Đánh giá sự nhiễm khuẩn trên thịt lợn ở các lò mổ tiêu thụ nội địa của thành phố vinh nghệ an - Pdf 22

PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
An toàn thực phẩm là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, được tiếp cận với
thực phẩm an toàn đang trở thành quyền cơ bản đối với mỗi con người. Thực
phẩm an toàn đóng góp to lớn trong việc cải thiện sức khoẻ con người, chất
lượng cuộc sống và chất lượng giống nòi. Ngộ độc thực phẩm và các bệnh do
thực phẩm gây ra không chỉ gây ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ và cuộc sống
của mỗi người, mà còn gây thiệt hại lớn về kinh tế, là gánh nặng chi phí cho
chăm sóc sức khoẻ. An toàn thực phẩm không chỉ ảnh hưởng trực tiếp, thường
xuyên đến sức khỏe mà còn liên quan chặt chẽ đến năng suất, hiệu quả phát triển
kinh tế, thương mại, du lịch và an sinh xã hội. Đảm bảo an toàn thực phẩm góp
phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo và hội
nhập quốc tế.
Tuy nhiên, ở nước ta vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm vẫn còn buông
lỏng, vẫn còn đó những hiện tượng vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực
phẩm còn nhiều mà báo chí, truyền hình ngày ngày cảnh báo và hậu quả mà nó
mang lại như thế nào thì hẳn mỗi chúng ta ai cũng hiểu qua rõ. Tuy rằng hàng năm
đã phát động tháng "vì chất lượng và vệ sinh thực phẩm", nhưng các vụ ngộ độc vẫn
xảy ra và có chiều hướng không thuyên giảm.
Thịt lợn là nguồn thực phẩm rất giàu năng lượng và là một trong những
nguồn thức ăn chính, rất cần thiết cho con người nhưng đây cũng chính là môi
trường thuận lợi cho sự phát triển của vi sinh vật gây bệnh. Những năm gần đây,
người ta biết đến những vụ ngộ độc thực phẩm mà nguyên nhân chính là thức ăn
có tồn tại các nhân tố gây độc. Theo thống kê của Bộ Y tế, trong năm 2010, toàn
quốc đã xảy ra 132 vụ ngộ độc thực phẩm với 4.676 người mắc, 3.281 người
nhập viện và 41 trường hợp tử vong.
Thực phẩm an toàn không có nghĩa là chỉ làm tốt việc chăn nuôi sạch mà
đó là tổng hợp tất cả các khâu thống nhất và chặt chẽ, liên quan với nhau. Từ
công việc chăn nuôi ở trang trại, cơ sở giết mổ và chế biến, lưu thông, phân
phối, bảo quản thịt cho đến khi thịt đến tay người tiêu dùng, làm sao để cung cấp
1

2.1. Nhiễm độc thực phẩm, tình hình nhiễm độc thực phẩm trên thế giới và
tại Việt Nam từ trước đến nay.
2.1.1. Tình hình nhiễm độc thực phẩm trên thế giới.
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hơn 1/3 dân số các nước
phát triển bị ảnh hưởng của các bệnh do thực phẩm gây ra mỗi năm. Đối với các
nước đang phát triển thì tình trạng này lại càng trầm trọng hơn nhiều, hàng năm
gây tử vong hơn 2,2 triệu người, trong đó hầu hết là trẻ em.
Các vụ ngộ độc thực phẩm có xu hướng ngày càng tăng. Ở Mỹ hiện tại
mỗi năm vẫn có 76 triệu ca ngộ độc thực phẩm với 325.000 người phải vào viện
và 5.000 người chết. Trung bình cứ 1.000 dân có 175 người bị ngộ độc thực
phẩm mỗi năm và chi phí cho 1 ca ngộ độc thực phẩm mất 1.531 đôla Mỹ (US -
FDA 2006). Tại Úc đã có Luật thực phẩm từ năm 1908 nhưng hiện nay mỗi năm
vẫn có khoảng 4,2 triệu ca bị ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực
phẩm, trung bình mỗi ngày có 11.500 ca mắc bệnh cấp tính do ăn uống gây ra và
chi phí cho 1 ca ngộ độc thực phẩm mất 1.679 đôla Úc (Dự thảo vệ sinh an toàn
thực phẩm đến 2020, tầm nhìn 2030 của Bộ Y Tế, 2011). Ở Anh cứ 1.000 dân
có 190 ca bị ngộ độc thực phẩm mỗi năm và chi phí cho 1 ca ngộ độc thực phẩm
mất 789 bảng Anh (Dự thảo vệ sinh an toàn thực phẩm đến 2020, tầm nhìn 2030
của Bộ Y Tế, 2011).Tại Trung Quốc, gần đây nhất, ngày 7/4/2006 đã xảy ra vụ
ngộ độc thực phẩm ở trường học Thiểm Tây với hơn 500 học sinh mắc, ngày
19/9/2006 vụ NĐTP ở Thượng Hải với 336 người bị do ăn phải thịt lợn bị tồn
dư hormone Clenbutanol (Dự thảo vệ sinh an toàn thực phẩm đến 2020, tầm
nhìn 2030 của Bộ Y Tế, 2011). Tại Nga, mỗi năm trung bình có 42.000 chết do
ngộ độc rượu (Dự thảo vệ sinh an toàn thực phẩm đến 2020, tầm nhìn 2030 của
Bộ Y Tế, 2011).
3
2.1.2. Tình hình nhiễm độc thực phẩm tại Việt Nam.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây thì tình hình ngộ độc thực phẩm
luôn là vấn đề nóng của xã hội, mặc dù ngành y tế đã phối hợp với các Bộ,
Ngành liên quan tăng cường các biện pháp an toàn vệ sinh thực phẩm nhưng vẫn

đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm tới từ rất lâu.
Ingram và Simosen (1980) đã nghiên cứu hệ vi sinh vật ô nhiễm vào thực
phẩm. Reid C.M (1991) đã tìm ra biện pháp phát hiện nhanh Salmonella trên thịt
lợn và sản phẩm của thịt.
Avery, Varhagen và Cook (1991) nghiên cứu so sánh các phương pháp
phân lập và giám định sinh hoá của Clostridium perfringens.
Mpamugo, Donovan và Brett (1995) nghiên cứu về độc tố Enterotoxin của
Clostridium perfringens, nguyên nhân gây ỉa chảy đơn phát.
Davies, Oneill, Towers, Cook (1998) phân lập Salmonella typhimurium
trong ngộ độc thực phẩm từ thịt bò nhiễm khuẩn.
Schmit, Beutin và Karch (1997) nghiên cứu plasmide tan máu của E. coli
0157:H7 type EDL 933.
2.2.2. Những nghiên cứu về sự ô nhiễm vi sinh vật trong thực phẩm ở Việt
Nam.
Vấn đề về an toàn thực phẩm là một lĩnh vực khá mới đối với nền khoa học
nước nhà. Tuy nhiên trong vài năm trở lại đây nó không còn là điều mới mẻ đối
5
với chúng ta, đã có nhiều kết quả của những nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề
vệ sinh an toàn thực phẩm.
Phan Thị Thuý Nga (1997), nghiên cứu sự ô nhiễm vi sinh vật trên thịt lợn
tại Đắk lắk.
Nguyễn Thị Hoa Lý (1999), phân lập một số loại vi khuẩn trong sữa tươi.
Lê Minh Sơn (1998), nghiên cứu sự ô nhiễm Salmonella trên thịt lợn xuất
khẩu tại vùng Hữu Ngạn sông Hồng.
Đặng Thị Hạnh và cộng sự (1999), nghiên cứu tình hình nhiễm khuẩn trên
thịt heo tươi tại một số chợ ở thành phố Hồ Chí Minh.
Tô Liên Thu (1999), nghiên cứu sự ô nhiễm vi sinh vật vào thực phẩm có
nguồn gốc từ động vật trên thị trường Hà Nội.
Nguyễn Xuân Thuỷ (1999), điều tra về sự vấy nhiễm bề mặt thân thịt lợn
do vi khuẩn hiếu khí Coliform và E. coli tại các lò mổ ở thành phố Vinh.

- Sau khi luộc chín:Thơm, đặc trưng của sản phẩm,
không có mùi lạ.
Vị - Ngọt, đặc trưng của sản phẩm, không có vị lạ.
Nước luộc thịt
- Thơm, trong, váng mỡ to, khi phản ứng với đồng
sulffat (CuSO
4
) cho phép hơi đục.
2.3.3. Yêu cầu vệ sinh về vinh sinh vật:
Các chỉ tiêu vi sinh vật của thịt tươi theo TCVN 7046:2002 quy định:
Bảng 3. Các chỉ tiêu vi sinh vật của thịt tươi
Tên chỉ tiêu Giới hạn tối đa
1. Tổng số vi sinh vật hiếu khí, số khuẩn lạc trong 1 g sản phẩm 10
6
2. E.coli, số vi khuẩn trong 1 g sản phẩm 10
2
3. Salmonella, số vi khuẩn trong 25 g sản phẩm 0
4. B. cereus, số vi khuẩn trong 1 g sản phẩm 10
2
5. Staphylococcus aureus, số vi khuẩn trong 1 g sản phẩm 10
2
6. Clostridium perfringens, số vi khuẩn trong 1 g sản phẩm 10
7. Clostridium botulinum, số vi khuẩn trong 1 g sản phẩm 0
7
2.4. Các con đường dẫn tới sự nhiễm khuẩn vào thịt lợn.
2.4.1. Nhiễm khuẩn từ trong quá trình chăn nuôi:
Tại hội thảo về vệ sinh an toàn thực phẩm tại Hà Lan năm 1997
Noordhuizen Frankena và Graat đã cho rằng trang trại là điểm bắt đầu của quá
trình sản xuất thực phẩm, nó đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ sự an
toàn của động vật cũng như sản phẩm động vật khỏi các tác nhân vi sinh vật.

nước dùng trong gia đình cũng như trong công nghiệp. Bên cạnh việc phân tích các
chỉ tiêu lý hóa người ta còn tiến hành xác định các vi khuẩn chỉ thị nhiễm bẩn nước.
Các vi khuẩn chỉ thị nước ô nhiễm bởi phân bao gồm các vi khuẩn thuộc nhóm
Coliform, fecal coliform, fecal steptococcus và fecal clostridium. Trong đó nhóm
Coliform thường được sử dụng để chỉ thị độ bẩn của nước. Nhóm này bao gồm các
loại trực khuẩn Gram âm, không hình thành bào tử, hiếu khí hoặc yếm khí tùy tiện,
lên men Lactoza tạo thành acid và khí ở 35
0
C/48h. Các đại diện lớn thuộc nhóm
Coliform là E. coli, Enterobacter aerogenes và Klebsiella pneumonae. Do đó sự có
mặt của Coliform chứng tỏ nước bề mặt bị ô nhiễm bởi phân.
Tiêu chuẩn vi sinh vật vệ sinh thú y đối với nguồn nước sử dụng được trình bày
ở bảng sau:
Bảng 4. Tiêu chuẩn vệ sinh thú y đối với nguồn nước sử dụng trong giết mổ
TT Yếu tố Đơn vị Giới hạn
1 Tổng số VKHK CFU/ml 10
5
2 Coliform MNP/ml 10
3 E.coli MNP/ml 0
4 Feacal coliform MNP/ml 0
5 Clostridium perfringen CFU/ml 0
(Nguồn: Cơ quan Thú y Vùng III - Tài liệu tập huấn công tác kiểm dịch,
kiểm soát giết mổ, kiểm tra vệ sinh thú y, 2006)
Để tránh sự lây nhiễm vi khuẩn vào cơ thể người, vào thịt thì nước dùng
trong lò giết mổ phải đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh thú y, phải được Cục Thú y
kiểm tra và cấp giấy phép chứng nhận vệ sinh thú y đối với cơ sở giết mổ
xuất khẩu. Chi cục Thú y địa phương kiểm tra và cho phép đối với cơ sở giết
mổ trong nước.
Một khi môi trường xung quanh như thức ăn, nước, đất và con vật đều mang
vi khuẩn thì một điều tất yếu chúng sẽ phát tán vi khuẩn ra ngoài không khí. Bản

Khi chọc tiết bằng dao nhiễm khuẩn, vi khuẩn sẽ được chuyển vào hạch
lâm ba đến các bắp thịt. Nhiễm khuẩn thịt cũng dễ xảy ra ngay sau khi chọc tiết,
áp suất máu giảm dần cũng tạo điều kiện từ đường tiêu hoá xâm nhập vào thịt.
Theo Hồ Hoài Nam và cộng sự (1997) thì trong ruột gia súc thường xuyên
phân lập được Salmonella, E.coli, Staphylococcus, Streptococcus, Bacillus
10
subtilis, Khi giết mổ lấy phủ tạng không khéo sẽ bị rách và các vi sinh vật từ
ruột sẽ vấy nhiễm vào thịt.
Kết quả nghiên cứu của Rabsch (1998) cho thấy trong 1942 mẫu phân tích
gồm dụng cụ giết mổ, khăn lau được lấy từ 7 lò mổ lợn của Đức để kiểm tra sự
có mặt của Salmonella cho kết quả là 6,3% số mẫu dương tính. Riêng đối với
khăn lau thì lên tới 10,3%.
Chi cục thú y thành phố Hồ Chí Minh (1996) cho biết số lượng vi khuẩn hiếu
khí trên dụng cụ giết mổ là 10
3
đến 801,8x10
3
vi khuẩn/cm
2
, 3 đến 563
Coliform/cm
2

Lây nhiễm trong quá trình lưu thông, phân phối:
Quá trình vận chuyển thực phẩm cũng là con đường gây ô nhiễm đối với
thực phẩm, tỷ lệ nhiễm Salmonella vào thực phẩm trong quá trình vận chuyển là
40% (Herry, 1990).
Để có được thịt sạch thì trước khi giết mổ và sau khi giết mổ phải có
phương thức chuyên dụng, có bao gói và móc hợp vệ sinh. Điều thiết yếu là đàn
gia súc càng ở gần nơi hạ thịt càng tốt, tránh sự di chuyển quá xa, nhưng lò sát

khuẩn hiếu khí, kỵ khí, nấm mốc, ký sinh trùng… Một số vi khuẩn được xem là vi
khuẩn chỉ điểm vệ sinh gây ngộ độc ở người tiêu dùng gồm: tập đoàn vi khuẩn hiếu
khí, Coliform, E. coli, Salmonella, Staphylococcus aureus, Clostridium
perfringens.
2.5.1. Tập đoàn vi khuẩn hiếu khí.
Thuật ngữ “vi khuẩn hiếu khí” trong vệ sinh thực phẩm được hiểu là bao
gồm cả vi khuẩn hiếu khí và vi khuẩn yếm khí tùy tiện. Hệ vi khuẩn có mặt
trong thịt được xác định gồm hai nhóm dựa theo nhiệt độ phát triển của chúng.
Nhóm vi khuẩn ưa nhiệt phát triển tốt ở nhiệt độ ở 37
0
C và không phát triển ở
nhiệt độ 1
0
C. Nhóm ưa lạnh sinh trưởng và phát triển ở nhiệt độ thấp hơn (Tô
Liên Thu, 1999).
Hệ vi khuẩn hiếu khí ở thịt thay đổi theo thời gian và điều kiện bảo quản.
Vi khuẩn ưu nhiệt có thể xâm nhập vào thịt ngay sau khi giết mổ. Do vậy,
muốn kiểm tra vi khuẩn nhóm này cần điều kiện nuôi cấy ở nhiệt độ là 35
0
-
37
0
C (Herbert, 1991).
Xác định tổng số vi khuẩn hiếu khí trong thực phẩm là một trong những
nhân tố chỉ điểm về điều kiện vệ sinh, nhiệt độ và thời gian bảo quản của quá
12
trình sản xuất cũng như vận chuyển thực phẩm. Đây được coi là phương pháp
tốt nhất để ước tính số lượng vi khuẩn xâm nhập vào thực phẩm.
2.5.2. Vi khuẩn E. coli.
2.5.2.1. Ý nghĩa của việc xác định tổng số E. coli trong thịt lợn:

số chủng có thể phát triển được ở môi trường tổng hợp đơn giản nên người ta đã
chọn chúng làm mẫu để nghiên cứu về vi sinh vật học.
E. coli là trực khuẩn hiếu khí và yếm khí tuỳ tiện, có thể sinh trưởng ở
nhiệt độ từ 5 - 40
0
C, nhiệt độ thích hợp là 37
0
C, pH thích hợp 7,2 - 7,4, phát
triển được ở pH từ 5,5 – 8,9 (Nguyễn Như Thanh, 1997).
- Trên môi trường thạch thường: sau 24 giờ hình thành những khuẩn lạc
tròn, ướt, không trong suốt, màu tro trắng nhạt, hơi lồi đường kính 2 - 3 mm.
Nuôi lâu khuẩn lạc trở thành gần như nâu nhạt và mọc rộng ra.
- Trong nước thịt: Vi khuẩn phát triển tốt làm cho môi trường rất đục, có
cặn màu tro nhạt lắng xuống đáy, đôi khi có màng màu xám nhạt trên mặt môi
trường, môi trường có mùi phân thối.
- Trong môi trường Mulle Kauffman, môi trường lục Malasit (Malachit) E.
coli không mọc. E. coli bị ức chế trong môi trường WinlsonBlai.
- Trên môi trường thạch máu: Đa số E. coli không gây dung huyết nhưng
cũng có chủng gây dung huyết (Phạm Hồng Sơn, 2002).
- Môi trường Macconkey: Hình thành khuẩn lạc màu đỏ sau 24 giờ nuôi cấy.
- E. coli lên men sinh hơi các loại đường như fructose, glucose, lactose. Tất
cả các E. coli đều lên men đường lactose nhanh và sinh hơi, cũng có một số
chủng E. coli không lên men lactose (Nguyễn Như Thanh, 1997).
- E. coli có phản ứng indol dương tính, Metyl Red dương tính, VP âm tính,
phản ứng sử dụng citrate âm tính, phản ứng H
2
S âm tính, di động dương tính,
lên men lactose, manit, lysidecacboxylaza dương tính. Hàm lượng G + C (mol
%) là 50-51%, khử nitrit, geratin, huyết thanh đông, long trắng trứng đông, sữa
đông sau 24-72 giờ ở nhiệt độ nuôi cấy là 37

này rất bền vững, ở 100
0
C trong vòng 15 phút mới bị vô hại (Đào Trọng Đạt và
cộng sự, 1996). Về cấu trúc, đây là một phức chất polysacharido-protein-lipid,
do đó nó thuộc về kháng nguyên hoàn toàn và tính đặc hiệu cao đối với các
chủng của mỗi serotype (Đào Trọng Đạt, 1997).
E. coli và trúng độc thực phẩm:
Trúng độc (thực ra là tiêu chảy) do E. coli khá phổ biến và thường xuất
hiện ở cả tập đoàn người cùng sử dụng một loại thực phẩm nhiễm khuẩn.
Trong đa số trường hợp, sau khi ăn thức ăn nhiễm E. coli gây tiêu chảy 10 - 15
giờ thì phát bệnh. Đặc trưng bởi nôn mửa, đau bụng, tiêu chảy, phát sốt, hồi
phục sau 2 - 3 ngày. Có khi tuỳ thuộc vào sự gia tăng số lượng vi khuẩn phát
triển ở đường ruột và lượng độc tố khuyếch tán trong đường ruột mà trúng độc
có thời kỳ tiềm ẩn khoảng 6 - 72 giờ, dạng này có thể phân biệt là thể trúng độc
cảm nhiễm.
15
Trường hợp ngộ độc do ăn thức ăn nhiễm khuẩn có sẵn độc tố gọi là thể
trúng độc độc tố ngoại sinh. Còn các trường hợp khác sau khi ăn thức ăn nhiễm
khuẩn trong cơ thể bắt đầu hình thành độc tố dẫn đến hiện tượng trúng độc thì
gọi là hiện tượng trúng độc độc tố nội sinh (Phạm Hồng Sơn, 2002).
Các E. coli sinh bệnh đường ruột (EPEC) do có khả năng kết bám vào tế bào
Hela, cho nên có thể kiểm định E. coli kết bám đường ruột (enteroadherent E. coli -
EAEC) hay E. coli liên quan đến tính gây bệnh đường ruột (Phạm Hồng Sơn, 2002).
Các E. coli có tính xâm nhập tổ chức đường ruột, gây nên các triệu chứng
giống bệnh lỵ (tức kiết lỵ, hay hồng lỵ) trực trùng, thường không sản sinh lysin
decarboxylaza (Phạm Hồng Sơn, 2002).
E. coli độc tố nguyên đường ruột (enterotoxigenic E. coli - ETEC) có năng
lực hình thành các kháng nguyên lông F2 (tên cũ CFA/I), F3 (CFA/II), F4
(K88), F5 (K99), F6 (987P) và các độc tố ruột (enterotoxin) do plasmid chi phối
(Phạm Hồng Sơn, 2002).

Với người có: S. typhi gây bệnh thương hàn và S. para typhi A; B; C gây
bệnh phó thương hàn. Đối với thực phẩm, việc xác định sự có mặt vi khuẩn
Salmonella thuộc các serotype S. typhi, S. paratyphi dù số lượng rất hạn chế
cũng đủ để phản ánh tình trạng kém vệ sinh trong quá trình giết mổ (Lowry
và Bates, 1989).
Phần lớn các loại Salmonella gây bệnh cho gia súc đều có thể gây bệnh ở
người chứng ngộ độc thức ăn như: S. typhimurium, S. enteritidis, S. thompson,
S. bareilly, S. anatum, S. cholerae suis (Nguyễn Như Thanh, 1997).
Salmonella là vi khuẩn gây bệnh nguy hiểm nhất trong các vi khuẩn cần
kiểm tra trong thực phẩm mà đặc biệt là thực phẩm tươi sống và thực phẩm
đông lạnh. Salmonella có mặt trong thực phẩm không làm thay đổi các tính chất
cảm quan: mùi vị, màu sắc và hình thái của thịt nên người tiêu dùng khó nhận
biết được thịt đã nhiễm khuẩn hay không. Vi khuẩn nhiễm trên bề mặt thịt rồi
sinh sôi phát triển dần thấm sâu vào bên trong làm hư hỏng thịt. Quá trình ngấm
sâu này phụ thuộc vào điều kiện bên ngoài. Trong điều kiện bình thường sau 24
giờ Salmonella có thể ngấm sâu trong 14 cm vào bên trong thịt. Điều này nói lên
mức độ nguy hiểm như thế nào khi có mặt Salmonella trong thịt. Vi khuẩn
Salmonella có thể sinh trưởng trong thực phẩm, nhưng không sinh độc tố. Khi
chúng vào ruột hoặc vào máu mới sinh độc tố. Chúng gây viêm niêm mạc ruột.
Tế bào của chúng bị chết, bị tự phân và độc tố được giải phóng. Độc tố có tác
dụng dung giải máu, gây tác động lên hệ thần kinh của huyết quản, giảm độ
căng của huyết quản gây ỉa chảy. Khi ngộ độc, chức năng điều tiết của cơ thể bị
ảnh hưởng. Ngoài các triệu chứng ngộ độc ta có thể thấy đặc điểm của bệnh
17
truyền nhiễm (bệnh thương hàn và phó thương hàn), nhiễm khuẩn huyết (Lương
Đức Phẩm, 2002).
Chỉ 1 lượng nhỏ Salmonella trong thịt cũng đủ để gây bệnh, điều này phụ
thuộc vào từng serotype và tính chất của từng loại thực phẩm bị nhiểm khuẩn.
Theo tổ chức lương thực thế giới, Salmonella là vi khuẩn nguy hiểm đối với sức
khoẻ con người nên đặt ra yêu cầu vệ sinh tối thiểu cho tất cả các loại thực phẩm

hình thành khuẩn lạc khô, hình hạt lỗ chỗ (Nguyễn Như Thanh, 1997).
- Môi trường Mac Konkey: Nuôi dưỡng ở 35
0
C - 37
0
C sau 18 - 24 giờ
Salmonella mọc thành những khuẩn lạc tròn, trong, không màu, nhẵn bóng và hơi lồi.
- Môi trường thạch Endo: Vi khuẩn Salmonella hình thành khuẩn lạc màu
trắng hồng, tròn trơn, nhẵn bóng trông như những hạt sương lóng lánh trên màu
hồng nhạt của môi trường.
- Môi trường thạch Brilliant green: Salmonella hình thành khuẩn lạc màu
trắng hồng, sáng, bao bọc xung quanh bởi màu môi trường đỏ sáng (Tô Liên
Thu, 1999).
Trong khi nuôi cấy Salmonella có thể biến dị về khuẩn lạc và kháng nguyên.
Phần lớn các loại Salmonella lên men có sinh hơi glucoz, mannit, mantoz.
Tuy nhiên cũng có một số loài lên men các đường trên nhưng không sinh hơi
như S. abortus spp, S. typhisuis (Nguyễn Vĩnh Phước, 1970).
Đa số các Salmonella không phân giải urea, có phản ứng indol âm tính, sử
dụng citrat dương tính, hoàn nguyên nitrat, di động, lyzindecaboxylaxa dương
tính, andonit âm tính, lên men manit, không lên men lactoza, saccharoz trừ một
số ngoại lệ dạng huyết thanh, dạng sinh học nhất định. Hàm lượng C+G (mol%)
là 50 - 53 (Phạm Hồng Sơn, 2002).
Mặc dù vi khuẩn Salmonella không lên men đường Lactose nhưng trong thực
tế có thể có những chủng không đặc trưng. Theo Blacburn và Ellis, 1989 thì có đến
15,6% chủng Salmonella phân lập từ sản phẩm sữa khô lên men Lactose.
Sức đề kháng:
Salmonella khó sinh sản ở trong nước thường nhưng có thể tồn tại 1 tuần,
trong nước đá có thể sống 2 - 3 tháng. Trong xác động vật chết chôn ở bùn, cát
có thể sống 2 - 3 tháng. Với nhiệt độ vi khuẩn có sức đề kháng yếu, ở 50
0

thần kinh, gây hôn mê, co giật, nội độc tố có hai loại: loại gây xung huyết và
mụn loét. Theo Đoàn Thị Băng Tâm, 1995 thì độc tố do Salmonella sản sinh ra
có 2 loại là độc tố thẩm xuất nhanh và độc tố thẩm xuất chậm. Độc tố thẩm xuất
nhanh hay còn gọi là độc tố chịu nhiệt, chịu được nhiệt độ 100
0
C trong 4 giờ, bị
phá hủy nhanh khi hấp cao áp và bền vững ở nhiệt độ thấp. Độc tố thẩm xuất
chậm bị phá hủy ở 60
0
C trong 30 phút.
* Ngoại độc tố: chỉ phát hiện được khi lấy vi khuẩn có độc tính cao cho vào
túi colodion rồi đặt vào ổ bụng chuột lang để nuôi, sau 4 ngày lấy ra rồi lại cấy
truyền như vậy từ 5 - 10 lần, sau cùng đem lọc, nước lọc này có khả năng gây
bệnh cho động vật thí nghiệm.
20
Ngoại độc tố chỉ hình thành trong điều kiện invivo và trong nuôi cấy kỵ khí.
Ngoại độc tố tác động vào thần kinh và ruột, ngoại độc tố có thể chế thành giải độc tố
bằng cách trộn thêm 5% focmol để ở 37
0
C trong 20 ngày (Nguyễn Như Thanh, 1997).
Salmonella và ngộ độc thực phẩm:
Ngoài ba dạng huyết thanh vi khuẩn Salmonella và S. typhi (trực khuẩn
thương hàn người), S. paratyphi A (trực khuẩn phó thương hàn) và S. paratyphi
B, các dạng huyết thanh khác có thể là nguyên nhân gây viêm dạ dày - ruột cấp
tính, đau bụng, nôn mửa, tiêu chảy, sốt là những triệu chứng chính, thời kỳ tiềm
ẩn khoảng 18 - 36 giờ và còn có trường hợp máu nhiễm khuẩn, bại huyết, viêm
màng tuỷ, viêm màng xương (Phạm Hồng Sơn, 2002).
Các vi khuẩn Salmonella gây trúng độc chủ yều là S. serovar, S.
typhimurium, S. enteritidis, S. thompson, thường gây ô nhiễm từ nhiều loài gia
súc gia cầm khác nhau, các động vật cảnh, động vật hoang dã, chim, bò sát,

Cân chính xác 25 g mẫu (bỏ mỡ, gân) cắt nhỏ rồi nghiền nhuyễn trong máy
dập mẫu và bổ sung dần 225 ml dung dịch đệm pepton ta được nồng độ pha
loãng ban đầu là 10
-1
.
Pha loãng mẫu: Từ huyễn dịch ban đầu ta tiến hành pha loãng mẫu bằng
cách chuyển 1 ml huyễn dịch ban đầu cho vào ống nghiệm chứa 9 ml dung dịch
22
đệm pepton, được độ pha loãng tiếp theo 10
-2
. Cứ như vậy tùy theo mức độ sạch
bẩn của mẫu kiểm tra mà pha loãng đến mức thích hợp.
Thời gian từ khi chuẩn bị xong dung dịch huyền phù ban đầu đến các nồng
độ tiếp theo không quá 30 phút.
Bước 3. Tiến hành nuôi cấy:
+ Hút 1 ml dung dịch mẫu đã được pha loãng ở các đậm độ khác nhau cho
vào từng đĩa petri, mỗi một mẫu kiểm nghiệm phải nuôi cấy 2 đậm độ, mỗi đậm
độ dùng 2 đĩa petri.
+ Rót vào từng đĩa 12 - 15 ml môi trường thạch ở nhiệt độ 45 - 50
0
C, đảo
đều dung dịch mẫu với môi trường bằng cách xoay ngược, xoay xuôi nhiều lần
nhẹ nhàng, rồi để các hộp thạch đông tự nhiên.
+ Úp ngược đĩa thạch lại nuôi cấy trong tủ ấm 30
0
C trong 72 giờ.
Bước 4. Đọc kết quả:
Sau 24 giờ nuôi cấy tính kết quả sơ bộ bằng cách đếm số khuẩn lạc mọc trên
các đĩa nuôi cấy. Sau 72 giờ nuôi cấy tính kết quả cuối cùng. Chọn tất cả các đĩa có
từ 15 - 300 khuẩn lạc để tính kết quả.

đã được hấp khử trùng, sau đó để trong tủ ấm 35
0
C. Trong 24-48 giờ, kiểm tra
các ống LT dương tính có sinh hơi (đục và có bọt khí).
Bước 4. Khẳng định BGBL (Brilliant Green Bile Lactose Borth):
Từ các ống LT dương tính, cấy chuyển sang môi trường BGBL (Brilliant
Green Bile Lactose Borth) để xác định sự có mặt của Coliforms. Để các ống
BGBL trong tủ ấm 37
0
C trong vòng 24 giờ.
Kiểm tra ghi nhận các ống BGBL dương tính trên 3 nồng độ liên tiếp (có
sinh hơi, đục môi trường) và tra bảng MPN để ghi kết quả cuối cùng.
3.3.3. Phương pháp xác định E. coli trong thịt lợn:
* Nguyên tắc:
Phương pháp xác định E. coli đượctiến hành theo phương pháp Most
Probable Number (MPN- phương pháp nhiều tính số có xác suất lớn nhất) và
sử dụng bảng chỉ số MPN để tính kết quả. Vi khuẩn E.coli được giám định sinh
hoá bằng dãy phản ứng IMViC.
* Các bước tiến hành:
Bước 1. Lấy mẫu theo TCVN 4833 - 1:2002.
Bước 2. Đồng nhất, pha loãng mẫu: tương tự như xác định tổng số vi khuẩn
hiếu khí.
Bước 3. Cấy và ủ mẫu vào môi trường tăng sinh chọn lọc LT (Lauryl
24
Tryptose): mỗi nồng độ pha loãng cấy vào 3 ống canh thang LT, cấy ở 3 độ pha
loãng liên tiếp 10
-1
, 10
-2
, 10

C từ 2 - 4 ngày, nhỏ 5 giọt thuốc thử đỏ methyl
vào, đọc kết quả E.coli dương tính môi trường có màu đỏ vì E.coli lên men
đường Glucose mạnh tạo thành sản phẩm là các axit bền làm cho pH môi
trường thay đổi, âm tính có màu vàng.
+ Phản ứng Voges – Proskauer (VP): Cấy vi khuẩn vào môi trường Pepton
glucose, ủ ở 37
0
C trong 48h, cấy chuyển 1 ml canh trùng sang một ống nghiệm
khác rồi nhỏ 0,6ml dung dịch cồn α- naptol, 0,2ml dung dịch 40% Kalihydroxyt,
lắc đều, đọc kết quả sau 5- 15 phút.
E.coli có phản ứng Voges - Proskauer âm tính, không màu hoặc màu
vàng nhạt ( dương tính màu đỏ) vì E.coli lên men đường Glucose mạnh tạo
25

Trích đoạn Kết quả xác định tổng số E.coli có trong 1gam thịt lợn tươi Kiến nghị:
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status