanh toán thẻ toàn
cầu. Năm 1977, Bank Americard trở thành Visa USA và sau đó trở thành tổ
chức thẻ quốc tế Visa. Năm 1979, Master Charge cũng trở thành một tổ chức
thẻ quốc tế lớn khác là Master Card. Bốn tổ chức thẻ quốc tế lớn nhất hiện
nay là Visa, Master Card, Amex, JCB.
-> Do thẻ ngày càng được sử dụng rộng rãi, các công ty và các ngân hàng liên
kết với nhau để khai thác lĩnh vực thu lợi nhuận này. Thẻ dần dần được xem
như một công cụ văn minh, thuận lợi trong các cuộc giao dịch mua bán. Các
loại thẻ Master Card, Visa, Amex, JCB được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu và
cùng phân chia những thị trường rộng lớn.
Chính sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại và những ứng
dụng của cuộc cách mạng thông tin trong lĩnh vực ngân hàng đã góp phần
thúc đẩy sự ra đời của thẻ với nhiều tên gọi khác nhau mà hiện nay đang được
sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Với lợi thế về vốn, chuyên
môn trong nghiệp vụ thẩm định, cơ sở hạ tầng sẵn có phục vụ cho hoạt động
phát hành và thanh toán, thẻ do ngân hàng phát hành thực sự được đông đảo
công chúng quan tâm và ưa thích. Trong khoảng thời gian 25 năm trở lại đây,
17
ngành công nghiệp thẻ thanh toán, đặc biệt là thẻ ngân hàng mới thực sự được
phát triển.
1.2.2. Khái niệm và đặc điểm của thẻ thanh toán.
1.2.2.1. Khái niệm
Thẻ là một tấm nhựa chứa băng từ hoặc chip điện tử để lưu giữ các
thông tin, số liệu cần thiết đã được mã hoá. Nói một cách ngắn gọn, thẻ là một
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hàng hoặc tổ chức tài
chính phát hành cấp cho khách hàng và được sử dụng để rút tiền mặt tại các
ngân hàng đại lí, các máy rút tiền tự động hoặc thanh toán tiền hàng hoá, dịch
vụ tại những cơ sở chấp nhận thẻ trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi hoặc
hạn mức tín dụng được ký kết giữa ngân hàng phát hành thẻ và chủ thẻ.

ngân hàng phát hành, các yếu tố kiểm tra an toàn khác.
- Dải băng chữ kí của chủ thẻ: cơ sở chấp nhận thẻ đối chiếu chữ ký này
với chữ ký khi thực hiện thanh toán thẻ.
1.2.3. Phân loại thẻ.
1.2.3.1. Theo công nghệ sản xuất:
a. Thẻ khắc chữ nổi: Các thông tin cần thiết được khắc nổi lên bề mặt
của thẻ. Tấm thẻ đầu tiên đã được sản xuất theo công nghệ này. Hiện nay
người ta không sử dụng thẻ loại này nữa vì kỹ thuật sản xuất quá thô sơ, dễ bị
làm giả.
19
b. Thẻ băng từ: Được sản xuất dựa trên kĩ thuật từ tính với một băng
từ chứa hai rãnh thông tin ở mặt sau của thẻ. Thẻ này được sử dụng phổ biến
trong vòng 20 năm nay. Tuy nhiên, do thẻ mang tính thông tin cố định, khu
vực chứa thông tin hẹp không áp dụng được các kĩ thuật mã bảo đảm an toàn,
thông tin trong thẻ không tự mã hoá được, người ta có thể đọc thẻ dễ dàng
bằng thiết bị đọc gắn với máy vi tính nên có thể bị lợi dụng để lấy cắp tiền.
c. Thẻ điện tử có bộ vi xử lí chip (thẻ thông minh): Đây là thế hệ mới
nhất của thẻ, dựa trên kĩ thuật vi xử lí tin học. Thẻ được gắn một chip điện tử
có cấu trúc giống như một máy tính hoàn hảo. Thẻ thông minh có nhiều nhóm
với dung lượng nhớ của chip điện tử khác nhau, có tính an toàn và bảo mật rất
cao. Nhưng do giá thành cao, hệ thống máy móc chấp nhận thẻ đắt nên việc
sử dụng thẻ này còn chưa phổ biến như thẻ từ. Việc phát hành và chấp nhận
thẻ thông minh mới chỉ phổ biến ở các nước phát triển dù các tổ chức thẻ vẫn
đang khuyến khích các ngân hàng thành viên đầu tư để phát hành và chấp
nhận loại thẻ này nhằm giảm tỷ lệ rủi ro do giả mạo thẻ.
1.2.3.2. Theo chủ thể phát hành:
a. Thẻ do ngân hàng phát hành: Là thẻ thanh toán do các NHTM
phát hành để giúp khách hàng sử dụng linh động tài khoản của mình tại ngân
hàng, hoặc sử dụng một số tiền do ngân hàng cấp tín dụng. Loại thẻ này được
sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Nó không chỉ lưu hành trong một quốc gia

kiểm tra số dư, chuyển khoản, chi trả các khoản vay, Với chức năng chuyên
biệt chỉ dùng để rút tiền, số tiền rút ra mỗi lần sẽ được trừ dần vào số tiền kí
quĩ. Thẻ rút tiền mặt có hai loại. Một loại chỉ được dùng để rút tiền mặt tại
những máy rút tiền tự động của ngân hàng phát hành, còn loại kia ngoài địa
điểm trên còn được sử dụng để rút tiền ở các ngân hàng cùng tham gia tổ hợp
thanh toán với ngân hàng phát hành thẻ.
21
1.2.3.4. Theo hạn mức tín dụng
a. Thẻ vàng: Là loại thẻ được phát hành cho những đối tượng có thu
nhập cao, có uy tín, khả năng tài chính lành mạnh, nhu cầu chi tiêu lớn. Loại
thẻ này nhìn chung có hạn mức tín dụng cao hơn thẻ thường.
b. Thẻ thường (thẻ chuẩn): Là loại thẻ căn bản nhất, mang tính chất
phổ biến, đại chúng, được hơn 142 triệu người trên thế giới sử dụng mỗi ngày.
Thẻ có hạn mức tín dụng thấp hơn thẻ vàng.
1.2.3.5. Theo phạm vi sử dụng của thẻ
a. Thẻ nội địa: Chỉ được sử dụng trong phạm vi quốc gia mà nó được
phát hành, do đó đồng tiền được sử dụng và thanh toán là đồng bản tệ. Loại
thẻ này chỉ do một tổ chức hoặc một ngân hàng điều hành và có hai loại. Một
loại do tổ chức tài chính hoặc ngân hàng trong nước phát hành và chỉ được sử
dụng trong nội bộ hệ thống tổ chức đó. Loại thứ hai là thẻ mang thương hiệu
của tổ chức thẻ quốc tế nhưng được phát hành để sử dụng trong nước.
b. Thẻ quốc tế: Là loại thẻ được sử dụng trên phạm vi quốc tế, dùng
ngoại tệ mạnh làm đồng tiền thanh toán. Thẻ quốc tế được hỗ trợ và quản lý
trên toàn thế giới bởi những tổ chức tài chính lớn như Visa, Master hoặc công
ty điều hành hoạt động thống nhất và đồng bộ. Thẻ quốc tế được ưa chuộng
bởi tính an toàn, tiện lợi của nó.
1.2.4. Các chủ thể tham gia vào nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ.
* Tổ chức thẻ quốc tế là tổ chức đứng ra liên kết với các thành viên,
đặt ra các qui định bắt buộc đối với các thành viên phải áp dụng và tuân theo
thống nhất thành một hệ thống toàn cầu. Bất cứ ngân hàng nào hiện nay hoạt

hàng trực tiếp kí hợp đồng với các cơ sở chấp nhận thẻ để tiếp nhận và xử lí
23
các giao dịch về thẻ tại cơ sở chấp nhận thẻ, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho
cơ sở chấp nhận thẻ.
* Chủ thẻ: là người có tên trên thẻ và được quyền sử dụng thẻ. Chủ thẻ
có thể là một cá nhân riêng lẻ, hoặc đại diện cho một công ty hay tổ chức nào
đó có nhu cầu sử dụng thẻ thanh toán. Chỉ chủ thẻ mới có thể sử dụng thẻ của
mình. Một chủ thẻ có thể yêu cầu cấp thêm thẻ phụ cho người thân, có thể sở
hữu một hoặc nhiều thẻ. Chủ thẻ phải trả phí cho ngân hàng phát hành thẻ.
* Người chịu trách nhiệm thanh toán thẻ: Là chủ thẻ chính (đối với
thẻ cá nhân) hoặc/ và tổ chức, công ty xin cấp thẻ (đối với thẻ công ty).
* Cơ sở chấp nhận thẻ (CSCNT): Là đơn vị bán hàng hoá- dịch vụ
hoặc ứng tiền mặt, có kí hợp đồng với NHTTT để chấp nhận thanh toán thẻ
như: cửa hàng, khách sạn, nhà hàng, Các đơn vị này được NHTTT trang bị
máy móc kĩ thuật để tiếp nhận thẻ thanh toán thay tiền mặt và sử dụng máy
đọc do ngân hàng đại lí trang bị để kiểm tra thẻ và biên lai thanh toán. Thông
thường CSCNT phải trả một khoản phí về việc sử dụng tiện ích này.
* Hệ thống máy ATM: Các ngân hàng, các chi nhánh, các điểm bán
hàng được đặt những máy rút tiền tự động, những máy này đã được nối mạng
với trung tâm thanh toán. Khách hàng có thể dùng thẻ rút tiền do ngân hàng
phát hành để rút tiền mặt ở các máy trên, mà không phải trực tiếp đến ngân
hàng hoặc chi nhánh. Khi có nhu cầu khách hàng đưa thẻ vào máy và bấm số
trên bàn phím, thông qua thông tin lưu trữ trên dải từ tính hoặc con chíp điện
tử, máy tính có thể “tra cứu” tài khoản của khách hàng và đưa ra số tiền mặt
mà khách hàng cần rút với giới hạn cho phép. Máy còn thông báo người cầm
thẻ biết số dư trong tài khoản của khách hàng hoặc thực hiện một lệnh thanh
toán chuyển khoản với điều kiện phải biết chi tiết về ngân hàng của người
được thanh toán.Máy ATM đã trải qua nhiều thế hệ, từ chỗ chỉ là máy rút tiền
tự động ngày nay các máy ATM thế hệ mới thực sự hoạt động như một ngân
24

phép người sử dụng hoãn việc chi trả các hàng hoá và dịch vụ trong một thời
gian ngắn, các báo cáo chi trả được thực hiện một cách thuận lợi có ý nghĩa
quan trọng trong đánh giá tín dụng. Những người sử dụng thẻ có hạn mức tín
dụng tuần hoàn ngoài ra cón có thêm một thuận lợi nữa là gia tăng khả năng
mua hàng hoá và dịch vụ, và bằng cách ấy tránh được nạn quan liêu khi xin
cấp các khoản cho vay cá nhân. Hơn nữa, người có thẻ tín dụng có sự mềm
dẻo đáng kể trong việc định thời gian và việc hoàn trả khối lượng nợ. Với thẻ
ghi nợ, khách hàng thậm chí còn được hưởng một mức thấu chi nhất định trên
tài khoản tiền gửi của mình tại ngân hàng. Đặc biệt đối với thẻ công ty, ngoài
những tiện ích trên, nó còn giúp công ty quản lý và kiểm soát hiệu quả các chi
tiêu của nhân viên mình.
Ngoài ra, khi sử dụng thẻ, chủ thẻ còn được hưởng một số dịch vụ khác
do ngân hàng phát hành thẻ triển khai áp dụng cho chủ thẻ như xem số dư tài
khoản để từ đó có kế hoạch chi tiêu hợp lý hơn, dịch vụ khách hàng 24/24
giờ, dịch vụ trợ giúp toàn cầu, dịch vụ bảo hiểm lữ hành…
Đảm bảo an toàn: Chủ thẻ là người duy nhất có quyền sử dụng thẻ. Để
chống làm giả và ngăn chặn người khác sử dụng thẻ, thẻ được chế tạo dựa
trên kỹ thuật hết sức tinh vi, hiện đại, khó làm giả, vì vậy tính an toàn của thẻ
rất cao. Đặc biệt từ khi thẻ thông minh được tung ra thị trường, độ an toàn của
thẻ được nâng lên rất nhiều. Việc so sánh chữ ký mẫu trên thẻ với chữ ký của
người sử dụng thẻ, hình ảnh chủ thẻ trên thẻ kết hợp với các thông tin được
mã hoá trên thẻ tạo nên một bức tường vững chắc trước nguy cơ bị người
khác lạm dụng. Nhờ vậy, chủ thẻ có thể an tâm khi sử dụng thẻ. Khi mất thẻ
hay để lộ số PIN, chủ thẻ có thể báo ngay cho ngân hàng phát hành thẻ để kịp
thời phong toả tài khoản thẻ. Trong điều kiện kỹ thuật công nghệ hiện đại
ngày càng phát triển, các thiết bị kiểm tra thẻ hoạt động ngày càng hiệu quả,
tính an toàn của thẻ sẽ còn được nâng cao trong tương lai.

Trích đoạn Nguyên nhân của các tồn tại. Định hướng chung về phát triển hoạt động kinh doanh của Techcombank Định hướng về phát triển hoạt động kinh doanh thẻ của Techcombank Tiềm năng của thị trường thẻ Việt Nam. Chính sách khuyếch trương sản phẩm và quan hệ khách hàng
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status