nghiên cứu đánh giá kết quả phẫu thuật tán nhuyễn thủy tinh thể với đường rạch giác mạc 2,2mm - Pdf 22

ĐẶT VẤN ĐỀ
Cho đến nay đục thể thuỷ tinh vẫn là nguyên nhân gây mù hàng đầu
trên thế giới do vậy phẫu thuật thể thuỷ tinh luôn là phẫu thuật mũi nhọn của
ngành Nhãn khoa. Những tiến bộ về kỹ thuật mổ thể thuỷ tinh luôn dành được
sự quan tâm lớn của các bác sỹ Nhãn khoa.
Kỹ thuật mổ tán nhuyễn thể thuỷ tinh (TNTTT) được Kelman giới
thiệu năm 1967 và được áp dụng phổ biến từ những năm 1990 đã tạo ra một
cuộc cách mạng trong phẫu thuật thể thuỷ tinh, đã cho những kết quả hết sức
tốt đẹp, phục hồi lại chức năng thị giác, nâng cao chất lượng cuộc sống cho
bệnh nhân.
Trong thời kỳ đầu phẫu thuật TNTTT được thực hiện qua vết mổ 4 mm
rồi mở ra 6 mm để đặt thể thuỷ tinh nhân tạo, kết thúc với 1 - 2 mũi chỉ khâu.
Cùng với sự phát triển về công nghệ sản xuất và chất liệu của thể thuỷ tinh
nhân tạo vết mổ TNTTT cũng thu nhỏ dần từ 4 mm xuống 3,2 mm và hiện
nay vết mổ 2,8 mm được thực hiện thường quy trong phẫu thuật TNTTT.
Trong quá trình nghiên cứu các tác giả đều thống nhất rằng vết mổ càng thu
nhỏ càng giảm thiểu chấn thương do phẫu thuật, vết mổ sẽ liền tốt hơn, thị lực
phục hồi sớm hơn, chất lượng thị lực cũng cao hơn do hạn chế được hiện
tượng loạn thị do phẫu thuật. Từ đó một số tác giả đã chủ trương áp dụng mổ
TNTTT với đường mổ 2,2 mm và đã thu được những thành công rất đáng
khích lệ.
Ở Việt Nam, phẫu thuật TNTTT được áp dụng lần đầu tiên vào năm
1995. Hiện nay phẫu thuật đã phát triển ở nhiều tỉnh thành trong cả nước với
hàng trăm ngàn trường hợp được thực hiện mỗi năm. Tuy nhiên cho đến nay
kỹ thuật mổ TNTTT vẫn chỉ được tiến hành qua vết mổ 2,8 mm với độ loạn
thị do vết mổ gây ra khoảng 0,5D. Hiện chưa có nghiên cứu nào đánh giá kết
1
quả của phẫu thuật TNTTT với đường rạch giác mạc nhỏ 2,2mm. Chính vì
vậy chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu đánh giá kết quả phẫu thuật
tán nhuyễn thủy tinh thể với đường rạch giác mạc 2,2mm” với hai mục
tiêu:

Hình 1.1. Cấu trúc tổ chức TTT và dây chằng Zinn
* Cấu trúc tổ chức học gồm 3 phần:
- Màng bọc thủy tinh thể (Bao): Là một màng trong suốt hoàn toàn bao
quanh TTT, khá đàn hồi.
- Biểu mô dưới màng bọc: Chỉ có một lớp tế bào và chỉ có ở mặt trước
và phần trước của xích đạo thủy tinh thể. Các tế bào biểu mô thủy tinh thể này
chuyển hóa tích cực và sản sinh ra các tế bào mới biệt hóa thành các sợi thủy
tinh thể.
- Các sợi của thủy tinh thể: Mỗi sợi là một tế bào biểu mô kéo dài, các
sợi này xếp theo hướng trước - sau, đó là những dải hình lăng trụ sáu cạnh.
Các sợi TTT được cấu thành từ chất albumin, được tập hợp lại nhờ một chất
đồng nhất, gọi là chất gắn, chất gắn này tạo thành các khớp nối, chỗ đó cũng
là nơi kết thúc của nhiều bình diện của sợi thủy tinh thể.
4
1.2 Chức năng sinh lý: TTT có hai chức năng chính [11]
- Hội tụ: TTT đảm nhiệm khoảng 1/3 tổng công suất khúc xạ hội tụ của
mắt (khoảng 20dp)
- Điều tiết: TTT có khả năng điều tiết nghĩa là có thể làm thay đổi tiêu
điểm từ hình ảnh ở xa đến hình ảnh ở gần. Điều tiết xảy ra khi có biến đổi
hình dạng TTT do tác động của cơ thể mi lên các sợi dây treo TTT. Khi cơ
thể mi co, độ dày của TTT tăng lên, đường kính giảm đi và công suất khúc xạ
tăng lên gây ra điều tiết.
2 Bệnh đục thủy tinh thể
* Định nghĩa:
Đục TTT tuổi già là một nguyên nhân rất thường gặp đưa đến giảm thị
lực ở người cao tuổi. Nghiên cứu tại Mỹ, tỷ lệ đục TTT là 50% ở nhóm người
từ 65 đến 74 tuổi. là 70% ở nhóm người trên 70 tuổi. Cho đến nay bệnh vẫn
chưa được hiểu biết một cách rõ ràng. Khi TTT già đi sẽ tăng trọng lượng và
độ dày đồng thời giảm công suất điều tiết. Các lớp sợi mới hình thành ở vỏ
TTT được tạo thành theo kiểu đồng tâm sẽ dồn ép các sợi cũ vào trung tâm.

3.1.1 Phẫu thuật TTT trong bao [12][40][41]
Cách đây khoảng hơn 4000 năm, các phẫu thuật viên thực hiện phẫu
thuật TTT bằng cách đánh rơi TTT vào buồng dịch kính. Người ta không rõ
tác giả của phương pháp này, tuy nhiên TTT đục đã được đánh rơi vào buồng
dịch kính vì TTT được xem là cơ quan thị giác nguyên phát rơi ở đâu đó trong
6
buồng dịch kính, người ta đưa một dụng cụ nhọn vào trong mắt, không gây mê,
không vô trùng, di động và đẩy TTT vào buồng dịch kính, phương pháp phẫu
thuật này được phát triển nhưng chậm. Đến năm 1745 Jacque Daviel, phẫu thuật
viên người Pháp, trong khi thực hiện phẫu thuật đã thấy được sai lầm về việc
đánh rơi TTT vào buồng dịch kính và năm 1752 đã thực hiện lấy TTT.
Cuối thế kỷ XVIII và đầu XIX S.Sharp và H.Smith, E.Kait, I.Barraquer
giới thiệu và hoàn thiện dần phương pháp lấy TTT nguyên cả nhân, vỏ và bao
bằng cách làm đứt dây chằng zinn rồi đem ra ngoài qua vết mổ khoảng 10mm
ở rìa giác - củng mạc. Đến thế kỷ XIX, cùng với sự phát minh về thuốc tê, chỉ
khâu và alpha chymotrypsin (tác dụng làm đứt dây chằng zinn) thì phẫu thuật
trong bao trở thành chuẩn mực. Đến năm 1960 người ta bắt đầu áp dụng kỹ
thuật lạnh đông để lấy TTT nhằm tăng độ an toàn hơn. Tuy nhiên có rất nhiều
biến chứng xẩy ra sau mổ.
3.1.2 Phẫu thuật TTT ngoài bao [11]
Nhân và vỏ TTT được lấy sạch qua lỗ mở ở trung tâm của bao trước để
lại bao sau tại chỗ. Phương pháp này có nhiều ưu điểm hơn so với mổ TTT
trong bao. Bao sau còn nguyên vẹn tại chỗ sẽ tạo ra vị trí giải phẫu tốt để cố
định TTT nhân tạo. Ngoài ra phương pháp mổ TTT ngoài bao còn hạn chế
đáng kể các biến chứng sau mổ, đặc biệt là phù hoàng điểm dạng nang và
bong võng mạc.
3.1.3 Phẫu thuật TNTTT [5]1.2.1 Khái niệm về loạn thị
Năm 1967, Bác sỹ Charles Kelman là người đầu tiên phát minh ra phẫu
thuật tán nhuyễn thủy tinh thể (Phacoemulsification). Đây là bước ngoặt lịch
sử trong phẫu thuật đục thủy tinh thể, với vết mổ nhỏ hơn so với phẫu thuật

- Dựa vào ảnh của vật so với võng mạc người ta phân ra loạn cận
đơn thuần, loạn viễn đơn thuần, loạn cận kép, loạn viễn kép, loạn thị hỗn
hợp.
- Dựa vào sự tương quan độ cong hai kinh tuyến chính, người ta phân

ra:
+ Loạn thị thuận: Gọi là loạn thị thuận vì thường hay gặp, khi kinh
tuyến dọc cong hơn so với kinh tuyến ngang.
+ Loạn thị nghịch: Kinh tuyến ngang cong hơn so với kinh tuyến
dọc.
1.2.3 Nguyên nhân gây loạn thị
- Do mặt trước giác mạc: Khi các kinh tuyến ở mặt trước giác mạc
không có cùng bán kính độ cong. Loạn thị sinh lý khi độ loạn thị < 0,5
D
thường gặp ở trẻ em và độ loạn thị này thường được bù trừ bằng độ loạn
thị ngược của thể thuỷ tinh.
- Do mặt sau giác mạc: Bề mặt sau giác mạc cũng có độ cong không
đều nhau tùy theo người và theo tuổi. Một số người cao tuổi có thể bị ảnh
hưởng bởi loạn thị mặt sau giác mạc.
- Do thể thuỷ tinh: Loại loạn thị này có thể phát hiện được khi soi
bóng đồng tử và khúc xạ kế tự động nhưng không phát hiện được bằng
giác mạc kế.
- Loạn thị mắc phải: Hay gặp trong sang chấn giác mạc, một số
trường hợp viêm giác mạc, phẫu thuật rạch giác mạc và đặc biệt trong
phẫu thuật thể thủy tinh.
1.2.4 Các phương pháp chẩn đoán loạn thị giác mạc
1.2.4.1 Các phương pháp chủ quan
9
- Thử thị lực: Khi bệnh nhân đọc rõ khe hở của bảng vòng hở
Landolt theo chiều trên và dưới còn chiều phải và trái thì mờ hoặc ngược

.
- Soi bóng đồng tử Skiascopie.
- Topography: đồ hình giác mạc
1.3 Nghiên cứu loạn thị sau phẫu thuật TNTTT
1.3.1 Lịch sử phát triển của phẫu thuật TNTTT
Năm 1967, Kelman là người đầu tiên sáng tạo ra phương pháp tán
nhuyễn thuỷ tinh thể bằng siêu âm (Phacoemulsification ). Đây là một
bước đột phá trong phẫu thuật mắt, cho phép lấy sạch cả lõi nhân lẫn lớp
vỏ qua một vết mổ rất nhỏ, an toàn và hiệu quả. Từ đó phương pháp này
đã phát triển và thay thế dần phẫu thuật ngoài bao cổ điển, nhất là ở các
nước phát triển.
Người ta đã cải tiến từ các đường rạch vào nhãn cầu, vị trí rạch,
cách khâu, các mẫu thể thuỷ tinh đường kính nhỏ, các loại chất liệu thuỷ
tinh thể nhân tạo (PMMA, Silicone, Acrylic ) và các cách đặt thuỷ tinh
thể nhân tạo.v.v…nhằm mục đích giảm thiểu các biến chứng và giảm độ
loạn thị phát sinh sau mổ.
1.3.3.2 Giới thiệu về phương pháp TNTTT bằng siêu âm
3.21.3.2.1 Nguyên lý
Tay máy Phaco (Phacoemulsification) tạo ra giao động có tần số
khoảng 40.000 hertz (Từ 28.000 - 60.000 hertz), giao động này được truyền
đến đầu tip phaco. Nhờ tốc độ giao động lớn này của đầu tip cho phép đạt
được sức mạnh đủ để xuyên vào thuỷ tinh thể, làm nát nhuyễn phần nhân của
thuỷ tinh thể tiếp xúc với đầu tip. Những chất nhân này được hút ra bởi lỗ ở
đỉnh giữa của đầu tip dưới tác động hút của bơm áp lực âm (vaccum), một hệ
thống hút song hành được thiết kế trong phần thân máy.
Thành công của phương pháp này phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố sau:
11
- Sự cân bằng giữa dịch từ chai dịch với chất nhân được hút ra bởi áp
lực âm.
- Sự cân bằng giữa dịch vào và ra đảm bảo cho sự duy trì tiền phòng

Ngày nay phẫu thuật phaco thường quy có kích thước đường rạch từ
2.8- 3.2mm nhưng độ loạn thị mắc phải sau phẫu thuật còn cao. Tuy nhiên với
sự phát triển của trang thiết bị và thủy tinh thể nhân tạo, đường rạch có thể
thu nhỏ hơn từ 2.8mm đến 2.65mm rồi 2.2mm. Đã có nhiều các tác giả còn
thực hiện những đường rạch nhỏ hơn nữa cho phẫu thuật tán nhuyễn TTT:
Agarwal A: 0,9mm và Tsuneoka H. (2002), Hayashi T. (2002): 1,4mm với
đầu tip không có lớp áo silicone bọc ngoài, tuy nhiên khi đặt TTT nhân tạo
vẫn phải mở rộng thêm vết mổ.h:
Ngoài ưu điểm làm giảm độ loạn thị sau phẫu thuật, đường rạch nhỏ
còn làm giảm tỷ lệ nhiễm trùng sau mổ, giúp ổn định tiền phòng trong quá
trình phẫu thuật [24] .
* Xé bao trước liên tục
Năm 1984 Gimbel H.V. (Canada) và Neuhann T. (Đức) [31] đã nghĩ ra
và giới thiệu phương pháp xé bao hình tròn liên tục, tất cả các phẫu thuật viên
sử dụng góp phần quan trọng làm cho phẫu thuật tán nhuyễn TTT thành công,
Chỉ có xé bao hình tròn liên tục mới giúp cho phaco thực hiện được
trong lòng bao.
13
Mở bao trước được thực hiện lần đầu bằng kim 26g được bẻ gấp 2 lần
và trong tiền phòng đã bơm chất nhầy. Phẫu thuật viên chọc thủng bao trước
của TTT ở trung tâm, sau đó rạch hơi chéo về phía ngoại vi khoảng 2-3 mm,
lật một vạt bao trước và từ đó tiếp tục xé bao theo đường tròn hết 360
0
bằng
kim 26g hoặc bằng forceps. Sự gặp nhau của hai bờ sẽ được thực hiện từ
ngoài vào trong để tránh rách dọc ra phía ngoại vi. Đường xé này tốt nhất là
hình tròn với đường kính 5-6mm.
* Thì tách nước:
Nhằm mục đích tách dính giữa bao và toàn bộ nhân trung tâm, lớp vỏ
chu biên. Dùng bơm tiêm 3ml chứa dung dịch Riger lactate gắn với kim đầu

luồn hai dụng cụ vào thành của rãnh, tách nhân ra làm hai mảnh. Xoay nhân
90
0
rồi thực hiện kỹ thuật chop ngang để chia mỗi nửa nhân thành hai hoặc
nhiều mảnh nhỏ, đưa từng mảnh nhân vào trung tâm diện đồng tử để tán
nhuyễn và hút.
+ Kỹ thuật Quick Chop:
Khác với kỹ thuật Phaco chop là vị trí của chop: Chopper trong kỹ
thuật phaco chop được đặt ở xích đạo, còn trong kỹ thuật Quick Chop thì
chopper được đặt trên mặt trước của TTT, ở trước hoặc cạnh chỗ đầu tip đâm
vào. Kỹ thuật này được hưởng ứng và phát triển nhanh vì các phẫu thuật viên
cho rằng việc đặt chopper ở xích đạo TTT và dưới bao trước trong kỹ thuật
Phaco chop nguy hiểm. Hơn thế nữa kỹ thuật này có thể sử dụng cả cho nhân
mềm, trung bình, nhân cứng và ngay cả khi đồng tử nhỏ, với một lỗ xé bao
nhỏ. Người ta đâm sâu đầu Phaco tip vào trung tâm nhân TTT, chuyển qua thì
hút giữ chặt nhân, ấn đầu chopper xuống nhân TTT. Khi chopper đã xuyên và
đâm xuống TTT, đồng thời nâng nhân lên, tạo nên một lực xoắn để bẻ nhân
15
TTT. Tách hai dụng cụ ra một cách nhẹ nhàng để bẻ nhân qua toàn bộ chiều
dày nhân. Phẫu thuật viên có thể kiểm tra nhân bẻ đã hêt chiều dày hay chưa,
sau đó xoay nhân, tiếp tục lại kỹ thuật trên đối với những mảnh nhân đã được
chia nhỏ.
* Kỹ thuật rửa hút:
Dùng đầu rửa hút đưa vào qua vết mổ chính xuống phía dưới mép bao
trước ở vòng xé bao, lỗ hút quay lên phía trên hướng vào lớp vỏ TTT. Một
khi lớp vỏ TTT đã bị hút sâu vào lỗ hút thì phẫu thuật viên xoay nhẹ lỗ hút
hướng về phía trung tâm đồng tử giúp lớp vỏ TTT dễ dàng tách khỏi bao.
Phẫu thuật viên lần lượt hút hết lớp vở TTT ở tất cả các vị trí.
* Đặt TTT nhân tạo
Bơm chất nhầy vào trong túi bao và tiền phòng, đặt TTT nhân tạo vào

17
- Rách bao sau: rách bao sau có thể gặp ở các mức độ nhẹ ( trong đó rách
không có thoát dịch kính), rách bao sau ở mức độ trung bình ( có thoát dịch
kính ra tiền phòng) và rách bao sau ở mức độ nặng ( rách bao sau rộng nhân
hoặc mảnh nhân rơi vào buồng dịch kính )
Theo một số tác giả như Hong R., Wu H. (1998) thì tỷ lệ rách bao sau
thoát dịch kính có thể gặp từ 0% - 14,5%
Đa số các nghiên cứu chỉ ra rằng các biến chứng này gặp nhiều ở một số
phẫu thuật viên mới làm, chưa có kinh nghiệm và tỷ lệ này càng giảm khi
mức độ khéo léo của phẫu thuật viên ngày càng cao, ngoài ra còn gặp trong
một số trường hợp như độ cứng của nhân, tuổi, độ giãn của đồng tử
4.2 Biến chứng sau phẫu thuật
* Viêm màng bồ đào sau mổ
- Viêm màng bồ đào sớm sau mổ: Xuất hiện sớm ngay sau mổ 1 ngày,
Tyndall tiền phòng, thường tồn tại từ 1-2 ngày. Phản ứng viêm thường không
có triệu chứng.
- Viêm màng bồ đào muộn hơn: Xuất hiện từ một vài ngày đến một vài
tháng, tỷ lệ này thay đổi tùy theo từng tác giả.
* Viêm mủ nội nhãn: Mức độ trầm trọng của biến chứng này tùy thuộc
vào vi khuẩn gây bệnh và việc điều trị bệnh.
* Xuất huyết tiền phòng: Tỷ lệ xuất huyết tiền phòng thay đổi tùy theo
tác giả và tùy theo đường vào, theo một số tác giả có thể xuất hiện từ 0,1%
đến 14%.
Theo Zheng D. và CS

[33], tỷ lệ này khoảng 0,4% trong mổ cũng như
sau mổ.
* Thay đổi về nhãn áp:
- Hạ nhãn áp: Thường ít gặp, xuất hiện sớm và có thể gây biến đổi về
khúc xạ, ảnh hưởng đến thị lực.Thường do vết mổ không đảm bảo về kỹ thuật

thủy tinh thể nhân tạo.
- Biến chứng của lỗ xé bao:
Do đường kính của lỗ xé bao nhỏ, khó rửa hút sạch lớp chất nhân nằm dưới
bao trước gây xơ hóa, co thắt mạnh lỗ xé bao dẫn đến lệch TTT nhân tạo và cảm
giác khó chịu cho bệnh nhân, mặt khác nó có thể gây co kéo dịch kính dẫn đến
bong võng mạc. Điều trị biến chứng này bằng mở bao trước hình chữ thập.
5.1.3.3 Cơ chế Lloạn thị của giác mạc do phẫu thuật tán nhuyễn TTT
5.1.3.3.1 Cơ chế loạn thị do phẫu thuật
Bất kỳ phương pháp phẫu thuật TTT nào cũng làm mất đi tính ổn định
của giác mạc và gây nên loạn thị và có nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến
mức độ loạn thị. Chúng ta biết rằng khi nhãn cầu ở trạng thái bình thường, lực
tác dụng lên giác mạc hoặc củng mạc đều ở các hướng, như vậy tổng hợp lực
tại tâm điểm (đỉnh giác mạc) là bằng 0. Mặc dù có nhiều yếu tố ảnh hưởng
đến loạn thị tuy nhiên đều qua hai cơ chế sau:
* Sự khép kín đường rạch:
Khi rạch vào nhãn cầu, tính ổn định của hình dạng nhãn cầu mất đi, và
lực tác động lên giác mạc cũng thay đổi. Sau khi đóng mép mổ phải mất 12
tuần sau lực tác dụng mới ổn định và lúc này tổng hợp lực tại tâm điểm mới
bằng 0. Trong quá trình hàn gắn vết thương có thể gặp hiện tượng mép mổ bị
xê dịch, không chồng khít lên nhau là do hậu quả của đường rạch và
phương pháp khâu của phẫu thuật viên.
* Sự há miệng của đường rạch:
Khi mép mổ há miệng bán kính độ cong của giác mạc tại vị trí rạch sẽ
tăng lên ở kinh tuyến vuông góc với đường rạch, ở kinh tuyến song song thì
20
ngược lại. Như vậy nếu rạch theo hướng phần tư trên (12h) thì sẽ có loạn thị
ngược xẩy ra.
Ngày nay nhờ có chụp bản đồ giác mạc, người ta đã chứng minh được
loạn thị do vết thương có từ rất sớm ngay sau mổ và giảm dần theo thời gian.
Tuy nhiên trong thời gian đó vẫn có sự dịch chuyển tại mép mổ.

rào máu thủy dịch, giảm phản ứng viêm sau mổ. Dick [22] đã nghiên cứu trên
200 bệnh nhân mổ tán nhuyễn TTT chia làm 2 nhóm: Nhóm 1 với đường rạch
bậc thang củng mạc phía trên và nhóm 2 với đường rạch giác mạc bậc thang
phía thái dương. Kết quả cho thấy phản ứng viêm ở tiền phòng thấp hơn có ý
22
nghĩa thống kê ở nhóm mổ rạch giác mạc bậc thang phía thái dương, đặc biệt
trong 3 ngày đầu sau mổ.
Theo Kock P.S [16] vì có sự khác nhau về độ cứng giữa củng mạc và
giác mạc, vị trí của đường rạch nên ở đường rạch xa vùng trung tâm giác mạc
càng ít gây loạn thị, càng gần trung tâm giác mạc thì càng gây nhiều loạn thị.
Tương tự đường rạch vùng rìa phía thái dương xa trục thị giác hơn so với
đường rạch vị trí 12h nên ít ảnh hưởng đến trục thị giác hơn sẽ giảm độ loạn
thị do phẫu thuật [6].
- Kích thước đường rạch:
Loạn thị do phẫu thuật đục TTT là một vấn đề quan tâm của tất cả các
phẫu thuật viên nhãn khoa. Khi chưa ra đời phẫu thuật TNTTT và TTT nhân
tạo mềm có thể gấp lại được phẫu thuật đòi hỏi phải mở rộng giác mạc tối
thiểu là 10 - 12 mm để lấy TTT trong bao và từ 8 - 10 mm để lấy TTT ngoài
bao. Đường rạch này đòi hỏi phải đóng vết mổ bằng những mũi chỉ khâu
hướng tâm. Những mũi chỉ này tạo ra một vùng dẹt phẳng và đẩy phần giác
mạc ở trung tâm vồng lên và gây ra loạn thị.
Để làm giảm độ loạn thị do phẫu thuật các tác giả đã nghiên cứu nhiều
giải pháp như:
- Chuyển đường rạch từ rìa giác mạc lên củng mạc với mục đích làm
tăng diện tiếp xúc và làm cho vùng dẹt phẳng xa trung tâm giác mạc hơn, như
thế sẽ giảm độ loạn thị (Kratz).
- Tạo đường rạch hầm củng mạc, giác mạc không cần khâu để loại trừ độ
loạn thị gây ra do mũi chỉ.
- Chuyển vết mổ từ giác mạc trong phía trên đến giác mạc trong phía thái
dương (Vết mổ phía thái dương xa trục thị giác hơn so với phía trên )

Như vậy giảm kích thước đường rạch là một biện pháp làm giảm độ loạn
thị gây ra do phẫu thuật
Merriam C [14] khi nghiên cứu 622 mắt được chia 5 nhóm với kích
thước đường rạch khác nhau đã thấy rằng đường rạch càng dài thì gây loạn
thị càng nhiều hơn so với đường rạch ngắn. Như vậy giảm kích thước đường
rạch là một biện pháp làm giảm độ loạn thị gây ra do phẫu thuật.
Tương tự năm 1995, Kohnen T [13] đã so sánh loạn thị giác mạc sau
phẫu thuật tán nhuyễn TTT với các đường rạch có kích thước là 3,5mm,
4,0mm và 5,0mm. Trong nghiên cứu này cho thấy độ loạn thị giác mạc gây ra
do đường rạch có kích thước 3,5mm là ít nhất và kết luận độ loạn thị giác
mạc phụ thuộc vào kích thước đường rạch.
- Hình dạng đường rạch:
Đường rạch có nhiều hình dạng khác nhau được sử dụng khi phẫu thuật
lấy TTT. Hình dạng đường rạch ảnh hưởng gián tiếp đến loạn thị giác mạc do
tác động của áp lực nội nhãn lên vết mổ.
Ngày nay các phẫu thuật viên có xu hướng tạo đường hầm sẽ làm cho
lực tác dụng được dàn đều và có xu hướng ép hai mép mổ với nhau làm giảm
độ loạn thị, tránh hạ nhãn áp quá mức sau phẫu thuật.
25

Trích đoạn Mức độ loạn thị trung bỡnh giữa hai nhúm nghiờn cứu: Thời gian Phaco (U/S time)
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status