Báo cáo: Lễ hội ở huyện Thọ Xuân -Thanh Hóa với việc phát triển du lịch địa phương” pot - Pdf 20

1
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Báo cáo
Lễ hội ở huyện Thọ Xuân -Thanh Hóa với
việc phát triển du lịch địa phương”
2
MỤC LỤC
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP 1
Báo cáo 1
Lễ hội ở huyện Thọ Xuân -Thanh Hóa với việc phát triển du lịch địa phương” 1
MỤC LỤC 2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam luôn tự hào về hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, với bao biến đổi thăng trầm đã đúc kết lại thành
một nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc. Trong đó, không thể không nhắc đến lễ
hội - một nét sinh hoạt văn hóa dân gian. Đây cũng là thành tố quan trọng góp phần
tạo nên bức tranh văn hóa đa dạng trong thống nhất của dân tộc Việt Nam.
Lễ hội không chỉ là loại hình văn hóa dân gian mà còn là nguồn tài nguyên du
lịch nhân văn có vai trò quan trọng, là vật hút của ngành du lịch. Hiện nay, nhiều địa
phương trong cả nước đã và đang vận dụng nguồn tài nguyên nhân văn này đưa vào
hoạt động du lịch, góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển và
nâng các lễ hội lên tầm cao mới. Theo thống kê năm 2004 của Cục Văn hóa Thông tin
cơ sở và Bộ Văn hóa Thông tin, cả nước có 8902 lễ hội lớn nhỏ và được phân bố rộng
khắp. Ở địa phương nào cũng có lễ hội đặc trưng tiêu biểu của mình.
Nằm ở phía tây tỉnh Thanh Hoá, Thọ Xuân là vùng đất “địa linh nhân kiệt” có
vị thế chiến lược trọng yếu trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước tỉnh
Thanh nói riêng, cả nước nói chung. Nơi đây không chỉ sản sinh ra những con người
kiệt suất cho dân tộc như: Lê Hoàn, Lê Lợi, Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn,… mà còn là
3
nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hóa độc đáo, điển hình là các lễ hội truyền thống của địa

Viết về lễ hội Lam Kinh có: Đỗ Như Chung với Lễ hội Lam Kinh từ lễ hội cung
đình đến lễ hội dân gian”; Thiên Lam với “Lễ hội Lam Kinh mang đậm nét văn hoá
thời Lê” (tin247.com);…
Lễ hội Xuân Phả cũng có những bài viết như: “Trò Xuân Phả những điệu múa
mặt nạ dị kỳ” (viettems.com) của Huy Thông (2009); “Lễ hội Làng Xuân Phả” (2008),
(thanhhoafc.net/forum/showthread.php?t=4700); “Phục dựng lễ hội Xuân Phả/Video”
(viettems.com) của Bùi Quang Thắng (2010);…
Tuy nhiên, những bài viết này chỉ tiến hành mô tả khái quát lại các lễ hội, mà
không đi sâu vào phân tích những ý nghĩa, vai trò của từng lễ hội, không đánh giá tiềm
năng du lịch của từng lễ hội ở mỗi địa phương. Mặc dù vậy, đây cũng là những nguồn
tài liệu tham khảo quan trọng để chúng tôi tiến hành nghiên cứu và hoàn thành đề tài
khóa luận tốt nghiệp này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khi nhắc đến lễ hội ở huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa người ta chỉ biết đến một
số lễ hội mang tầm quốc gia như Lễ hội Lam Kinh mà không biết đến những lễ hội
khác như: Lễ hội Lê Hoàn, lễ hội làng Xuân Phả,… là những lễ hội cũng có nhiều giá
trị đang được bảo tồn và có thể phát triển du lịch. Do đó, khóa luận hoàn thành là
nguồn tài liệu góp phần giới thiệu rộng rãi với mọi người những giá trị văn hóa mà các
lễ hội tại huyện Thọ Xuân hiện đang lưu truyền.
Là người con của địa phương, việc tìm hiểu về đặc điểm và thực trạng hoạt
động của các lễ hội tại huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa, giúp bản thân tác giả hiểu rõ
hơn về các lễ hội truyền thống văn hóa trên mảnh đất quê hương mình.
Đồng thời, với việc nghiên cứu sẽ đưa ra các giải pháp nhằm: Tác động vào ý
thức của người dân địa phương trong việc bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa; đưa
lễ hội của địa phương trở thành tài nguyên phục vụ cho hoạt động du lịch, góp phần
nâng cao thu nhập và hiệu quả kinh tế của huyện.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
5
Tổng quan những vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động du lịch

pháp nghiên cứu khác nhau, đó là:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng nhằm phân
tích, tổng hợp các tư liệu, thông tin liên quan đến đề tài giúp chủ thể khái quát hóa, mô
hình hóa các vấn đề nghiên cứu đạt được mục tiêu đề ra.
- Phương pháp thống kê: Các số liệu, tư liệu được sưu tầm ở nhiều nguồn khác
nhau và thời gian dài ngắn cũng không giống nhau vì thế các tài liệu đó cần được
thống kê lại và xử lý có hệ thống, phục vụ cho quá trình nghiên cứu đạt được kết quả
cao.
- Phương pháp khảo sát thực địa: Sử dụng phương pháp này để lấy được các số
liệu, thông tin phục vụ cho việc trình bày luận cứ, đồng thời kiểm nghiệm độ chính
xác, để kết quả nghiên cứu có tính thuyết phục. Phương pháp này đóng vai trò quan
trọng, ảnh hưởng đến độ chính xác của đề tài.
- Phương pháp phỏng vấn: Đưa ra những câu hỏi đối thoại liên quan đến lễ hội
của địa phương đối với những vị khách tham gia lễ hội, những người quản lý, cán bộ
văn hóa, những người cao tuổi, người làm du lịch để thu thập thêm thông tin.
- Phương pháp chuyên gia: Việc tranh thủ ý kiến của lãnh đạo, chính quyền,
cán bộ nghiên cứu trong lĩnh vực văn hóa lễ hội là những kinh nghiệm quý báu để vận
dụng vào nghiên cứu. Công việc này rút ngắn quá trình điều tra phức tạp, đồng thời bổ
sung cho phương pháp điều tra cộng đồng.
6. Đóng góp của đề tài
6.1. Về mặt khoa học
Nghiên cứu lễ hội tại huyện Thọ Xuân - Thanh Hóa góp phần xây dựng bức
tranh tổng thể về lễ hội văn hóa tiêu biểu trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội
(nhất là về du lịch) của địa phương.
6.2. Về mặt thực tiễn
Đề tài hoàn thành sẽ góp phần giới thiệu, quảng bá hình ảnh lễ hội của Thọ
Xuân. Đồng thời để các cơ quan chính quyền địa phương quan tâm chú trọng phát
triển du lịch ở các lễ hội hơn nữa. Bên cạnh đó, đề tài đưa ra những đề xuất định
hướng trong việc bảo tồn giữ gìn và khai thác giá trị văn hóa để phát triển du lịch.
7

Theo Luật Du lịch Việt Nam (2006): Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết
hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi
đến. Khách du lịch được phân loại theo hai tiêu chí: Phạm vi lãnh thổ và loại hình du
lịch. Phân loại theo phạm vi lãnh thổ có du khách: Quốc tế và nội địa. Phân theo loại
hình du lịch thì có du khách du lịch sinh thái và du khách du lịch văn hóa.
1.1.1.3. Một số khái niệm khác
* Sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch là sự kết hợp hàng hóa và dịch vụ trên cơ sở khai thác hợp lý
tài nguyên du lịch nhằm đáp ứng mọi nhu cầu cho du khách trong hoạt động du lịch.
Sản phẩm du lịch = tài nguyên du lịch + hàng hóa và dịch vụ du lịch.
Dựa trên các thành phần cơ bản của sản phẩm du lịch và tùy thuộc vào đặc
trưng đặc thù của mỗi nước, các nhà du lịch đưa ra một số mô hình: 4S, 3H và 6S.
9
* Điểm du lịch
Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, có khả năng thu hút du khách
đến tham quan du lịch.
* Khu du lịch
Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch với ưu thế nổi bật về cảnh quan thiên
nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của du
khách, đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường.
* Tuyến du lịch
Tuyến du lịch là lộ trình nối các điểm du lịch, khu du lịch khác nhau về chức
năng nhằm đáp ứng cho nhu cầu đi tham quan du lịch của du khách.
* Đơn vị cung ứng du lịch
Là một cơ sở kinh doanh cung cấp cho du khách một phần hoặc toàn bộ sản
phẩm du lịch. Đơn vị cung ứng du lịch bao gồm: Điểm vui chơi giải trí cung ứng các
loại hình và dịch vụ vui chơi giải trí; khách sạn cung ứng dịch vụ lưu trú, ăn uống; nhà
hàng chuyên dịch vụ ăn uống cho du khách;…
* Tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng,

lịch sinh thái; du lịch công vụ; du lịch tôn giáo; du lịch thăm hỏi, du lịch quê hương;
du lịch quá cảnh. Các loại hình du lịch kể trên thường không thể hiện nguyên một
dạng nào đầy đủ và rõ rệt, ta thường gặp sự kết hợp của một vài thể loại một lúc như
du lịch nghỉ ngơi và du lịch văn hoá, du lịch công vụ với du lịch văn hoá,…
* Căn cứ vào hình thức tổ chức chuyến đi
Căn cứ vào hình thức chuyến đi người ta chia thành: Du lịch theo đoàn và du
lịch cá nhân.
Ngoài ra, còn căn cứ vào các tiêu chí khác như: Phương tiện giao thông được sử
dụng, phương tiện lưu trú, thời gian đi du lịch của khách, vị trí địa lí của nơi đến đi du
lịch,… mà tương ứng nhiều loại hình khác nhau.
11
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến du lịch
1.1.3.1. Tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là yếu tố cơ bản trong việc kinh doanh du lịch. Tuy nhiên,
tài nguyên du lịch, đặc biệt là tài nguyên du lịch tự nhiên phân bố không đồng đều trên
lãnh thổ. Có những tài nguyên giàu giá trị thu hút nhưng được phân bố ở những điểm
du lịch để phát triển kinh doanh du lịch được. Như vậy, không phải nơi nào giàu tài
nguyên du lịch cũng có thể phát triển thành điểm du lịch để phát triển kinh doanh du
lịch được, nhưng nhìn chung, việc phát triển kinh doanh du lịch chỉ có thể được thực
hiện tại những nơi có tài nguyên du lịch.
Tài nguyên du lịch được chia thành tài nguyên du lịch tự nhiên (TNDLTN) và
tài nguyên du lịch nhân văn (TNDLNV).
TNDLTN là tổng thể tự nhiên các thành phần của nó có thể góp phần khôi phục
và phát triển thể lực, trí tuệ con người, khả năng lao động và sức khoẻ của họ và được
lôi cuốn vào phục vụ cho nhu cầu cũng như sản xuất dịch vụ du lịch. Các thành phần
của tự nhiên với tư cách là tài nguyên du lịch có tác động mạnh nhất đến hoạt động du
lịch là: Địa hình, khí hậu, nguồn nước và thực - động vật.
TNDLNV nói một cách ngắn gọn, là các đối tượng, hiện tượng do con người
tạo ra trong suốt quá trình tồn tại và có giá trị phục vụ cho nhu cầu du lịch. TNDLNV
có các đặc điểm sau: Có tác dụng nhận thức nhiều hơn, tác dụng giải trí không điển

Giao thông du lịch có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của ngành du
lịch. Sự phát triển của giao thông vận tải thể hiện trên hai mặt: Phát triển về số lượng
hình thành nhiều loại giao thông và sự tăng lên một cách nhanh chóng số lượng
phương tiện vận chuyển, tạo khả năng vận chuyển số lượng lớn du khách trên thế giới
đi du lịch. Phát triển về chất lượng của phương tiện giao thông vận tải tốc độ vận
chuyển, đảm bảo an toàn trong vận chuyển, đảm bảo tiện nghi trong vận chuyển, vận
chuyển với giá rẻ.
* Chính sách phát triển du lịch
Chiến lược và chính sách phát triển du lịch của một quốc gia, vùng có ý nghĩa
cực kì quan trọng, nó tạo động lực thúc đẩy sự phát triển du lịch. Chiến lược phát triển
du lịch xác định phương hướng phát triển du lịch dài ngày, đề cập đến những vấn đề
tổng thể của phát triển du lịch như chiến lược sản phẩm du lịch, chiến lược nâng cao
chất lượng các dịch vụ du lịch, chiến lược giữ gìn tôn tạo và phát triển tài nguyên du
lịch, môi trường, chiến lược đầu tư du lịch, chiến lược giáo dục và đào tạo du lịch,
chiến lược thị trường du lịch.
13
* Thời gian rỗi
Các chuyến đi du lịch đều được thực hiện trong thời gian nhàn rỗi của con
người (ngày nghỉ cuối tuần, kì nghỉ phép, thời gian nghỉ lễ, thời gian rỗi trước và sau
khi thực hiện công vụ). Mặc dù, có khả năng chi tiêu, có nhu cầu, con người cũng
không đi du lịch được nếu không có thời gian rỗi.
* Sự sẵn sàng đón tiếp du khách
Các cơ sở vật chất - kĩ thuật và cơ sở hạ tầng là toàn bộ phương tiện vật chất
tham gia vào việc tạo ra và thực hiện dịch vụ hàng hóa du lịch nhằm đáp ứng mọi nhu
cầu của du khách. Thành phần của cơ sở vật chất kĩ thuật bao gồm các cơ sở công
trình kĩ thuật thuộc ngành du lịch; các cơ sở, công trình thuộc ngành khác có tham gia
vào hoạt động du lịch như giao thông, thương nghiệp, dịch vụ công cộng; tài nguyên
du lịch là thành phần đặc biệt của cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch, chúng cũng là
phương tiện vật chất để thỏa mãn nhu cầu của du khách.
Ngoài cơ sở vật chất - kỹ thuật, điều kiện kinh tế, tổ chức thì lực lượng lao động

của các chủ thể sẽ tăng, từ đó họ quay trở lại đầu tư phát triển du lịch. Đối với chính
quyền sở tại, với Nhà nước thì đó là đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng. Đối với các doanh nghiệp thì đó là đầu tư mở rộng, đầu tư làm mới
các doanh nghiệp. Đối với cư dân địa phương thì đó là đầu tư phát triển các làng nghề
thủ công truyền thống, các phong tục tập quán,…
Du lịch phát triển góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Khi du lịch
phát triển nhu cầu hàng hoá, dịch vụ tăng, từ đó đòi hỏi phải có một lực lượng lao
động lớn, nhất là khi mà ngành du lịch là ngành kinh tế dịch vụ chỉ đáp ứng chủ yếu là
du lịch và thức ăn, do đó nó đòi hỏi nhiều lao động và trong nhiều trường hợp không
thể cơ giới hoá được như các ngành sản xuất vật chất khác. Do vậy, việc phát triển du
lịch là tạo thêm nhiều chỗ làm và tạo điều kiện tăng thu nhập cho nhân dân địa
phương.
Du lịch quốc tế còn là phương tiện tuyên truyền và quảng cáo không mất tiền
cho đất nước du lịch chủ nhà. Khi khách đến du lịch, khách có điều kiện làm quen với
một số mặt hàng ở đó và mua các hàng hoá ấy về nước mình. Theo cách này, du lịch
quốc tế góp phần tuyên truyền cho nền sản xuất của nước du lịch chủ nhà.
Du lịch tác động gián tiếp tạo hiệu quả số nhân trong du lịch. Du lịch phát triển,
tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ tăng qua đó tạo thu nhập cho các chủ thể trong nền kinh
tế; du lịch phát triển, nhu cầu tái sản xuất, đầu tư tăng qua đó tăng hiệu quả số nhân về
vốn; du lịch phát triển còn làm tăng nhu cầu lao động qua đó góp phần tăng hiệu quả
số nhân về lao động.
* Tác động tiêu cực
15
Bên cạnh các mặt tích cực đó sự phát triển của du lịch cũng có những mặt trái
gây ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển kinh tế xã hội của nơi làm du lịch. Du lịch
phát triển, sẽ góp phần làm tăng số lượng tiền lưu thông, qua đó làm cho đồng tiền mất
giá, từ đó dẫn đến lạm phát. Du lịch phát triển sẽ gây ảnh hưởng đến khả năng tiêu
dùng của cư dân địa phương nơi làm du lịch. Khi du lịch phát triển, các sản phẩm dịch
vụ có giá trị sử dụng cao, do đó cư dân địa phương phải sống với mức sống cao hơn so
với mức sống xã hội cho phép (chi phí trên một đơn vị sản phẩm lớn hơn mức cơ bản)

tự nhiên hoặc chuyên nghiệp, hoặc mang ra làm trò cười cho du khách.
Du lịch phát triển, các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, mại dâm,… lan tràn
nhanh chóng, gây ảnh hưởng tới trật tự, an ninh nơi làm du lịch. Du lịch là con đường
mà các thế lực phản động thường hay sử dụng để tuyên truyền, kích động. Đội lốt du
khách chúng thâm nhập sâu vào nước đến để móc nối xây dựng cơ sở.
1.1.4.3. Tác động đến môi trường
* Tác động tích cực
Hoạt động du lịch tạo ra hiệu quả tốt đối với việc sử dụng hợp lý và bảo vệ tối
ưu các nguồn tài nguyên và môi trường. Biểu hiện rõ rệt nhất của hoạt động du lịch là
vấn đề bảo tồn môi trường. Du lịch góp phần tích cực vào việc bảo vệ tồn các vườn
quốc gia, các khu bảo tồn tự nhiên, các khu rừng văn hóa - lịch sử - môi trường, tu bổ,
bảo vệ hệ thống đền đài lịch sử kiến trúc mỹ thuật.
Du lịch góp phần tích cực tu sửa phát triển cảnh quan đô thị, cảnh quan tại các
điểm du lịch như tu sửa nhà cửa cũ thành những cơ sở du lịch mới, cải thiện môi
trường cho cả du khách và cư dân địa phương bằng cách gia tăng phương tiện vệ sinh,
cung cấp nước, đường sá, thông tin, năng lượng, nhà cửa đưa đến sự kiểm soát ở các
điểm du lịch nhằm bảo vệ môi trường.
* Tác động tiêu cực
Cường độ hoạt động du lịch ở một vùng, một địa phương càng mạnh thì tác
động môi trường càng lớn và dẫn đến sự xung đột giữa du lịch và môi trường. Tác
động tiêu cực thể hiện trên các mặt sau: Gia tăng mức độ tắc nghẽn giao thông, gia
tăng ô nhiễm không khí, nước, tiếng ồn, thay đổi cảnh quan thiên nhiên và sự thay đổi
sự quân bình môi sinh đối với môi trường sống của sinh vật, gia tăng chi phí ngăn
ngừa, tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm ở địa phương, chi phí tạo ra các khu vực bảo
tồn trên lãnh thổ của khu nghỉ dưỡng, chi phí thực hiện các dự án cải thiện, chi phí
thực hiện việc bảo tồn, lịch sử và văn hóa.
17
Tóm lại, với những gì du lịch làm được cho kinh tế văn hóa xã hội sẽ là nền
tảng để du lịch ngày càng phát triển hơn. Tuy nhiên, nó cũng có ảnh hưởng không nhỏ
tới môi trường, vì vậy, việc khai thác và bảo vệ môi trường phải luôn luôn gắn liền với

Như vậy, khái niệm “hội” được tập trung lại như sau: “Hội” là sinh hoạt văn
hoá tôn giáo nghệ thuật của cộng đồng xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, sự tồn tại và
phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân hạnh phúc cho từng dòng họ,
từng gia đình. Sự sinh sôi nảy nở của gia súc, sự bội thu của những mùa màng mà bao
đời nay đã quy tụ vào niềm mơ ước chung với 4 chữ “Nhân - Khang - Vật - Thịnh”.
1.2.1.3. Mối quan hệ giữa “lễ” và “hội”
Qua các lễ hội truyền thống Việt Nam ta có thể rút ra được mối quan hệ khăng
khít giữa lễ và hội. Trong thưc tế, giữa lễ và hội có mối quan hệ khó tách rời, chúng
luôn hoà quyện với nhau. Nếu chỉ có hội mà không có lễ thì mất vẻ cung kính trang
nghiêm và ngược lại nếu chỉ có lễ mà không có hội thì không còn vui nữa. Vì vậy, mối
quan hệ giữa lễ và hội là không thể tách rời, chúng hoà quyện đan xen vào nhau.
Trên cơ sở ấy chúng ta nhận thấy rằng người nông dân Viêt Nam đã sáng tạo lễ
hội như cuộc sống thứ hai của mình, đó là cuộc sống hội hè đình đám sống động đậm
màu sắc dân gian. Phần cuộc sống đó thuộc về những ước mơ, những khát vọng hướng
tới cái Chân - Thiện - Mỹ. Ở đó cái đẹp của cuộc sống thực được bộc lộ hết mình
trong sự hoà hợp giữa con người với tự nhiên, sự ngưỡng mộ, tri âm với các lực lượng
thần thánh siêu nhiên đã có công xây dựng và bảo vệ làng bản. Vì thế lễ hội mang tính
nhân văn sâu sắc đem lại niềm hy vọng cho con người, mà con người thì không bao
giờ lại không cần thiết tin và hy vọng.
Như vậy, chúng ta thấy lễ và hội có mối quan hệ chặt chẽ khăng khít với nhau.
Chúng luôn song hành và cùng tồn tại với nhau. Ở đâu có lễ thì ở đó có hội và ngược
lại.
1.2.2. Phân loại lễ hội
Có nhiều cách để phân loại lễ hội, ở mỗi tiêu chí khác nhau thì phân loại lễ hội
khác nhau. Dưới góc độ xã hội người ta chia lễ hội thành lễ hội mang tính chất quốc
gia, dân tộc hay quốc tế. Năm 1989, Đinh Gia Khánh căn cứ vào tính chất tôn giáo
chia lễ hội thành hai loại đó là lễ hội tôn giáo hay không tôn giáo. Lễ hội cũng có thể
chia thành 3 loại đó là: Lễ hội liên quan đến cuộc sống trong quan hệ với môi trường
tự nhiên (lễ hội cầu mưa, hội xuống đồng, hội cơm mới, hội đua ghe, ); lễ hội liên
quan đến cuộc sống trong quan hệ với môi trường xã hội (kỷ niệm các anh hùng dựng

và lễ hội hiện đại.
Lễ hội truyền thống là loại lễ hội sinh hoạt văn hoá sản phẩm tinh thần của con
người, là dịp con người được trở về với cội nguồn tự nhiên hay cội nguồn dân tộc đều
mang ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Đến với lễ hội
truyền thống, con người sẽ thấy mực thước hơn, sống thoải mái hơn, cảm thấy mọi khó
20
khăn ngày thường tan biến hết. Đây là không gian linh thiêng mọi người có thể cầu
mong những điều may mắn, mong cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Lễ hội hiện đại là loại lễ hội mang tính kinh tế thương mại cao, thông thường
nội dung gắn với các nhân vật lịch sử, liên quan dến cách mạng và kháng chiến, là các
cuộc cho liên hoan du lịch triển lãm. Lễ hội hiện đại ra đời vào thời gian cách mạnh
tháng Tám năm 1945. Chủ yếu gắn liền với nhân vật và sự kiện lịch sử liên quan đến
cách mạng: Ngày 2 tháng 9 (quốc khánh), ngày 30 tháng 4 (giải phóng miền nam). Lễ
hội văn hoá thể thao, liên hoan du lịch, hội chợ là những hình thức của lễ hội hiện đại.
Đây là những hoạt động mang tính kinh tế gắn với việc phát triển kinh tế của vùng
miền hay ngành nghề mục đích chủ yếu là khuyếch trương quảng bá sản phẩm, hình
ảnh, thương hiệu và tôn vinh những giá trị của làng nghề, những lễ hội này phản ánh
nhu cầu và xu thế phát triển của thời đại mới. Qua đó lễ hội tạo ra những cơ hội mới,
kí kết hợp đồng kinh tế và nhận biết được xu thế phát triển của xã hội từ đó định
hướng phát triển lễ hội cho phù hợp.
1.2.3. Chức năng, vai trò và tác động của lễ hội
1.2.3.1. Chức năng của lễ hội
Trong các nền văn hóa ở các không gian và thời gian khác nhau, luôn có một
biểu thị chung, mang tính nhân loại: Lễ hội truyền thống. Sinh thành trong các lễ hội
cổ truyền, các lễ hội truyền thống trải qua nhiều biến thiên lịch sử và vẫn tồn tại bền
vững trong các xã hội hiện đại. Tính bền vững ấy của lễ hội được lí giải bằng nhiều lí
lẽ khác nhau, trong đó các lí giải theo quan điểm chức năng luận dường như có sức
thuyết phục hơn cả.
Ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu văn hóa đã tập trung vào hướng phân tích
này, tuy nhiên vẫn chưa có sự thống nhất cao về số lượng cũng như tính chất của chức

trong những quan hệ hàng ngày; lễ hội là dịp để hoàn thiện các chủng loại văn hoá; là
dịp để con người vươn lên đời sống văn hoá cao hơn và bộc lộ hết tinh hoa của mình.
Lễ hội còn là nơi nhắc nhở người ta sống trật tự, mực thước góp phần làm cho cuộc
sống tốt đẹp hơn. Là nơi thể hiện năng khiếu thẩm mĩ của cộng đồng, tất cả phải được
chuẩn bị hết sức chu đáo. Đồng thời cũng khuyến khích tài năng lao động và vui chơi,
đề cao cái cao cả, cái bi, cái hài của cuộc sống.
Như vậy, chúng ta thấy rằng vai trò của lễ hội rất quan trọng, không chỉ trong
đời sống hàng ngày, thể hiện ý nghĩa văn hoá mà nó còn là một trong những khuôn
mẫu chuẩn mực để con người noi theo. Muốn cho lễ hội nước ta mãi giữ được bản sắc
chúng ta cần khắc phục một số mặt tiêu cực như thương mại hoá các hoạt động mê tín
dị đoan, tệ nạn đánh bạc tập quán lạc hậu,…
1.2.3.3. Tác động của lễ hội
22
* Đối với kinh tế.
Ngày nay khi xã hội phát triển, đời sống con người được nâng cao thì du lịch
trở thành quan trọng nhất trong ngoại thương nền kinh tế mở cửa và là một hiện tượng
kinh tế phổ biến. Đối với một số quốc gia, du lịch là nguồn thu ngoại tệ quan trọng
trong ngoại thương. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, du lịch đã trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn hàng đầu. Đặc biệt du lich lễ hội làm cho nền kinh tế tăng trưởng khá cao,
tạo sự thu hút cho khách đi du lịch.
Lễ hội cũng góp phần làm cho cuộc sống của người dân được cải thiện. Vào
mùa hội những mặt hàng dịch vụ được tăng lên cao tạo điều kiện cho người dân xoá
đói giảm nghèo, không những vậy, lễ hội còn tác động đến du lịch. Lễ hội là loại kinh
tế mở, nó vừa giới thiệu quảng bá được những chương trình du lịch hấp dẫn với du
khách, tạo sự giao lưu đan xen giữa các vùng miền góp phần làm cho kinh tế phát triển
hơn nữa làm giàu cho kho tàng văn hoá, bản sắc dân tộc, tăng doanh thu cho các công
ty du lịch. Lễ hội thay đổi diện mạo của các điểm du lịch, xóa đi sự nhàm chán đơn
điệu của các điểm du lịch. Hoạt động này còn là nơi trưng bày và trình diễn các sản
phẩm truyền thống của địa phương người ta gọi là kinh tế xuất khẩu tại chỗ, tạo điều
kiện tốt để kinh doanh, là cơ hội để đón nhiều đối tượng khách từ nhiều vùng miền cả

đó, lễ hội sẽ làm cho du lịch phát triển hơn, lễ hội làm cho du lịch trở nên hấp dẫn tạo
cho số lượng khách đông hơn. Du khách đến lễ hội đông kéo theo những nhu cầu khác
nhau, khi đó những mặt hàng ngành du lịch tăng lên.
Bản chất của du lịch Việt Nam là du lịch văn hoá, du lịch Việt Nam muốn phát
triển tất yếu phải khai thác sử dụng giá trị văn hoá truyền thống, cách tân và hiện đại
hoá sao cho phù hợp hiệu quả, trong đó có kho tàng lễ hội truyền thống. Đây là một
thành tố đặc sắc văn hoá Việt Nam cho nên phát triển du lịch lễ hội chính là lễ hội sử
dụng ưu thế của du lịch Việt Nam trong việc thu hút và phục vụ khách du lịch. Mùa lễ
hội cũng là mùa du lịch tạo nên hình thức du lịch lễ hội mang bản sắc văn hóa dân tộc
được thể hiện qua các sắc thái văn hoá các địa phương, vùng miền phong phú đặc sắc.
1.3.2. Tác động của du lịch đến lễ hội
Lễ hội và du lịch luôn luôn có sự tác động qua lại với nhau và cùng nhau phát
triển làm hoàn thiện hơn ngành du lịch. Trước hết, hoạt động du lịch có nhiều tác động
24
tích cực đối với lễ hội. Du lịch có những đặc trưng riêng làm cải biến hay làm hấp dẫn
hơn lễ hội truyền thống. Du lịch mang đến nguồn lợi kinh tế cao cho các địa phương
có lễ hội, du lịch tạo việc làm cho người dân địa phương thông qua dịch vụ như: Vận
chuyển khách, bán hàng hoá, đồ lưu niệm,… Nhân dân vùng có lễ hội vừa quảng bá
hình ảnh văn hoá về đời sống mọi mặt của địa phương mình, vừa có dịp giao lưu, học
hỏi tinh hoa văn hoá đem đến từ du khách.
Bên cạnh những tác động tích cực còn có những tác động tiêu cực của du lịch
đối với lễ hội. Với thời gian và không gian hữu hạn của các lễ hội truyền thống vốn chỉ
phù hợp với điều kiện riêng của các địa phương, thực tế, khi khách du lịch tới đông sẽ
ảnh hưởng thay đổi, đôi khi đảo lộn các hoạt động bình thường của địa phương nơi có
lễ hội.
Hoạt động du lịch với những đặc thù riêng của nó làm biến dạng các lễ hội
truyền thống. Vì lễ hội truyền thống có đặc tính mở thì vẫn còn những hạn chế nhất
định về điều kiện kinh tế, văn hoá xã hội cổ truyền. Nay hoạt động du lịch mang tính
liên chất, liên ngành, liên vùng, xã hội hoá cao,… sẽ làm mất đi sự cân bằng dẫn đến
phá vỡ các khuôn mẫu truyền thống của địa phương trong quá trình diễn ra lễ hội.

chúng ta có thể đến được hầu khắp các vùng trong và ngoài tỉnh.
Chính vì có vị trí địa lý đặc biệt như vậy, đã tạo cho huyện Thọ Xuân nhiều thế
mạnh và sắc thái riêng mà nhiều vùng đất không có. Vị trí đó đã tạo ra bản sắc văn hóa
riêng có của huyện và đây cũng là thế mạnh để Thọ Xuân phát triển kinh tế. Trong
suốt trường kì lịch sử, vùng đất của “thiên thời - địa lợi - nhân hòa” này đã trở thành
điểm hẹn lý tưởng để các dòng người từ nơi khác đổ về, khai thác lập nghiệp, sinh tồn
và phát triển thành một huyện Thọ Xuân giàu đẹp như hôm nay.
* Địa hình
Là huyện đồng bằng nối liền miền núi và trung du, địa hình của Thọ Xuân có
thể chia thành hai dạng địa hình cơ bản, đó là vùng trung du đồi núi thấp và vùng đồng
bằng rộng lớn tiêu biểu của xứ Thanh.
Vùng trung du gồm 13 xã nằm về phía Tây Bắc và Tây Nam của huyện. Đây là
vùng đồi thoải có độ cao từ 15 - 150m, thích hợp cho việc trồng các loại cây công
nghiệp, cây ăn quả, lâm nghiệp,… Vùng đồng bằng: Gồm 27 xã, 1 thị trấn nằm hai
phía tả và hữu ngạn sông Chu, có độ cao từ 6m - 17m. Vùng này được chia thành 2


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status