theo dõi tác dụng không mong muốn của thuốc tmslh trong điều trị bệnh nhân nhồi máu não sau giai đoạn cấp - Pdf 23

1
bộ giáo dục và đào tạo
bộ y tế
Trờng đại học y hà nội
NgÔ QuỳNH HOA
Nghiên cứu TíNH AN TOàN Và TáC
DụNG CủA
THÔNG MạCH SƠ LạC HOàN
TRONG ĐIềU TRị nhồi máu não
sau giai đoạn cấp
Chuyên ngành: Y học cổ truyền
Mã số: 62.72.02.01
Tóm tắt Luận án tiến sĩ y học
2

Hµ Néi 2013–
3
Công trình đợc hoàn thành tại
Trờng đại học y hà nội
Ngời hớng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Đỗ THị PHƯƠNG
2. PGS. TS. NGUYễN TRầN THị GIáNG HƯƠNG
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án đợc bảo vệ trớc Hội đồng chấm luận án cấp Trờng tại
Trờng Đại học Y Hà Nội.
Vào hồi ngày tháng năm
4
Cã thÓ t×m hiÓu luËn ¸n t¹i:
- Th viÖn Quèc gia.

Để nâng cao hiệu quả trong điều trị và dự phòng cho bệnh nhân nhồi máu não sau
giai đoạn cấp, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu tính an toàn và tác dụng của
thuốc “Thông mạch sơ lạc hoàn” trong điều trị nhồi máu não sau giai đoạn cấp” với
các mục tiêu:
1- Nghiên cứu tính an toàn và tác dụng trên tim mạch của thuốc “Thông mạch sơ
lạc hoàn” (TMSLH) trên động vật thực nghiệm.
2- Đánh giá tác dụng điều trị của thuốc TMSLH kết hợp xoa bóp bấm huyệt trên
bệnh nhân nhồi máu não sau giai đoạn cấp.
3- Theo dõi tác dụng không mong muốn của thuốc TMSLH trong điều trị bệnh
nhân nhồi máu não sau giai đoạn cấp.
Ý NGHĨA THỰC TIỄN VÀ ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Những tiến bộ của y học trong thời gian gần đây đã có nhiều đóng góp trong
điều trị dự phòng và phục hồi chức năng cho bệnh nhân TBMN. Nhiều phương thức
trị liệu của y học cổ truyền (YHCT) đã được nghiên cứu (NC) và áp dụng, trong đó
có các thuốc có nguồn gốc từ thảo mộc. Chế phẩm TMSLH được bào chế dưới dạng
viên hoàn, có xuất xứ từ bài thuốc “Thông mạch sơ lạc phương” là một bài thuốc tân
phương đã được NC và ứng dụng trong hồi phục chức năng vận động sau NMN ở
Trung Quốc. Dựa trên cơ sở NC y lý YHCT, các kết quả NC tác dụng của những vị
thuốc theo dược lý học hiện đại và kinh nghiệm trên lâm sàng, các nhà YHCT Việt
Nam đã có điều chỉnh, gia thêm một số vị thuốc trong bài thuốc và chuyển dạng bào
chế cho phù hợp và tiện sử dụng trong điều kiện thực tiễn Việt Nam. Việc xác định
tính an toàn và hiệu quả của chế phẩm thuốc TMSLH trên thực nghiệm và lâm sàng
bằng các phương pháp NC khoa học của y học hiện đại chính là ý nghĩa thực tiễn và
đóng góp mới của Luận án.
7
Cấu trúc của Luận án:
Ngoài phần đặt vấn đề và kết luận, Luận án có 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tài liệu 34 trang
Chương 2. Chất liệu, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 20 trang
Chương 3. Kết quả nghiên cứu 41 trang

hỏa, tâm hỏa), đàm (phong đàm, thấp đàm, nhiệt đàm), huyết (huyết hư, huyết ứ), khí
(khí hư, khí trệ, khí nghịch) và hư (tỳ hư, can thận hư, âm hư).
Cơ chế bệnh sinh: Từ đời Đường, Tống (618 - 1279) về trước, coi trọng phương diện
ngoại nhân. Từ đời Kim Nguyên (1280 - 1368) về sau, nguyên nhân chủ yếu là do nội
phong như Lưu Hà Gian chủ về hoả thịnh, Lý Đông Viên chủ về khí hư, Chu Đan Khê
chủ về đàm nhiệt, Diệp Thiên Sỹ cho rằng chủ yếu do can dương cang thịnh.
Điều trị: Trong giai đoạn hồi phục, các chứng thường do khí hư huyết ứ hoặc đàm
thấp nên phương pháp chữa là ích khí, hóa đàm, hành khí hoạt huyết, thông kinh lạc
làm lưu thông khí huyết, cân cơ được nuôi dưỡng đầy đủ nên phần cơ thể bị bệnh sẽ
dần hồi phục.
1.3. XUẤT XỨ BÀI THUỐC THÔNG MẠCH SƠ LẠC HOÀN
Thuốc TMSLH có xuất xứ từ bài thuốc Thông mạch sơ lạc phương.
* Bài thuốc “Thông mạch sơ lạc phương” có thành phần gồm chích hoàng kỳ 30g,
xuyên khung 10g, địa long 15g, ngưu tất 15g, đan sâm 30g, quế chi 06g, sơn tra 30g;
dùng dạng thang sắc; tác dụng ích khí hoạt huyết thông lạc. Bài thuốc đã được Học
viện Trung Y Thiểm Tây (Trung Quốc) sử dụng trong điều trị NMN sau giai đoạn
cấp cho kết quả phục hồi chức năng vận động khá tốt. Năm 2008 và 2009, bài thuốc
được Khoa YHCT Bệnh viện Đa khoa Xanh - Pôn áp dụng điều trị cho 50 BN cho
kết quả tương tự. Tuy nhiên trong quá trình ứng dụng trên thực tiễn lâm sàng bài
thuốc cũng bộc lộ một số bất cập như: thuốc có tác dụng phụ gây rối loạn tiêu hóa
trên một số trường hợp BN có cơ địa thiên hàn (có thể do trong thành phần bài thuốc
có địa long tính lạnh gây nên), thuốc chủ yếu có tác dụng phục hồi chức năng vận
động mà chưa có tác dụng cải thiện về huyết áp và rối loạn chuyển hóa lipid máu –
là 2 yếu tố nguy cơ thường gặp trong NMN, thuốc dùng ở dạng thang sắc nên không
thuận tiện sử dụng trong điều kiện Việt Nam. Do đó, các nhà YHCT Việt Nam đã
điều chỉnh (thay thế và gia thêm một số vị thuốc trong thành phần bài thuốc), cải
dạng bào chế thành viên hoàn mềm và lấy tên là “Thông mạch sơ lạc hoàn”.
* Chế phẩm thuốc “Thông mạch sơ lạc hoàn”: Công thức (trong một viên hoàn
10g): Sinh kỳ 5,0g; Đan sâm 5,0g; Địa long 1,67g; Xuyên khung 1,67g; Ngưu tất
2,50g; Sơn tra 3,33g; Trần bì 1,67g; Uất kim 2,50g; Câu đằng 2,50g; Phục linh 2,50g.

* Tiêu chuẩn chẩn đoán theo y học hiện đại
Lâm sàng: BN được chẩn đoán xác định là NMN sau giai đoạn cấp từ 15 ngày đến
6 tháng, còn liệt nửa người các mức độ khác nhau, liệt thần kinh VII, thất ngôn, rối
loạn cơ tròn Tỉnh táo, nghe và hiểu lời nói. Đánh giá mức độ liệt: chọn BN có di
chứng từ độ 2 đến độ 4 theo độ liệt Rankin, có chỉ số Barthel từ 0 đến 75 điểm (độ II
đến độ IV), có từ 0 đến 89 điểm (độ II đến độ IV) theo thang điểm Orgogozo. Huyết
áp tâm thu (HAtt) dưới 160 mmHg và huyết áp tâm trương (HAttr) dưới 100 mmHg.
Có hoặc không có rối loạn lipid máu.
Cận lâm sàng: các xét nghiệm (huyết học, hóa sinh). Phim chụp cắt lớp vi
tính sọ não có ổ giảm tỷ trọng.
* Tiêu chuẩn chọn BN theo y học cổ truyền: BN được tuyển chọn theo
tiêu chuẩn YHHĐ, sau đó tiếp tục được phân loại theo YHCT:
10
Chẩn đoán thể bệnh YHCT theo thể trúng phong kinh lạc (TPKL): lúc phát
bệnh ở giai đoạn cấp không có hôn mê. Trúng phong tạng phủ (TPTP): lúc phát bệnh
ở giai đoạn cấp có hôn mê.
Chẩn đoán thể bệnh YHCT theo thể hàn: Chất lưỡi nhợt, rêu trắng, tiếng nói
nhỏ, đại tiện nát hoặc lỏng, nước tiểu trong. chân tay lạnh, mạch trầm trì hoặc trầm
hoãn. Thể nhiệt: Chất lưỡi đỏ, rêu vàng, tiếng nói to, đại tiện táo, nước tiểu vàng,
chân tay ấm, mạch trầm sác hoặc trầm huyền hoạt.
* Không nhận những BN: liệt nửa người không phải do NMN, có bệnh lý ở
tim. NMN tái phát lần hai trở đi. HAtt bằng hoặc trên 160 mmHg, HAttr bằng hoặc
trên 100mmHg. Dị ứng thuốc NC, bệnh lý về máu, sau mổ, sau đẻ, phụ nữ có thai
* Tiêu chuẩn loại khỏi diện tổng kết nghiên cứu: BN không tuân thủ yêu cầu
NC: uống thuốc không đủ liều, bỏ thuốc trong vòng 3 ngày liên tục, không làm đủ
các xét nghiệm theo yêu cầu NC, BN tăng huyết áp phải dùng tiếp thuốc hạ áp lần 2
sau 5 ngày đầu điều trị theo quy trình.
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Nghiên cứu trên thực nghiệm:
* Nghiên cứu độc tính cấp: độc tính cấp được thử trên 100 con chuột nhắt

(về mức độ tổn thương, tuổi, giới), sau đó tiếp tục bốc thăm chia vào 2
nhóm NC và nhóm ĐC.
* Phác đồ điều trị:
- Nhóm ĐC: gồm 45 BN được điều trị thuốc giả dược, viên 10g x 6 viên/ngày
chia 2 lần (sáng, chiều) sau ăn 30 phút, với liệu trình điều trị 30 ngày.
- Nhóm NC: gồm 45 BN dùng chế phẩm TMSLH, viên 10g x 6 viên/ngày chia
2 lần (sáng, chiều) sau ăn 30 phút, liên tục trong 30 ngày.
Phác đồ điều trị nền áp dụng cho cả 2 nhóm:
- Các BN có THA giai đoạn 1 theo JNC-VI được dùng thuốc Natrilix SR
1,5mg x 1 viên/ngày vào 8 giờ sáng trong 5 ngày đầu tham gia NC.
- Tất cả các BN trên đều được xoa bóp bấm huyệt (XBBH) để phục hồi chức
năng (mỗi lần 45 phút) và cải thiện huyết áp (mỗi lần 15 phút) 3 lần/tuần, cách ngày
một lần .
- Tất cả các BN trên đều được hướng dẫn chế độ ăn uống, sinh hoạt.
* Tiêu chuẩn đánh giá kết quả, so sánh trước - sau điều trị và so với nhóm đối chứng
- Đánh giá kết quả theo YHHĐ: huyết áp, liệt thần kinh VII, chức năng ngôn
ngữ, đánh giá phục hồi theo thang điểm Rankin, đánh giá mức độ liệt và sự phục hồi
qua chỉ số Barthel và thang điểm Orgogozo. Các chỉ số huyết học, hóa sinh.
- Đánh giá kết quả điều trị theo YHCT: 2 thể TPKL và TPTP, thể hàn và thể
nhiệt biến đổi theo thang điểm Rankin, Barthel và Orgogozo.
- Tác dụng không mong muốn của thuốc trên lâm sàng: nhức đầu, chóng mặt,
rối loạn tiêu hoá, buồn nôn, nổi mề đay, các triệu chứng không mong muốn khác.
* Phương pháp xử lý số liệu:
Các số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê y – sinh học trên máy vi tính
theo phần mềm SPSS 17.0.
Địa điểm nghiên cứu: Bộ môn Dược lý Trường Đại học Y Hà Nội và Khoa
YHCT Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn.
12
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRÊN THỰC NGHIỆM

* Theo Y học hiện đại
- Các yếu tố nguy cơ: BN rối loạn chuyển hóa lipid máu ở cả 2 nhóm đều chiếm tỷ lệ
cao nhất (93,33%) rồi đến tăng huyết áp (51,11%).
- Vị trí tổn thương ở bán cầu trái cao hơn ở bán cầu phải. Đa số BN có kích thước ổ
tổn thương dưới 1,5cm. Tỷ lệ BN có một ổ tổn thương cao hơn nhiều ổ (p>0,05).
13
- Tỷ lệ BN liệt nửa người phải chiếm tỷ lệ cao ở cả 2 nhóm. Đa số BN có liệt VII trung
ương, rối loạn ngôn ngữ, tăng phản xạ gân xương và rối loạn cảm giác (p>0,05).
- Tỷ lệ BN liệt độ 3 theo Rankin chiếm tỷ lệ cao nhất (nhóm ĐC là 62,22% và nhóm
NC là 77,78%). Phân bố các độ liệt theo Rankin ở 2 nhóm tương đương (p>0,05).
- Tỷ lệ BN có điểm Barthel từ 26 đến 50 điểm (độ III) là 37,78% (nhóm ĐC) và
44,44% (nhóm NC) (p>0,05).
- Tỷ lệ BN có điểm Orgogozo từ 0 đến 49 điểm chiếm tỷ lệ cao nhất (ở nhóm ĐC là
53,33% và nhóm NC là 55,56%) (p>0,05).
* Theo y học cổ truyền:
- Ở cả 2 nhóm tỷ lệ TPKL chiếm tỷ lệ cao hơn TPTP, thể nhiệt cao hơn thể hàn
(p>0,05).
- Thể đàm thấp đơn thuần hoặc kết hợp với can thận âm hư hoặc can dương vượng
chiếm 75,56% ở nhóm ĐC và 84,44% ở nhóm NC (p>0,05).
3.2.2. Kết quả điều trị bằng thuốc TMSLH kết hợp XBBH
3.2.2.1. Cải thiện tình trạng lâm sàng và độ liệt theo Y học hiện đại
Bảng 3.1. So sánh phân loại của thang điểm Rankin theo thời gian điều trị
Độ Rankin Nhóm đối chứng (n = 45) Nhóm nghiên cứu (n = 45)
N
0
N
15
N
30
N

N
0
N
15
N
30
76 - 100
(Độ I)
Số BN 3 10 13 0 0 29
Tỷ lệ % 6,67 22,22 28,89 0 0 64,44
51 - 75
(Độ II)
Số BN 15 18 26 17 34 16
Tỷ lệ % 33,33 40,00 57,78 37,78 75,56 35,56
26 - 50
(Độ III)
Số BN 17 13 5 20 11 0
Tỷ lệ % 37,78 28,89 11,11 44,44 24,44 0
0 - 25
(Độ IV)
Số BN 10 4 1 8 0 0
Tỷ lệ % 22,22 8,89 2,22 17,78 0 0
p < 0,01 < 0,01
Nhận xét: sau điều trị số BN độ I ở nhóm NC (64,44%) cao hơn nhóm ĐC
(28,89%) (p < 0,01).
Biểu đồ 3.2. So sánh giá trị trung bình chỉ số Barthel theo thời gian điều trị
Nhận xét: sau điều trị giá trị trung bình Barthel ở nhóm NC (79,22 ± 10,66) cao hơn
nhóm ĐC (70,11 ± 17,82) (p<0,01).
Biểu đồ 3.3. So sánh kết quả dịch chuyển độ liệt theo chỉ số Barthel
Nhận xét: sau điều trị chuyển được 2 độ ở nhóm NC (51,11%) cao hơn nhóm ĐC

0 - 49
(Độ IV)
Số BN 24 9 2 25 3 0
Tỷ lệ % 53,33 20,00 4,44 55,56 6,67 0
p < 0,01 < 0,01
Nhận xét: sau điều trị độ II ở nhóm ĐC là 42,22% và nhóm NC là 53,33%.
Biểu đồ 3.4. So sánh giá trị trung bình Orgogozo theo thời gian điều trị
Nhận xét: sau điều trị giá trị trung bình Orgogozo ở nhóm NC (74,44 ± 9,84) cao
hơn nhóm ĐC (66,78 ± 12,58). Sự khác biệt trước và sau điều trị có ý nghĩa thống
kê (p<0,01).
Biểu đồ 3.5. So sánh kết quả dịch chuyển độ liệt theo thang điểm Orgogozo
Nhận xét: sau điều trị chuyển được hai độ ở nhóm NC (28,89%) cao hơn nhóm ĐC
(13,33%) (p>0,05).
16
Bảng 3.4. So sánh mức chênh giá trị trung bình của chỉ số Barthel và Orgogozo
theo thời gian điều trị
Nhóm
Mức chênh giá trị trung bình (
X
± SD)
Chỉ số Barthel Thang điểm Orgogozo
Nhóm đối chứng (n = 45)
23,44 ± 12,29 22,89 ± 12,68
Nhóm nghiên cứu (n = 45)
34,22 ± 11,28 33,56 ± 11,36
p < 0,01 < 0,01
Nhận xét: sau điều trị mức chênh giá trị trung bình Barthel ở nhóm NC (34,22 ±
11,28) cao hơn nhóm ĐC (23,44 ± 12,29) (p < 0,01). Mức chênh giá trị trung bình
Orgogozo sau điều trị ở nhóm NC (33,56 ± 11,36) cao hơn nhóm ĐC (22,89 ±
12,68) (p<0,01).

phác đồ NC và thuốc Natrilix SR 1,5mg x 1 viên/ ngày trong 5 ngày đầu
tham gia NC. Sau 5 ngày chỉ số huyết áp của tất cả BN nghiên cứu đều ở
mức bình thường, các BN này được tiếp tục điều trị bằng phác đồ NC.
Trong suốt thời gian còn lại, không có BN nào có THA.
3.2.2.2. Cải thiện tình trạng lâm sàng và độ liệt theo Y học cổ truyền
Bảng 3.6. So sánh kết quả dịch chuyển độ liệt của thang điểm Rankin
theo thể bệnh TPTP và TPKL
Nhóm
Kết quả Rankin theo thể bệnh YHCT p
TPTP TPKL
Số BN Tỷ lệ (%) Số BN Tỷ lệ (%)
Nhóm
đối chứng
Loại A 0 0 2 5,41
> 0,05
Loại B 7 87,50 29 78,38
Loại C 1 12,50 6 16,21
Cộng 8 100 37 100
Nhóm
nghiên cứu
Loại A 3 33,33 8 22,22
> 0,05
Loại B 5 55,56 26 72,22
Loại C 1 11,11 2 5,56
Cộng 9 100 36 100
Nhận xét: sau 30 ngày điều trị nhóm ĐC thể TPKL có 5,41% loại A (giảm
17
hai độ liệt), thể TPTP không có BN loại A (p>0,05). Ở nhóm NC thể TPKL
có 22,22% loại A , thể TPTP có 33,33% loại A (p>0,05).
Bảng 3.7. So sánh kết quả dịch chuyển độ liệt của chỉ số Barthel theo thể TPTP và TPKL

> 0,05
Loại B 4 50,00 28 75,68
Loại C 3 37,50 4 10,81
Cộng 8 100 37 100
Nhóm
nghiên cứu
Loại A 2 22,22 11 30,56
> 0,05
Loại B 6 66,67 23 63,89
Loại C 1 11,11 2 5,55
Cộng 9 100 36 100
Nhận xét: thể TPKL nhóm ĐC có 12,50% loại A (giảm 2 độ) và 75,68% loại B
(giảm 1 độ); nhóm NC có 30,56% loại A và 63,89% loại B.
Bảng 3.9. So sánh kết quả dịch chuyển độ liệt của thang điểm Rankin
theo phân loại hàn, nhiệt của YHCT
Nhóm
Kết quả dịch chuyển độ liệt Rankin
p
Hàn Nhiệt
Số BN Tỷ lệ (%) Số BN Tỷ lệ (%)
Nhóm Loại A 1 7,15 1 3,23
> 0,05
Loại B 9 64,28 27 87,10
Loại C 4 28,57 3 9,67
Cộng 14 100 31 100
Nhóm
nghiên cứu
Loại A 1 6,67 10 33,33
< 0,05
Loại B 11 73,33 20 66,67

Số BN Tỷ lệ (%) Số BN Tỷ lệ (%)
Nhóm Loại A 3 21,43 3 9,68
> 0,05
Loại B 8 57,14 24 77,42
Loại C 3 21,43 4 12,90
Cộng 14 100 31 100
Nhóm
nghiên cứu
Loại A 2 13,33 11 36,67
< 0,05
Loại B 10 66,67 19 63,33
Loại C 3 20,00 0
Cộng 15 100 30 100
Nhận xét: nhóm ĐC loại A (giảm 2 độ) thể hàn có 21,43% và thể nhiệt có 9,68%
(p>0,05). Nhóm NC thể hàn có 13,33% loại A; thể nhiệt có 36,67% loại A (p<0,05).
3.2.3. Kết quả nghiên cứu trên một số chỉ số huyết học và sinh hoá máu
* Các chỉ số huyết học
Bảng 3.12. So sánh giá trị trung bình của hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu
và tỷ lệ hemoglobin trước và sau điều trị
Nhóm Giá trị trung bình của một số chỉ số huyết học (
X
± SD)
Hồng cầu
(T/L)
Hemoglobin
(g/dl)
Bạch cầu
(G/L)
Tiểu cầu
(G/L)

Tỷ số APTT INR Fibrinogen (g/l)
Nhóm
đối chứng
(n = 45)
N
o
1,04 ± 0,08 1,03 ± 0,05 2,35 ± 0,28
N
30
1,03 ± 0,09 1,01 ± 0,08 2,40 ± 0,36
p > 0,05 > 0,05 > 0,05
Nhóm
nghiên cứu
(n = 45)
N
o
1,01 ± 0,11 1,08 ± 0,27 2,54 ± 0,54
N
30
1,06 ± 0,28 1,12 ± 0,33 2,34 ± 0,49
p > 0,05 > 0,05 > 0,05
Nhận xét: sau 30 ngày điều trị, tỷ số APTT, INR và nồng độ fibrinogen của
BN cả 2 nhóm so với trước điều trị thay đổi không đáng kể (p>0,05).
*Các chỉ số sinh hoá
Bảng 3.14. So sánh giá trị trung bình của enzym gan trước và sau điều trị
Nhóm
Giá trị trung bình của enzyme gan (
X
± SD)
AST (U/l-37

Giá trị trung bình của ure, creatinin và glucose máu (
X
± SD)
Ure (mmol/l) Creatinin (μmol/l) Glucose (mmol/l)
Nhóm
đối chứng
(n = 45)
N
o
4,43 ± 1,42 89,17 ± 13,33 5,57 ± 0,39
N
30
4,51 ± 1,39 91,27 ± 10,07 5,65 ± 0,35
p
> 0,05 > 0,05 > 0,05
Nhóm
nghiên cứu
(n = 45)
N
o
4,47 ± 1,32 82,47 ± 14,86 5,26 ± 0,63
N
30
4,57 ± 1,12 84,11 ± 12,90 5,33 ± 0,57
p
> 0,05 > 0,05 > 0,05
Nhận xét: Sau 30 ngày điều trị, hàm lượng ure, creatinin, glucose của BN ở cả 2
nhóm so với trước điều trị thay đổi không đáng kể (p>0,05).
20
Bảng 3.16. So sánh giá trị trung bình thành phần lipid máu

N
30
5,13 ± 0,57 1,85 ± 0,43 2,69 ± 0,45 1,56 ± 0,62
p < 0,01 < 0,01 < 0,01 < 0,01
Nhận xét: sau điều trị, hàm lượng cholesterol, triglycerid, cholesterol LDL ở
nhóm ĐC có xu hướng giảm so với trước điều trị (p>0,05). Ở nhóm NC hàm
lượng cholesterol, triglycerid, cholesterol LDL sau điều trị giảm rõ rệt so với
trước điều trị, cholesterol HDL tăng rõ rệt so với trước điều trị (p<0,01).
Bảng 3.17. So sánh tỷ lệ có rối loạn thành phần lipid máu trước và sau điều trị
Lipid máu
Nhóm đối chứng (n = 45) Nhóm nghiên cứu (n =
45)
p
Số BN Tỷ lệ (%) Số BN Tỷ lệ (%)
Tăng cholesterol
N
o
37 82,22 36 80,00 > 0,05
N
30
35 77,78 20 44,44 < 0,01
Tăng triglycerid
N
o
30 66,67 28 62,22 > 0,05
N
30
34 75,56 24 53,33 < 0,05
Giảm cholesterol
LDL

Nhận xét: nhóm NC có 1 BN xuất hiện đại tiện phân lỏng vào ngày thứ 3,
khám bụng mềm, không sốt, BN được tiếp tục theo dõi và dùng thuốc bình
thường, một ngày sau thì hết đại tiện phân lỏng, như vậy rối loạn tiêu hoá này
không phải do thuốc. Ngoài ra không có triệu chứng ngoài ý muốn nào khác
xuất hiện trong thời gian NC.
21
CHƯƠNG 4
BÀN LUẬN
4.1. TÍNH AN TOÀN CỦA THUỐC “THÔNG MẠCH SƠ LẠC HOÀN”
4.1.1. Tính an toàn của thuốc TMSLH trên thực nghiệm
Kết quả thử độc tính cấp LD
50
trên chuột nhắt trắng với liều tăng dần từ 76g
dược liệu/1kg trọng lượng đến 229g dược liệu/1kg trọng lượng (liều tối đa có thể
uống được). Theo dõi sau 72 giờ và sau 7 ngày uống thuốc không thấy dấu hiệu ngộ
độc nào ở chuột. Do vậy, không xác định được liều chết LD
50
của thuốc.
Nghiên cứu độc tính bán trường diễn trên thỏ thực nghiệm. Nghiên cứu tiến
hành trên 2 lô: Lô trị 1 cho thỏ uống liều 13,61g/kg/ngày (tương đương với liều dùng
cho người), lô trị 2 cho thỏ uống liều cao gấp 3 lần (40,82g/kg/ngày) liên tục trong 4
tuần và tiếp tục theo dõi sau ngừng thuốc 2 tuần. Kết quả NC cho thấy, sự khác biệt
của tình trạng chung, chức năng tạo máu (số lượng hồng cầu, số lượng bạch cầu,
công thức bạch cầu, số lượng tiểu cầu, huyết sắc tố, hematocrit), chức năng gan
(AST, ALT), chức năng tiết mật (Bilirubin), chức năng chuyển hóa protit (Protit)
không có ý nghĩa thống kê tại các thời điểm theo dõi giữa 2 lô trị và so với lô chứng
(p>0,05); kết quả đại thể (tim, phổi, gan, lách, thận và hệ thống tiêu hóa) và vi thể gan,
thận thỏ thực nghiệm sau 4 tuần uống thuốc và 2 tuần ngừng thuốc vẫn bình thường.
4.1.2. Tính an toàn của TMSLH trên lâm sàng
Trên lâm sàng, trong 45 BN nghiên cứu, có 1 BN bị tiêu chảy nhẹ vào ngày

cứu chỉ trong phạm vi hẹp nên có sự khác biệt này. Tuy nhiên để khẳng định điều
này cần thiết phải điều tra trên cỡ mẫu lớn hơn. Tỷ lệ BN được điều trị sớm trong
vòng 3 ngày kể từ khi mắc bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất và tương đương ở 2 nhóm
(66,67% ở nhóm ĐC và 60,00% ở nhóm NC). Đa số BN có tiền sử rối loạn lipid
máu (ở cả 2 nhóm là 93,33%) và tăng huyết áp (ở cả 2 nhóm là 51,11% ). Theo Lê
Văn Thính tỷ lệ tăng huyết áp ở bệnh nhân NMN là 48,3%; theo Hoàng Khánh là
59,64%. Tỷ lệ BN có cơn thiếu máu não thoáng qua ở nhóm NC là 11,11% thấp
hơn kết quả của Lê Văn Thính (22,73%).
Về một số đặc điểm tổn thương bệnh lý, NMN ở bán cầu trái chiếm tỷ lệ cao,
ở nhóm ĐC là 80,0% và nhóm NC là 66,67%. Theo Vũ Thường Sơn tổn thương 2
bán cầu là như nhau (50%). Còn theo Trần Văn Chương NMN ở bán cầu não trái là
50,5%, bán cầu não phải là 49,5%. Trong NC này 100% BN có liệt nửa người, trong
đó tỷ lệ liệt nửa người phải là 80,00% ở nhóm ĐC và 66,67% ở nhóm NC, điều này
23
phù hợp với tổn thương trên phim chụp CT Scanner. Theo Nguyễn Đạt Anh, Mai
Duy Tôn liệt nửa người là 90%. Tỷ lệ BN có liệt thần kinh VII trung ương ở hai
nhóm đều cao (nhóm ĐC là 84,44% và nhóm NC là 88,89%). Kết quả này tương tự
như các NC của Trịnh Việt Thắng là 93,37%. Tỷ lệ BN có dấu hiệu Babinski dương
tính là 100%. Tỷ lệ này cao hơn trong NC của Nguyễn Công Doanh (86,54%).
TPKL chiếm tỷ lệ cao hơn TPTP, thể nhiệt chiếm tỷ lệ cao hơn thể hàn, tỷ lệ BN có
yếu tố đàm thấp chiếm đa số trong nhóm bệnh nhân NC.
4.2.2. Kết quả điều trị theo Y học hiện đại
4.2.2.1. Phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân NMN sau giai đoạn cấp
Kết quả sau 30 ngày điều trị, cả 2 nhóm đều có tỷ lệ phục hồi liệt rõ rệt so với
trước điều trị theo thang điểm Rankin, nhưng tỷ lệ độ 1 và độ 2 ở nhóm NC
(84,44%) cao hơn so với nhóm ĐC (66,66%). Tỷ lệ đạt mức khá và tốt là 93,33%
tương đương với kết quả của Nguyễn Bá Anh (94,5%), thấp hơn so với kết quả của
Vương Thị Kim Chi (97,82%).
Sự tiến triển độ liệt của chỉ số Barthel ở 3 thời điểm N
0

có tính ôn nên hạn chế bớt tính hàn của địa long; điều vị kích thích tiêu hóa. Các vị
thuốc này đóng vai trò làm tá và sứ. Khí huyết lưu thông, cân cơ được nuôi dưỡng
đầy đủ, điều chỉnh được sự rối loạn của các tạng phủ thì phần cơ thể bị bệnh sẽ dần
hồi phục.
Trong NC này, bên cạnh việc dùng thuốc TMSLH, BN còn được kết hợp
XBBH để tăng khả năng phục hồi, có tác dụng hồi phục dinh dưỡng nhu mô,
chuyển hóa, điều hòa trương lực cơ, chống teo cơ, cứng khớp. Xoa bóp thông
qua tác động lên da, cơ, gân, khớp, huyệt và kinh lạc nên có thể đuổi ngoại tà, điều
hòa được dinh vệ, thông kinh lạc và điều hòa chức năng các tạng phủ.
Liên hệ với các nghiên cứu tác dụng các vị thuốc theo dược lý học hiện đại
cho thấy: Hoàng kỳ làm giãn mạch não, làm tăng cường lưu thông máu lên não. Địa
long có tác dụng với hệ thần kinh trung ương, chống co giật. Dịch chiết ethanol toàn
phần của đan sâm có tác dụng bảo vệ tế bào thần kinh, có thể dùng điều trị bệnh
Alzheimer. Danshensu, một hoạt chất trong đan sâm có khả năng vượt qua hàng rào
máu - não nên được sử dụng để điều trị các bệnh mạch máu não. Khi dùng riêng biệt
thì nồng độ danshensu ở các cơ quan giảm dần từ thận, tim, gan, não nhưng khi dùng
kết hợp với uất kim thì nồng độ chất này thay đổi cao nhất ở thận rồi đến não, gan và
cuối cùng thấp nhất ở tim. Như vậy, nghệ có thể làm tăng nồng độ của danshensu
trong não và nên dùng phối hợp hai vị thuốc này trong điều trị khi cần tăng nồng độ
danshensu ở não đặc biệt là các bệnh lý của não. Củ nghệ là một gia vị của Ấn Độ và
được dùng làm thuốc với tác dụng chống oxy - hóa, chống viêm và có tiềm năng bảo
vệ thần kinh. Dịch chiết nước nghệ có tác dụng dự phòng và điều trị Alzheimer.
Curcumin trong thành phần của nghệ có tác dụng phòng ngừa quá trình lão hóa não
và các rối loạn do thoái hóa thần kinh. Polypeptid chiết xuất từ nước sắc ngưu tất có
tác dụng bảo vệ thần kinh, thúc đẩy tái sinh mô và phục hồi chức năng của dây thần
25
kinh hông bị tổn thương gần tương đương với methylcobalamin (65mg/kg). Điều
này cho thấy polypeptid có thể là một chất có tiềm năng trong việc tái sinh dây thần
kinh ngoại vi. Trong thành phần của ngưu tất có các chất chống oxy - hóa, thúc đẩy
tăng trưởng và ngăn ngừa tổn thương của tế bào thần kinh, làm cải thiện trí nhớ.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status