Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu BHXH tại BHXH thị xã Sầm Sơn – Thanh Hoá - Pdf 22

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp THS. Nguyễn Thị Chính
Mở đầu:
BHXH là một trong những chính sách quan trọng của mỗi quốc gia, thực hiện
tốt chính sách BHXH sẽ góp phần đảm bảo ASXH. Để thực hiện được chính sách
này cần phải có một quỹ tài chính BHXH. Quỹ này được hình thành từ các nguồn: từ
sự đóng góp của NLĐ, NSDLĐ, từ sự hỗ trợ của Nhà nước và từ các nguồn thu hợp
pháp khác, được quản lý tập trung, thống nhất. Quỹ BHXH vững mạnh sẽ làm tăng
khả năng hoạt động cho hệ thống BHXH, tăng khả năng chi trả cho các đối tượng.
Trong thực tế hiện nay, nhu cầu BHXH ngày càng tăng cao kéo theo đó là tình trạng
chi trả các chế độ cho NLĐ ngày càng tăng lên nhưng nhưng nguồn thu BHXH đang
có xu hướng không đáp ứng được nhu cầu đó, khiến cho Quỹ BHXH có nguy cơ bị
thâm hụt, thu không đủ bù chi. Vì vậy, cấp thiết cần phải có những giải pháp cụ thể
để khắc phục tình trạng nói trên và vấn đề nâng cao hiệu quả thu BHXH là một vấn
đề bức bách hiện nay.
Trong thời gian thực tập tại BHXH Thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá, em nhận
thấy công tác thu bên cạnh đã đạt được những kết quả thiết thực song vẫn tồn tại
những hạn chế nhất định như: công tác thông tin tuyên truyền chưa được chú trọng,
trong công tác thu nộp còn chậm trễ,…làm cho hoạt động thu quỹ tại BHXH Thị xã
Sầm Sơn chưa đạt được hiệu quả tốt nhất.
Nhận thức được vấn đề trên, em đã chọn đề tài “Thực trạng và một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu BHXH tại BHXH thị xã Sầm Sơn –
Thanh Hoá” làm đề tài chuyên đề tốt nghiệp, nhằm xem xét và nghiên cứu thực
trạng thu nộp quỹ BHXH Thị xã Sầm Sơn trong giai đoạn 2004 – 2008 để đóng góp
một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH tại cơ quan BHXH Thị xã Sầm
Sơn.
Kết cấu của chuyên đề ngoài lời mở đầu và kết luận gồm có 3 chương:
Chương I: Tổng quan về BHXH và công tác thu BHXH
Chương II: Thực trạng công tác thu BHXH tại BHXH Thị xã Sầm Sơn
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu BHXH tại BHXH
Thị xã Sầm Sơn.
Dương Thị Hằng Lớp: BHXH 48

để tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau tạo lập các quỹ cứu trợ người ốm, người bị tai nạn; lập
các tổ chức tương tế và vận động mọi người tham gia. Đây chính là mầm mống đầu
tiên cho sự ra đời của một hệ thống BHXH.
Kể từ đó hệ thống BHXH trên thế giới đã trải qua các giai đoạn phát triển sau:
-Năm 1838 chế độ bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ra đời lần
đầu tiên tại Cộng hoà liên bang Đức
-Năm 1850 và năm 1861 các quỹ ốm đau được thành lập ở Đức và Bỉ
-Năm 1883 Đức ban hành đạo luật đầu tiên về BHXH
-Năm 1894 và năm 1896 Bỉ và Hà Lan đã được ban hành Bộ luật đầu tiên về
các tổ chức tương tế
Dương Thị Hằng Lớp: BHXH 48
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp THS. Nguyễn Thị Chính
-Năm 1935, Mỹ ban hành đạo luật đầu tiên về ASXH, trong đó BHXH là hạt
nhân
-Ngày 10/12/1948 Đại hội đồng Liên hợp quốc Tuyên ngôn nhân quyền, trong
đó có đoạn: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên xã hội có quyền hưởng
BHXH”
-Ngày 25/06/1952 Hội nghị toàn thể của ILO đã thông qua Công ước102 –
Công ước về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội
-Ngày 07/06/1967 Công ước 128 ra đời nói về trợ cấp tàn tật, tuổi già và tiền
tuất
Ở nước ta, ngay sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà, Nhà
nước đã ban hành nhiều sắc lệnh nhằm thực hiện chính sách BHXH:
-Sắc lệnh số 54/SL ngày 01/11/1945 ấn định những điều kiện cho công chức
về hưu;
-Sắc lệnh số 105/SL ngày 14/06/1946 ấn định việc cấp hưu bổng cho công
chức;
-Sắc lệnh 76/SL ngày 20/05/1950 ấn định cụ thể hơn việc trợ cấp hưu trí, thai
sản, chăm sóc y tế, tai nạn, tiền tuất đối với công chức;

hống BHXH, chính vì vậy quyền lợi của NLĐ cũng được đảm bảo nhất.
Trên đây là một số mốc quan trọng trong việc thực hiện BHXH. Có thể nhận
thấy rằng, Đảng và Nhà nước ta coi BHXH là một trong những chính sách xã hội
hàng đầu nên luôn cố gắng hoàn thiện hê thống BHXH một cách tốt nhất cho phù hợp
với điều kiện của đất nước trong từng giai đoạn phát triển.
1.1.2. Khái niệm, bản chất và vai trò của BHXH:
1.1.2.1. Khái niệm BHXH:
BHXH ra đời và phát triển khi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện ở Châu
Âu, chính vì vậy có thể nói, BHXH có một lịch sử khá lâu đời, có nhiều thay đổi về
chất với nhiều mô hình phong phú, được thực hiện ở hàng trăm nước trên thế giới.
BHXH nhằm bảo đảm cuộc sống cho những người công nhân công nghiệp và gia
đình họ trước những rủi ro xã hội như ốm đau, tai nạn, mất việc làm,…làm giảm
hoặc mất thu nhập. Tuy nhiên, do tính chất lịch sử và phức tạp của vấn đề, khái niệm
Dương Thị Hằng Lớp: BHXH 48
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp THS. Nguyễn Thị Chính
BHXH cũng chưa được hiểu hoàn toàn thống nhất và cho đến nay, BHXH vẫn là vấn
đề còn nhiều tranh luận.
Theo khái niệm mà ILO đưa ra thì BHXH được hiểu là: “sự tổ chức bảo đảm
bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập
từ nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không
được sử dụng, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng
góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác, nhằm góp phần
đảm bảo an toàn kinh tế cho NLĐ và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an
toàn xã hội”.
Theo Luật BHXH của nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thì
“BHXH là sự đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm
hoặc bị mất thu nhập do ốm đau, thai sản. tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất
nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH”.
Từ các giác độ khác cũng có những khái niệm khác nhau về BHXH, như:

nhập từ nghề nghiệp, như: NLĐ cùng giúp đỡ nhau, Nhà nước thực hiện thông qua
ngân sách và hình thành một quỹ tài chính độc lập, tập trung thông qua sự đóng góp
của các bên tham gia.
1.1.2.2. Bản chất của BHXH:
- BHXH là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hoá. Khi trình độ phát triển
của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống BHXH có điều kiện ra đời
và phát triển. Vì vậy, có thể cho rằng sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự
phát triển của một nền kinh tế: một nền kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân
thấp kém không thể có một hệ thống BHXH vững mạnh được. Kinh tế càng phát
triển, hệ thống BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình
thức BHXH ngày càng phong phú hơn.
- Mối quan hệ bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn
ra giữa ba bên: bên tham gia BHXH – bên BHXH – bên được BHXH. Bên tham gia
BHXH là bên có trách nhiệm đóng góp BHXH theo quy định của pháp luật, gồm:
NLĐ, hoặc NSDLĐ hoặc cả NLĐ và NSDLĐ. NLĐ tham gia BHXH để bảo hiểm
cho chính mình trên cơ sở san sẻ rủi ro của số đông NLĐ; NSDLĐ có trách nhiệm
đóng góp BHXH cho NLĐ mà mình thuê mướn. Bên BHXH là bên nhận tiền đóng
Dương Thị Hằng Lớp: BHXH 48
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp THS. Nguyễn Thị Chính
góp BHXH của các bên tham gia. Bên BHXH thường là một cơ quan chuyên trách do
Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là bên nhận các loại trợ cấp khi phát
sinh những nhu cầu BHXH, để bù đắp thiếu hụt về thu nhập do các loại sự kiện, rủi
ro được bảo hiểm gây ra. Bên được BHXH là: NLĐ và gia đình họ.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong
BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nghiên trái với chủ quan của con người như: ốm
đau, tai nạn, bệnh nghề nghiệp,... hoặc có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn
toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản,..Các rủi ro đó có thể xảy ra cả trong hoặc
ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập bị giảm hoặc mất đi của NLĐ khi gặp phải rủi ro sẽ được thay

Mức trợ cấp này không phải là hoàn toàn mức thu nhập mà NLĐ đã mất hay bị giảm
đi những nhưng nó đã phần nào cung cấp cho NLĐ một khoản tiền nhất định để trang
trải những nhu cầu thiết yếu cho bản thân và gia đình. Chính do sự thay thế và bù đắp
một phần thu nhập này của BHXH đã giúp NLĐ cảm thấy yêu nghề, yêu công việc
của mình hơn; là sợi dây ràng buộc giúp họ hăng say lao động sản xuất hơn, gắn hết
NSDLĐ và NLĐ lại gần nhau hơn, từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động, tăng
sản phẩm xã hội và tăng chất lượng cuộc sống của chính NLĐ.
-Đối với Người sử dụng lao động:
Thực tế trong quá trình lao động sản xuất, giữa NLĐ và NSDLĐ luôn xảy ra
những xung đột nhất định về tiền lương, tiền công, thời gian lao động…và khi những
rủi ro xảy ra, nếu có không có sự trợ giúp của BHXH thì dễ dẫn đến những xung đột
và tranh chấp giữa hai giới chủ - thợ. Vì vậy, BHXH góp phần điều hoà, hạn chế
những mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ, tạo ra môi trường làm việc ổn định cho
NLĐ và tạo sự ổn định trong công tác quản lý cho NSDLĐ. Từ đó nâng cao khả năng
sản xuất của doanh nghiệp.
Hơn nữa NSDLĐ muốn ổn định phát triển sản xuất kinh doanh chẳng những
phải đầu tư vào máy móc, trang thết bị,…mà còn phải chăm lo đến đời sống của
NLĐ mà họ thuê mướn. Nhưng trong cuộc sống, luôn tiềm ẩn những rủi ro có thể xảy
ra bất cứ lúc nào đối với NLĐ, và khi đó NSDLĐ sẽ không có người làm thuê cho
mình, do đó quá trình sản xuất, kinh doanh sẽ bị gián đoạn rồi dẫn đến năng suất
giảm và cuối cùng là giảm thu nhập của NSDLĐ. Nhưng khi có sự tham gia của
Dương Thị Hằng Lớp: BHXH 48
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp THS. Nguyễn Thị Chính
BHXH, có sự trợ giúp về mặt tài chính thì NLĐ nhanh chóng được phục hồi những
thiệt hại xảy ra, nhanh chóng quay lại với công việc, góp phần nâng cao hiệu quả sản
xuất, kinh doanh.
-Đối với Nhà nước:
+ BHXH là một bộ phận quan trọng giúp Ngân sách Nhà nước giảm chi đến
mức tối thiểu nhưng vẫn giải quyết được khó khăn trong cuộc sống của NLĐ và gia

-Nhà nước và NSDLĐ có trách nhiệm phải BHXH đối với NLĐ, NLĐ cũng
phải có trách nhiệm phải tự BHXH cho mình.
Đây là mối quan hệ ba bên trong nền kinh tế thị trường, trong đó, Nhà nước có
vai trò quản lý vĩ mô mọi hoạt động kinh tế - xã hội trên phạm vi cả nước. Với vai trò
này, Nhà nước có trong tay mọi điều kiện vật chất của toàn xã hội, đồng thời cũng có
mọi công cụ để thực hiện vai trò của mình. Cùng với sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế, cũng có những kết quả bất lợi xảy ra, những kết quả bất lợi này trực tiếp hoặc
gián tiếp sẽ tạo ra những rủi ro cho NLĐ. Khi xảy ra những tình trạng như vậy, nếu
không có BHXH thì Nhà nước phải chi Ngân sách để giúp đỡ NLĐ dưới những hình
thức khác. Nhưng khi có sự tham gia của BHXH, Nhà nước chỉ phài chi một khoản
tiền nhỏ nhưng vẫn đảm bảo được cuộc sống cho NLĐ.
Đối với NSDLĐ, mọi khía cạnh đặt ra cũng tương tự như trên nhưng chỉ trong
phạm vi một số doanh nghiệp, ở đó NLĐ và NSDLĐ có một mối quan hệ chặt chẽ.
BHXH sẽ giúp cho NLĐ có một cuộc sống ổn định hơn và NSDLĐ có kết quả sản
xuất kinh doanh tốt nhất.
Đối với NLĐ, khi gặp phải những rủi ro không mong muốn và không hoàn
toàn hay trực tiếp do lỗi của người khác thì trước hết là do lỗi của bản thân. Vì thế,
nếu muốn được BHXH tức là muốn được nhiều người hỗ trợ cho mình, là dàn trải rủi
ro của mình cho nhiều người khác thì tự mình phải gánh chịu trực tiếp và trước hết
đã. Điều đó có nghĩa là bản thân NLĐ phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo
hiểm cho mình.
-BHXH phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia để hình thành Quỹ
BHXH độc lập và tập trung.
Biểu hiện cụ thể của trách nhiệm của các bên tham gia vào BHXH đó là việc
đóng phí BHXH. Nhờ có sự đóng góp mà phương thức riêng có của BHXH là dàn
Dương Thị Hằng Lớp: BHXH 48
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp THS. Nguyễn Thị Chính
trải rủi ro theo nhiều chiều, tạo điều kiện để phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc
và chiều ngang. Hơn nữa, nó còn tạo ra mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ giữa trách

định hoặc không làm việc mà trước đó có tham gia BHXH thì chỉ có trợ cấp BHXH
và trợ cấp đó không thể bằng hoặc cao hơn tiền lương do lao động tạo ra được. Còn
nếu cố tình trả trợ cấp bằng hoặc cao hơn tiền lương thì không một NLĐ nào phải cố
gắng có việc làm và tích cực làm việc để có lương mà ngược lại họ sẽ cố gắng ốm
đau, thai sản,… để nhận được trợ cấp. Như vậy mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn
mức tiền lương lúc đang đi làm, tuy nhiên, do mục đích, bản chất và cách làm của
BHXH thì mức trợ cấp thấp nhất cũng phải đảm bảo cuộc sống hàng ngày.
-Kết hợp giữa bắt buộc và tự nguyện.
Cho đến nay, ở nước ta việc tham gia BHXH vẫn chưa trở thành tập quán, hơn
nữa trong BHXH lợi ích của các bên tham gia và lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài
của NLĐ vẫn có những mâu thuẫn. Bởi vậy, cần có sự kết hợp giữa bắt buộc với tự
nguyện trong việc tham gia BHXH. Sự bắt buộc nên thực hiện đối với các bên tham
gia ở khu vực có quan hệ lao động và mức thu nhập cơ bản. Đối với những người có
nhu cầu BHXH ở mức cao hoặc với những NLĐ độc lập thì nên để họ tham gia tư
nguỵện.
-Phải bảo đảm tính thống nhất BHXH trên phạm vi cả nước, đồng thời phải
phát huy tính đa dạng, năng động của các bộ phận cấu thành.
Để BHXH hoạt động có hiệu quả, nhất thiết phải đảm bảo tính thống nhất trên
những vấn đề lớn hoặc cơ bản nhất để tránh sự tuỳ tiện, tính cục bộ hoặc những mâu
thuẫn nảy sinh. Đồng thời, cũng phải có cơ chế để mỗi bộ phận cấu thành có thể năng
động trong hoạt động để có thể bù đắp, bổ sung những ưu điểm lẫn nhau.
-BHXH phải được phát trển dần từng bước phù hợp với các điều kiện kinh tế -
xã hội của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể.
1.1.3.2. Những quan điểm cơ bản về BHXH:
- Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là một bộ phận quan trọng
nhất trong chính sách ASXH.
Mục đích chính của chính sách này là đảm bảo cuộc sống cho NLĐ và gia
đình họ khi NLĐ bị giảm hoặc mất thu nhập khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động.
Ở nước ta, chính sách BHXH nằm trong hệ thống chính sách xã hội của Đảng và Nhà
Dương Thị Hằng Lớp: BHXH 48

chính sách BHXH.
Dương Thị Hằng Lớp: BHXH 48
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp THS. Nguyễn Thị Chính
Bởi vì, BHXH là một bộ phận cấu thành của chính sách xã hội, nó vừa là nhân
tố ổn định, vừa là động lực phát triển kinh tế xã hội, cho nên vai trò của Nhà nước rất
quan trọng. Thực tế đã chỉ rõ, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước, nếu không có
sự quản lý vĩ mô của Nhà nước thì mối quan hệ giữa NLĐ và NSDLĐ sẽ không được
duy trì bền vững, mối quan hệ ba bên trong BHXH sẽ bị phá vỡ.
Hơn nữa, BHXH được thực hiện thông qua một quy trình, từ việc hoạch định
chính sách, đảm bảo vật chất đến xét trợ cấp …vì vậy, Nhà nước cần phải quản lý
quy trình này hay có những giới hạn về mức độ và phạm vi.
Để quản lý BHXH, Nhà nước sử dụng các công cụ như: pháp luật, bộ máy tổ
chức. Nhưng nhìn chung, việc quản lý BHXH ở các nước nều được giao cho một cơ
quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ.
1.1.4. Quỹ Bảo hiểm xã hội:
1.1.4.1. Khái niệm và đặc điểm của quỹ BHXH:
- Khái niệm Quỹ BHXH:
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách nhà
nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập Quỹ BHXH là dùng để chi
trả cho NLĐ, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của
Quỹ BHXH chính là những người tham gia đóng góp để hình thành nên quỹ, do đó
có thể bao gồm cả: NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước.
- Quỹ BHXH có đặc điểm sau đây:
+ Quỹ BHXH là nguồn quỹ dài hạn cho nên nếu được đầu tư có hiệu quả thì
suất sinh lợi sẽ rất lớn.
+ Quỹ BHXH là hạt nhân của tài chính BHXH. Bởi vậy, việc sử dụng và quản
lý nguồn quỹ này có những đặc thù riêng so với các nguồn quỹ khác trong nền kinh tế
xã hội.
+ Quỹ BHXH nằm trong khâu tài chính trung gian của một hệ thống tài chính

trên, nhưng Quỹ BHXH đã được phân chia thành các quỹ thành phần: Quỹ BHXH
bắt buộc, Quỹ BHXH tự nguyện và Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp. Nguồn hình thành
Quỹ vẫn dựa trên cơ sở đóng góp của NLĐ, NSDLĐ, hỗ trợ của Nhà nước, và nguồn
thu khác, song có một số điểm mới về quy định mức đóng, như sau:
Dương Thị Hằng Lớp: BHXH 48
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp THS. Nguyễn Thị Chính
+ Đối với NLĐ: Những người làm việc theo hợp đồng lao động không xác
định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên; cán bộ, công
chức, viên chức; công nhân quốc phòng, công nhân công an; sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như
đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân đóng 5% tiền lương tháng vào quỹ hưu
trí và tử tuất, từ năm 2010 trở đi cứ hai năm 1lần đóng thêm 1% cho đến khi đủ 8%.
Như vậy, từ năm 2007 đến năm hết năm 2009 mức đóng là 5%, từ năm 2010 đến hết năm
2011 mức đóng là 6%, từ năm 2012 đến hết năm 2013 mức đóng là 7% và từ 2014 trở đi
mức đóng là 8%.
+ Đối với NSDLĐ: hàng tháng đóng góp 3% vào Quỹ ốm đau, thai sản; 1% vào
Quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghệp; 11% vào Quỹ hưu trí và tử tuất, từ năm 2010 trở đi,
cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức 14%. Như vậy, mức đóng của
NSDLĐ tăng thêm 3% đến năm 2014 đạt mức 18% quỹ tiền lương, tiền công hàng tháng
đóng BHXH của người lao động. Đối với NLĐ sử dụng lao động là hạ sĩ quan, binh sĩ quân
đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn thì phải đóng theo
mức 16% nhưng từ năm 2010 trở đi hai năm một lần đóng thêm 2% cho đến khi đạt 22%.
1.1.4.3. Mục đích sử dụng Quỹ BHXH:
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các mục đích sau đây:
- Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH;
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH;
- Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
Trong 3 nội dung chi nêu trên thì chi trả trợ cấp BHXH theo các chế độ là lớn

- Chế độ trợ cấp khi tàn phế
- Chế độ trợ cấp cho người còn sống.
Chín chế độ trên đã hình thành nên hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ theo điều kiện
của mỗi nước mà có sự áp dụng khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 trong 9 chế
độ trên, trong đó phải có ít nhất 1 trong 5 chế độ là: chế độ trợ cấp thất nghiệp; chế độ trợ
cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghệp; chế độ trợ cấp tuổi già; chế độ trợ cấp khi tàn phế
và chế độ trợ cấp cho người còn sống.
Ở Việt Nam hiện nay, theo Luật BHXH thì có 5 chế độ BHXH được áp dụng, đó là:
Dương Thị Hằng Lớp: BHXH 48
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp THS. Nguyễn Thị Chính
- Chế độ ốm đau
- Chế độ thai sản
- Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Chế độ hưu trí
- Chế độ tử tuất
Bên cạnh đó, là sự cho ra đời của Bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2009 là một loại hình Bảo hiểm mới hoàn toàn, bao gồm 3 chế độ sau đây:
- Trợ cấp thất nghiệp
- Hỗ trợ học nghề
- Hỗ trợ tìm việc làm
1.2. CÔNG TÁC THU BẢO HIỂM XÃ HỘI:
1.2.1. Vai trò của công tác thu Bảo hiểm xã hội:
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính tập trung, độc lập nằm ngoài Ngân sách Nhà nước,
dùng để chi trả trợ cấp các chế độ và đảm bảo họat động cho hệ thống BHXH. Vì thế công
tác thu BHXH ngày càng trở thành một khâu quan trọng, quyết định đến sự tồn tại và phát
triển của việc thực hiện chính sách BHXH.
- Công tác thu BHXH là hoạt động thường xuyên, đa dạng của ngành BHXH nhằm
đảm bảo nguồn quỹ tài chính BHXH đạt được tập trung thống nhất.
- Thu đóng BHXH là hoạt động của các cơ quan BHXH từ Trung ương đến địa

BHXH mang tính định hướng, nhưng các văn bản hướng dẫn thi hành lại là cụ thể
hóa của chính sách BHXH của mỗi quốc gia. Sau khi ban hành các văn bản pháp quy
thì các cấp ngành có liên quan phải thực hiện các điều khoản được ghi trên văn bản
này.
-Dưạ vào thực tế:
Việc ban hành chính sách BHXH cũng như các văn bản pháp quy khác không
thể thiếu được việc dựa vào thực tế để ban hành cho phù hợp với điều kiện kinh tế -
xã hội – chính trị của từng quốc gia. Mỗi quốc gia đều xác định BHXH là xương
sống của hệ thống ASXH của quốc gia. Việc ban hành chính sách BHXH phải dựa
trên thu nhập của NLĐ, mức sống, tuổi thọ, điều kiện làm việc.
1.2.2.2. Nguyên tắc thu BHXH:
Dương Thị Hằng Lớp: BHXH 48
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp THS. Nguyễn Thị Chính
Căn cứ vào pháp luật và các văn bản dưới luật thì thu BHXH phải đảm bảo
nguyên tắc là đúng đối tượng và đúng mức thu, đồng thời phải đảm bảo tính công
bằng giữa các đơn vị tham gia BHXH. Muốn thu đúng, thu đủ phải đảm bảo các
nguyên tắc sau đây:
- Các cơ quan, doanh nghiệp đóng BHXH phải dựa trên quỹ lương. Quỹ lương
này bao gồm toàn bộ phần lương cứng và phụ cấp vào lương, đồng thời quỹ lương
này phải chi trả cho tất cả các đối tượng tham gia BHXH.
- Quyết toán thu thường được thực hiện vào cuối quý, cuối năm, nhưng trong
năm đó số người tham gia và số đơn vị tham gia BHXH luôn biến động, vì vậy việc
quyết toán BHXH phải căn cứ vào số liệu thực tế phát sinh chứ không phải là dựa vào
mức bình quân.
- Công tác thu BHXH phải được thực hiện trực tiếp, hạn chế tối đa các khoản
thu để hưởng hoa hồng.
- Về nguyên tắc cơ quan BHXH thực hiện quyết toán theo từng tháng, từng
quý, từng năm, nhưng đến cuối năm quyết toán, tất cả các số thu BHXH phải ăn khớp
với nhau và phải thực sự cân đối: giữa NLĐ, NSDLĐ, loại hình doanh nghiệp, loại

mất cân đối quỹ, do số người tham gia đóng góp Quỹ BHXH ngày càng giảm trong
đó những người hưởng BHXH lại tăng lên, đặc biệt là chế độ hưu trí.
-Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người:
Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế phản ánh tình trạng tiêu dùng, tiết kiệm,
đầu tư của một quốc gia; nên nếu một quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định
thì đời sống của người dân cũng dần cao lên, tình hình sản xuất kinh doanh của nhiều
doanh nghiệp cũng gặp nhiều thuận lợi, vì thế khả năng NSDLĐ tham gia BHXH cho
NLĐ của mình cũng tăng lên. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền
vững phản ánh có nhiều NLĐ có thu nhập cao thông qua quá trình lao động, đây là
điều kiện để NLĐ tham gia BHXH. Tất cả những yếu tố trên tác động tích cực làm
tăng thu BHXH.
-Mức độ chi trả các chế độ:
Mức độ chi trả các chế độ phụ thuộc vào: số lượng chế độ được áp dụng, số
lượng người hưởng chế độ BHXH, tỷ lệ hưởng BHXH. ILO khuyến nghị các quốc
gia tham gia phê chẩn Công ước 102 về BHXH phải áp dụng 3 trong 9 chế độ BHXH,
Dương Thị Hằng Lớp: BHXH 48
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp THS. Nguyễn Thị Chính
trong đó phải áp dụng ít nhất 1 trong các chế độ: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già,
trợ cấp tai nạn lao động, trợ cấp tàn tật, trợ cấp người nuôi dưỡng. Nếu một quốc gia
triển khai và áp dụng nhiều chế độ thì số thu BHXH ngày càng lớn. Tỷ lệ hưởng càng
cao có nghĩa là số tiền chi trả các chế độ càng lớn, đòi hỏi thu BHXH ngày càng cao
hơn để tránh tình trạng mất cân đối quỹ BHXH.
1.2.4. Nội dung cơ bản của công tác thu BHXH:
1.2.4.1. Nguồn thu BHXH:
Thông thường quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn thu sau đây:
-Thu từ đóng góp của những người tham gia BHXH. Đây là nguồn thu chủ yếu
và quan trọng nhất trong Quỹ BHXH của bất kỳ một quốc gia nào, nó là cơ sở chủ
yếu để hình thành nên Quỹ BHXH, tạo ta nguồn tài chính để thực hiện các chế độ
BHXH, nhưng quá trình quản lý đóng góp của những người tham gia BHXH cũng

đến từng cá nhân tham gia BHXH. Việc phân cấp, phân công cụ thể công tác quản lý
sẽ làm cho việc thu BHXH được dễ dàng, thu triệt để, tránh hiện tượng thu thiếu, bỏ
qua không thu,…
Ở Việt Nam,theo quy định tại Quyết định 902/QĐ – BHXH ngày 26/06/2007
của BHXH Việt Nam việc thực hiện phân cấp thu BHXH được thực hiện như sau:
-Cơ quan BHXH quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi chung là
BHXH huyện): Tổ chức, hướng dẫn thực hiện thu BHXH, BHYT; cấp sổ BHXH, cấp
thể BHYT đối với NSDLĐ, NLĐ theo phân cấp quản lý.
Nhiệm vụ thu BHXH ở BHXH cấp huyện do Giám đốc trực tiếp giao cho từng
cán bộ, công chức sao cho thuận lợi trong việc thu đóng BHXH. BHXH huyện phải
thực hiện việc báo cáo tình hình thu BHXH: báo cáo tháng trước ngày 22 hàng tháng;
báo cáo quý trước ngày 20 đầu quý sau; báo cáo năm trước ngày 25/01 năm sau.
-Cơ quan BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là BHXH
tỉnh):
+ Căn cứ tình hình thực tế của địa phương để thực hiện việc phân cấp quản lý
thu BHXH, BHYT cho phù hợp với chức năng và nhiệm vụ.
+ Xây dựng, quản lý dữ liệu liên quan đến NLĐ tham gia BHXH, BHYT trên
địa bàn tỉnh.
Dương Thị Hằng Lớp: BHXH 48
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp THS. Nguyễn Thị Chính
+ Xây dựng kế hoạch và hướng dẫn, kiểm tra tình hình thực hiện công tác thu
BHXH, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT theo phân cấp quản lý và quyết toán số tiền thu
BHXH, BHYT với BHXH huyện theo định kỳ quý, 6 tháng, năm và lập “Biên bản
thẩm định số liệu thu BHXH, BHYT bắt buộc” (Mẫu 12-TBH).
BHXH tỉnh phải thực hiện thực hiện việc báo cáo thông tin: báo cáo tháng
trước 25 hàng tháng; báo cáo quý trước ngày cuối tháng đầu quý sau; báo cáo năm
trước ngày 15/02 năm sau.
-Cơ quan BHXH Việt Nam: chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra tình hình thực
hiện công tác quản lý thu BHXH, cấp sổ BHXH, cấp thẻ BHYT trong toàn ngành


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status