khai thác văn hoá h’mông của công ty cp dịch vụ du lịch đường sắt hà nội để phát triển du lịch ở sa pa - lào cai - Pdf 23

Luận văn tốt nghiệp Hoàng Thị
Minh
LỜI MỞ ĐẦU
Công ty CP Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội (tiền thân là công ty phục vụ
Đường sắt) là một trong những công ty dịch vụ đầu tiên ở Hà Nội. Trước đây
công ty chỉ làm nhiệm vụ phục vụ ăn ở cho cán bộ công nhân viên Đường sắt và
ăn uống trên tàu, dưới ga cho hành khách.
Từ năm 1989 khi cơ chế bao cấp bị xoá bỏ thì công ty đã được đổi tên thành
Công ty Dịch vụ Du lịch Đường sắt Hà Nội và Trung tâm Điều hành - Hướng dẫn
Du lịch cũng bắt đầu được xây dựng và dần đi vào hoạt động.
Với lợi thế là có các tuyến tàu hoả Thống Nhất, Bắc Nam, tàu liên vận
quốc tế đi qua Bắc Kinh (Trung Quốc) đến Moscow (Nga) nên công ty đã thu
hút được rất nhiều du khách. Đặc biệt tuyến du lịch Hà Nội - Lào Cai - Sa Pa -
Bắc Hà - Hà Khẩu (Trung Quốc) được công ty tập trung khai thác có hiệu quả
rất cao với 2 lý do:
• Thứ nhất là tuyến đường bộ Hà Nội - Lào Cai dài hơn 300km qua vùng
trung du đồi núi trập trùng, chất lượng đường rất xấu nên khách du lịch ít chọn vì
mệt mỏi, dễ bị say xe và tốn kém thời gian (khi đi ban ngày) thậm chí sợ không
đảm bảo an toàn (khi đi ban đêm). Chính vì điều đó, công ty đã đầu tư vốn đóng 4
toa tàu khách du lịch đẹp để vận chuyển, phục vụ khách trên tuyến này.
• Thứ hai là lãnh đạo và hướng dẫn viên của công ty rất am hiểu lịch sử, văn
hoá của các dân tộc ở Lào Cai nên đã tập trung nghiên cứu, xây dựng các tour du
lịch nghỉ dưỡng kết hợp tìm hiểu lịch sử văn hoá của các dân tộc thiểu số ít người
ở vùng này.
Nhờ có chiến lược đúng đắn nên trong những năm qua các tour du lịch văn
hoá của công ty đến Lào Cai nói chung, đến Sapa và các bản làng H’Mông đã và
Lớp: 1059
1
Luận văn tốt nghiệp Hoàng Thị
Minh
đang là thế mạnh của công ty. Và thực tế cho thấy hiện nay các tour du lịch lên Sa

thời trung đại, du lịch tiếp tục phát triển, ngoài hành hương tôn giáo bắt đầu xuất
hiện du lịch công vụ, du lịch thăm quan với những cuộc du ngoạn của các hầu
tước, bá tước, của các kỵ sĩ từ lãnh địa này đến lãnh địa khác, của những thương
nhân đi tìm con đường tơ lụa, hồ tiêu… Ở Việt Nam thời trung đại cũng đã có
những cuộc du ngoạn của Trương Hán Siêu, Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh
Quan, chúa Trịnh Sâm,… Những bài thơ, áng văn ghi lại những nơi họ đi qua là
một minh chứng. Đó là những hiện tượng có tính du lịch - dù khái niệm du lịch
lúc bấy giờ chưa xuất hiện.
Ngày nay cơ hội đi du lịch là một quyền cơ bản của con người chứ không
còn là đặc quyền của tầng lớp giàu có nữa. Trong sự phát triển không ngừng của
nền kinh tế xã hội thì du lịch là một đòi hỏi tất yếu của người lao động.
Thuật ngữ du lịch trở nên rất thông dụng. Nó bắt nguồn từ trong tiếng Pháp.
“Tour” nghĩa là đi vòng quanh, cuộc dạo chơi, còn “ Tourist” là người đi dạo
chơi. Thuật ngữ du lịch bao hàm nội dung kép. Một mặt, nó mang ý nghĩa thông
thường của việc đi lại với mục đích nghỉ ngơi, giải trí… Mặt khác, du lịch được
nhìn nhận như một hoạt động gắn chặt với những kết quả kinh tế - xã hội do chính
nó tạo ra.
Trong vòng hơn sáu thập kỷ qua, kể từ khi Hiệp hội quốc tế các tổ chức du
lịch IOUTO (International of Union Travel Organization) được thành lập năm
1925 tại Hà Lan, khái niệm du lịch luôn được đưa ra để tranh luận. Khái niệm du
lịch được xác định như sau:
Lớp: 1059
3
Luận văn tốt nghiệp Hoàng Thị
Minh
“Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan
với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên và nhằm
nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận
thức văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh
tế và văn hoá” ( I.I. Pirôgionic, 1985). [3.8]

đến người quan sát qua nhiều dạng bên ngoài của bản thân nó. Sự tiếp nhận hình
dạng bên ngoài của tự nhiên gọi là phong cảnh, trong đó tự nhiên chỉ tham gia với
những đặc điểm của mình mà có thể quan sát bằng mắt thường.
* Tài nguyên du lịch nhân văn
Tài nguyên du lịch nhân văn là sản phẩm do con người tạo ra, có giá trị
nhận thức nhiều hơn giá trị giải trí và ít bị phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên,
thường tập trung vào các khu vực quần cư và thu hút du khách có mức thu nhập,
có trình độ văn hóa cũng như yêu cầu nhận thức cao. Các loại tài nguyên du lịch
nhân văn chính bao gồm: các di tích văn hóa - lịch sử, các lễ hội, các đối tượng
gắn với dân tộc học, các đối tượng văn hóa, thể thao và các đối tượng nhận thức
khác.
Tài nguyên du lịch thì nhiều nhưng không phải tất cả đều có thể khai thác và
sử dụng cho mục đích du lịch mà chỉ những tài nguyên độc đáo, có sức hấp dẫn
cao mới có khả năng phục vụ cho nhu cầu phát triển du lịch.
II. Các quan niệm về văn hoá và du lịch văn hoá
2.1. Văn hoá và các thành tố của văn hoá
a. Các quan niệm văn hóa
Từ hàng trăm năm nay trên Thế giới người ta đã bàn rất nhiều về văn hoá.
Theo tài liệu của tác giả Nguyễn Từ Chi viết trong cuốn “Góp phần nghiên cứu
văn hoá và tộc người” thì cho đến năm 1952 hai người Mỹ là A.L.Krocber và
C.L.KlucKhohn đã thống kê được trên dưới ba trăm định nghĩa về văn hoá của
các tác giả ở các nước khác nhau. Tựu chung trong các định nghĩa trên về văn hoá
(culture) là tất cả những gì do con người sáng tạo ra trong quá trình lao động trí óc
và lao động chân tay để thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của mình.
Ở Việt Nam theo tác giả Đào Duy Anh thì “Hai tiếng văn hoá chẳng qua là
chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người. Cho nên ta có thể nói
Lớp: 1059
5
Luận văn tốt nghiệp Hoàng Thị
Minh

chìa khóa của sự phát triển.
b. Các thành tố văn hoá
* Văn hoá vật thể
Văn hoá vật thể Việt Nam thu hút khách bởi nét uyển chuyển, hài hoà của
các công trình kiến trúc, các hình tượng nghệ thuật độc đáo do bàn tay tài hoa
của những người thợ tạo nên. Di tích lich sử văn hoá Việt Nam biểu hiện chất
văn hoá của một quốc gia nông nghiệp, có nền “dân gian - huyền thoại” và “tôn
giáo - thần bí”.
Trải qua năm tháng lịch sử, chúng ta may mắn được cha ông để lại cho một
số lượng rất lớn các di tích lịch sử. Tiêu biểu là cố đô Huế, phố cổ Hội An, tháp
Chàm, chùa Một Cột, tượng phật chùa Tây Phương, đền Hùng Đây là nguồn tài
nguyên chính để khai thác kinh doanh trong du lịch. Đến với các di tích lịch sử
của Việt Nam, du khách sẽ được tận hưởng các giá trị văn hoá dân tộc chứa đựng
trong đó. Ngoài các công trình kiến trúc lớn nêu trên, ở bất kỳ vùng miền nào
chúng ta cũng bắt gặp được các đền, chùa, miếu, phủ mang đậm bản sắc văn hoá
Việt Nam và văn hoá vùng.
* Văn hoá phi vật thể
Du lịch Việt Nam không chỉ thu hút khách du lịch bởi các giá trị văn hoá vật
chất mà còn thu hút khách du lịch tới các giá trị văn hoá phi vật thể. Đó là các loai
hình nghệ thuật truyền thống như: tuồng, chèo, rối nước, hát ru, dân ca quan họ,
hát sẩm, ca trù hết sức độc đáo, là những nét văn hoá đầy tính dân gian và huyền
thoại của các lễ hội.
Trong khoảng chục năm gần đây Du lịch Việt Nam đã biết khai thác các loại
hình nghệ thuật truyền thống để giới thiệu với khách du lịch bốn phương những
nét điển hình nhất, những đặc trưng về phong tục tập quán, tâm hồn, cốt cách con
người Việt. Thành công nhất phải kể đến nghệ thuật rối nước, quan họ và gần đây
là chèo, hát sẩm và ca trù
Trong sinh hoạt văn hoá cổ truyền, những hoạt động ca múa nhạc dân tộc có
Lớp: 1059
7

Minh
lịch tham gia du lịch văn hóa tức là tạo ra dòng chảy mới cho sự phát triển du lịch
bền vững và hoàn thiện.
2.3. Thực trạng khai thác các giá trị văn hoá trong du lịch
Cùng với sự phát triển của du lịch Việt Nam trong những năm qua, các giá
trị văn hoá không ngừng được khai thác để phát triển du lịch. Nhiều di tích được
sửa chữa, nhiều tuyến điểm du lịch được xây dựng. Đặc biệt từ năm 1992 đến
nay, cùng với sự nhạy bén của cơ chế thị trường, các di tích lịch sử, các loại hình
nghệ thuật truyền thống được phát huy triệt để vào kinh doanh du lịch ở nước ta.
Hầu như, mỗi vùng, mỗi tỉnh thành phố đều có các di tích được bảo vệ, bán vé
cho khách tham quan. Đi kèm theo đó là biểu diễn nghệ thuật, ca múa nhạc dân
tộc để thu hút khách.
Sự đầu tư, sửa chữa các di tích, các công trình kiến trúc góp phần giúp cho
du lịch phát triển qua các sản phẩm văn hoá du lịch hấp dẫn hơn. Mỗi di tích góp
phần rất lớn trong việc đáp ứng yêu cầu tìm hiểu văn hoá, nâng cao hiểu biết của
người nước ngoài đối với Việt Nam, đồng thời đóng góp một phần ngân sách,
tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước. Chính nguồn thu nhập hàng năm mà khách
tham quan các di tích mang lại cho ngành du lịch nói riêng cho đất nước nói
chung đã khẳng định tiềm năng to lớn của nó.
Tuy ngành du lịch Việt Nam còn non trẻ, khối lượng các tour chưa nhiều,
các dịch vụ còn ít nhưng đến với một đất nước tươi đẹp, thanh bình, thái độ phục
vụ của nhân viên du lịch lại rất tốt nên đã tạo được ấn tượng sâu sắc cho khách
du lịch quốc tế. Phần lớn khách du lịch đến với Việt Nam đều đánh giá cao về
lòng mến mộ, sự phục vụ tận tình, chu đáo của người Việt. Đây là dấu hiệu tốt về
sự phát triển du lịch trong tương lai.
Với không khí khẩn trương, nghiêm túc trong một thời gian ngắn việc thiết
lập kỉ cương các hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hoá đã đem lại cho lễ hội bầu
không khí nghiêm trang vốn có, đem lại cho các dịch vụ kinh doanh trong lĩnh
Lớp: 1059
9

nội dung có liên quan trực tiếp đến đối tượng nghiên cứu của khoá luận. Thông
qua nội dung chương 1 chúng ta có thể nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động
phát triển loại hình du lịch văn hoá qua việc khai thác các yếu tố đặc sắc mang
Lớp: 1059
10
Luận văn tốt nghiệp Hoàng Thị
Minh
tính dân tộc của mỗi tộc người. Việc khai thác những nét văn hoá độc đáo của
người H’Mông - một dân tộc có vị trí khá quan trọng trong 54 dân tộc Việt Nam
hiện được tiến hành như thế nào? Nội dung chương 2 sẽ trả lời câu hỏi này.
CHƯƠNG II
NGƯỜI H’MÔNG VÀ NHỮNG NÉT VĂN HÓA
ĐỘC ĐÁO CỦA HỌ
I. Nguồn gốc, lịch sử và sự phân bố dân cư
1.1. Nguồn gốc, lịch sử và quá trình di chuyển của người H’Mông vào Việt Nam
a . Nguồn gốc lịch sử
Người H’Mông ở Việt Nam nói chung hiện nay đều có nguồn gốc từ phương
Bắc. Theo các truyền thuyết của Trung Quốc thì người H’Mông xuất hiện sớm
nhất ở khu vực trung và hạ lưu sông Trường Giang. Cách đây 5.000 năm đã có
liên minh bộ lạc do tù trưởng Suy Vưu làm thủ lĩnh. Trong thời kì này cũng có 1
liên minh bộ lạc khác do Hiên Viên đứng đầu, nổi lên ở thượng nguồn sông
Hoàng Hà. Vào khoảng 2.700 năm TCN, hai liên minh bộ lạc này luôn xung đột
với nhau, Cửu Lê bại trận, Hiên Viên xưng Hoàng đế.
Vào thời kì Vua Nghiêu, Thuấn, Vũ xuất hiện liên minh mới là “Tam Miêu”,
“Hữu Miêu” hoặc “Miêu Dân” khá hùng mạnh. Họ chiến đấu kiên cường chống
lại các thế lực do các Vua đứng đầu.
Từ thế kỉ 16 đến 11 TCN, người dân Tam Miêu cùng nhiều tộc người khác ở
trung lưu sông Trường Giang được gọi là Kinh Sở, còn gọi là Nam Man đời sống
kinh tế phát đạt, cường thịnh.
Đến triều Ân, Chu, nhà nước Trung Quốc vẫn coi Nam Man là thù địch. Từ

1.2. Dân cư và sự phân bố dân cư
Từ trước năm 1960, trên lãnh thổ Việt Nam, dân số H’Mông chưa được xác
định chính xác. Chỉ đến 1-3-1960, với cuộc tổng điều tra dân số toàn miền Bắc,
người H’Mông ở Việt Nam có khoảng 105.521 người. Với cuộc tổng điều tra lần
thứ 2 ngày 1-4-1974, người H’Mông có 348.722 người. Như vậy sau 14 năm dân
số H’Mông tăng thêm 243.201 người. Tại cuộc tổng điều tra dân số toàn miền
Bắc lần thứ nhất (1-10-1979), dân số H’Mông là 411.074 người. Ở cuộc điều tra
Lớp: 1059
12
Luận văn tốt nghiệp Hoàng Thị
Minh
dân số toàn quốc lần thứ 2 (1-4-1989), dân số H’Mông là 558.053 người, vậy là
sau khoảng 10 năm, dân số H’Mông tăng thêm 146.979 người (bình quân tăng
3,2%). Đến cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam (1-4-1999), dân số
H’Mông là 787.604 người, sau 10 năm tăng thêm 229.551 người (bình quân
3,4%). So với các dân tộc ở Việt Nam, tốc độ tăng dân số bình quân của người
H’Mông thuộc loại cao.
Người H’Mông không những có tỉ lệ phát triển dân số cao mà tốc độ di
chuyển dân cư cũng khá lớn. Năm 1960 họ có mặt ở 398 xã, năm 1979 có mặt ở
677 xã thì năm 1989 họ đã có mặt ở 802 xã và năm 1999 có mặt trên 1000 xã. Chỉ
tính ở cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999, họ đã có mặt ở tất cả các
vùng trong cả nước, đông nhất là khu vực Đông Bắc 445.782 người (56,60%),
tiếp đến là Tây Bắc 289.000 người(36,69%), Bắc Trung Bộ 39.373 người
(4,99%), Tây Nguyên 12.392 người (1,57%), đồng bằng sông Hồng 533 người,
Đông Nam Bộ 431 người và đồng bằng sông Cửu Long 53 người.
Nếu tính theo tỉnh thì hiện nay có 20 tỉnh có dân số H’Mông từ 100 người
trở lên, và 10 tỉnh có dân số H’Mông từ 10 ngàn người trở lên.
STT Tên tỉnh Tổng số dân H’mông Nam Nữ
1 Hà Giang 183.994 90.686 93.308
2 Lay Châu 170.460 85.791 84.669

• H’Mông trắng (H’Mông Đơ) ở Bắc Hà, Bát Xát, Văn Bàn, Sa Pa.
Tuy phân biệt thành 4 ngành H’Mông khác nhau nhưng trừ ngành H’Mông
xanh (H’Mông dua) ở Văn Bàn, còn ba ngành H’Mông hoa, H’Mông trắng,
H’Mông đen về ngôn ngữ văn hoá cơ bản giống nhau, sự khác biệt giữa các nhóm
chủ yếu là dựa trên trang phục phụ nữ. Trong ngôn ngữ, hơn 93% từ vị cách phát
âm của các nhóm H’Mông giống nhau.
Người H’Mông di cư đến Lào Cai cách ngày nay hơn hai trăm năm. Người
H’Mông từ Quý Châu di cư xuống Vân Nam và từ Vân Nam vào Lào Cai làm
nhiều đợt. Đợt di cư đầu tiên vào Lào Cai gồm 80 gia đình (họ Vàng, Lù, Chấn,
Sùng, Hoàng, Vũ…). Các dòng họ này di cư đến San Khô, nay là vùng Si Ma Cai
(Bắc Hà). Thủ lĩnh dẫn đầu đoàn di cư đến Lào Cai là ông Hoàng Sín Dần, một
tộc trưởng có uy tín, giỏi võ nghệ. Họ sinh sống ở Bắc Hà được ba đời thì có 30
gia đình lại tiếp tục di cư sang Sa Pa, đoàn di cư do ông Lý Thàng Pua dẫn đầu.
Từ năm 1840 đến 1869, người H’Mông ở Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây
(Trung Quốc) lại kiên cường nổi dậy chống nhà Mãn Thanh. Cuộc khởi nghĩa thất
bại, phong kiến nhà Mãn Thanh đàn áp dã man, hơn 1 vạn người H’Mông ồ ạt di
Lớp: 1059
14
Luận văn tốt nghiệp Hoàng Thị
Minh
cư sang Việt Nam. Người H’Mông di cư đến Lào Cai chia làm 3 đoàn: một đoàn
do ông Sèo Cô Phìn dẫn đầu đến Pha Long Mường Khương, một đoàn do ông
Lùng Chung chỉ huy di cư sang Bản Lầu, một đoàn do một thủ lĩnh họ Hoàng dẫn
đầu tiếp tục đến Si Ma Cai. Sau khi định cư một thời gian, người H’Mông từ Mù
Vẳn (Bắc Hà) lại di cư sang miền Tây. Một đoàn di cư khác do dòng họ Mã, họ
Vàng dẫn đầu đi từ Pha Long xuống Cốc Lếu, Lào Cai lên Trung Chải, San Sả Hồ
(Sa Pa). Một đoàn khác từ Bắc Hà xuống Phố Lu lên Sa Pa rồi vào Văn Bàn.
Trong đoàn đi lần này có một nhóm H’Mông xanh sau định cư tại xã Nậm Xé
(Văn Bàn). Đợt thiên di lần thứ ba vào cuối thế kỉ 19 và rải rác đến những năm
đầu thế kỉ 20, địa bàn tập trung chủ yếu ở các huyện Bát Xát, Bảo Thắng, Bảo

(Sa Pa, Bát Xát) và cấp
dưới 500m/km
2
tập trung ở dãy núi
Hoàng Liên. Địa hình vùng cao Lào Cai còn có mức độ chia cắt ngang từ trung
bình và rất mạnh (từ cấp 1,5 đến 2,5km/km
2
) ở các vùng Sa Pa, Mường Hum, Than
Uyên. Độ dốc địa hình khá lớn chủ yếu là độ dốc từ 15
0
đến 25
0
. Độ chia cắt ngang
và siêu mạnh, lớn không chỉ ảnh hưởng đến vấn đề khai thác, tổ chức sản xuất mà
con gây khó khăn cho việc phát triển giao thông, đẩy mạnh sự giao lưu văn hoá.
Vùng cao Lào Cai nằm ở vùng nội chí tuyến, trong một năm có hai lần mặt
trời lên thiên đỉnh. Mặt khác, khí hậu vùng Lào Cai có tính chất á nhiệt đới, một
năm phân thành hai mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa. Mùa khô (mùa lạnh) bắt
đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, còn mùa mưa (mùa nóng) từ tháng 4 đến
tháng 9. Người H’Mông cư trú ở vùng cao địa hình phức tạp. Trước môi trường
sống không thuận lợi, người H’Mông đã xây dựng một hệ thống ứng xử riêng với
môi trường, tạo ra những nét đặc trưng cả trong văn hoá vật chất và tinh thần.
1.5. Dân cư, dân số
Ở Lào Cai, người H’Mông có mặt tại khắp 10 huyện, thị xã. Tổng điều tra
dân số năm 1989, người H’Mông có 99.105 người, đứng vị trí thứ 2 sau người
Lớp: 1059
16
Luận văn tốt nghiệp Hoàng Thị
Minh
Việt, chiếm tỷ lệ 21,72% trong tổng số dân Lào Cai. Ở các huyện vùng cao, người

33.081
62.693
36.909
456.673
11.586
3.919
14.721
2.971
7.636
5.186
12.478
40.506
102
99.105
27,35
4,2
51,5
6,4
12,4
9,92
37,7
64,6
0,22
21,7
Bảng 2: Tỷ lệ dân số dân tộc H’Mông ở Lào Cai - 1989
Trong tổng số 171 xã và thị trấn ở 9 huyện, thị xã, người H’Mông cư trú tập
trung ở 111 xã, trong đó có 34 xã người H’Mông chiếm tỷ lệ 100% dân số, 22 xã
người H’Mông chiếm đa số trong số dân toàn xã (trên 51%).
Tổng số xã
và thị trấn

cư lâu năm và nhà du cư sống tạm.
Người H’Mông hầu hết ở vùng cao, gần rừng, dễ tìm kiếm các vật liệu như
gỗ, luồng, song, mây, đá… để làm nhà. Theo kinh nghiệm để chống mối mọt,
người ta thường đi khai thác vật liệu vào hạ tuần hàng tháng âm lịch.
Vật liệu để làm nhà thường là gỗ tốt. Người H’Mông có lợi thế biết khai thác
gỗ pơmu thớ xoắn (pêmù) và thớ thẳng (thư soa) để làm nhà, khi vào rừng những
Lớp: 1059
18
Luận văn tốt nghiệp Hoàng Thị
Minh
người có nhiều kinh nghiệm chỉ cần nhìn lá cây là có thể phân biệt được chúng.
Công cụ làm nhà chủ yếu là dao, búa, cưa… Người ta thường chọn những
cây gỗ to tròn và thẳng để làm cột nhà, mực thước để đo là đơn vị sải tay, họ
biết tận dụng những đoạn gỗ ngắn bổ ra làm tấm lợp, các bức tường, vách cũng
được làm bằng gỗ. Một ngôi nhà được làm bằng gỗ như vậy có thể bền vững
hàng trăm năm.
Cấu trúc chung của ngôi nhà dân tộc H’Mông gồm 3 gian, gian giữa có cửa
chính nhìn về phía trước nhà. Đây là gian tiếp khách. Vách sau của gian giữa là
chỗ thiêng. Ở gian bên cạnh có buồng ngủ và bếp. Ở đầu hồi nhà có 1 cửa phụ
nhưng đây mới chính là lối ra vào. Hàng ngày người trong gia đình đi lại bằng
cửa này. Nhà của người H’Mông thường có gác nhỏ để chứa lương thực, hoa màu
hoặc thực phẩm khô.
Bàn thờ (xử ca) được đặt ở gian giữa, sau khi làm nhà được 3 ngày thì họ
làm bàn thờ. Bàn thờ được làm bằng những mảnh giấy bản có gắn mấy chiếc lông
gà được chấm tiết gà rồi dính vào vách sau của gian giữa. Hình dạng tờ giấy bản
và số lần chấm tiết gà có thể khác nhau tuỳ theo từng dòng họ.
* Các tín ngưỡng liên quan đến ngôi nhà.
Khi đến nhà người H’Mông có một số điều kiêng kị cần chú ý. Khi đi vào
cổng nhà hoặc đến cửa nhà, nếu thấy có cành lá xanh cắm ở cổng, đấy là dấu hiệu
cấm người ngoài vào nhà. Vì theo thầy cúng, sau khi con ma bị đuổi đi, nó sẽ núp

HDV du lịch cần phải nắm vững nhà nào đang có kiêng kỵ không được vào tránh
bị phiền phức thậm chí bị phạt nặng. Ngược lại vào dịp lễ hội nếu tổ chức đua
khách đến thăm thì đó quả là một dịp may hiếm có để giới thiệu các nét văn hoá
đặc trưng của dân tộc này cho khách và chắc chắn sẽ để lại trong lòng du khách
những ấn tượng tốt đẹp, khó quên.
b. Trang phục
Trang phục của người H’Mông được làm từ vải sợi lanh. Cây lanh được
trồng vào mùa mưa, từ tháng 3, tháng 4 đến tháng 8 thu hoạch. Vải lanh của
người H’Mông rất bền, bền gấp ba bốn lần vải bông. Xưa kia ở Trung Quốc, vải
lanh thêu của người H’Mông đã rất nổi tiếng (gọi là Miêu Bố, Miêu Cẩm) được
triều đình chọn làm quà biếu.
Lớp: 1059
20
Luận văn tốt nghiệp Hoàng Thị
Minh
Hầu hết người H’Mông đều mặc vải lanh nhuộm chàm, chỉ riêng váy người
H’Mông Trắng là để nguyên vải mộc. Nhuộm chàm cho vải mỗi lần 2, 3 ngày để
giữ cho những bộ trang phục có màu sắc luôn bền đẹp. Với điều kiện sống ở vùng
núi cao hẻo lánh, người H’Mông với nghề dệt may đã tự đáp ứng về cơ bản nhu
cầu ăn mặc của họ.
Trang phục đặc trưng của người H'Mông
Màu sắc trang trí trên trang phục của người
H’Mông rất sặc sỡ gồm các gam màu đen, đỏ, vàng,
trắng, xanh lơ. Kỹ thuật tạo hoa văn trên trang phục kết
hợp giữa thêu, dệt, ghép màu và in sáp ong. Phụ nữ
H’Mông có cái nhìn khái quát, giàu óc tưởng tượng,
hoàn toàn dựa vào trí nhớ để thêu hoa văn mà không
cần mẫu. Hoạ tiết hoa văn trên trang phục người
H’Mông chủ yếu là các hoa văn hình học, ngoài ra còn
là những hoạ tiết đồ vật, cây cối gần gũi trong cuộc

Quần áo nam giới chỉ có 1 kiểu, áo cài vạt sang 1 bên, ngắn lửng để hở một
khoang bụng, quần chân què, không dài lắm nhưng đũng và ống rất rộng, rất ít
trang trí hoa văn thêu thùa.
Tạp dề cũng là bộ phận cấu thành trang phục của phụ nữ H’Mông. Họ
thường đeo hai miếng tạp dề ở bên ngoài váy. Tạp dề cũng được thêu hoa văn,
ghép vải các màu sặc sỡ.
Thắt lưng của phụ nữ H’Mông là một miếng vải rộng từ 8-10cm, dài khoảng
80-100cm. Đoạn giữa của thắt lưng có thêu hoa văn các màu, người giàu có
thường mặc quần áo mới hơn, nhiều hoa văn hơn.
Phụ nữ H’Mông thường dùng xà cạp, nam giới trước kia cũng dùng nhưng
nay phần lớn khồng dùng. Xà cạp có chiều rộng khoảng 20cm, chiều dài khoảng
100cm. Được làm bằng vải đen, hoặc xanh cắt chéo hình tam giác, xà cạp thường
dùng ban ngày, ban đêm đi ngủ họ tháo ra. Riêng mùa rét họ quấn cả ban đêm khi
đi ngủ.
Dép của đồng bào H’Mông trước kia được làm bằng sợi giang tước nhỏ xoắn
lại. Ngày nay loại dép này rất hiếm thấy.
Trang phục đồng bào H’Mông cùng những đặc điểm của nghệ thuật tạo hình
thông qua thêu thùa, in, dệt đã phản ánh lối sống của người H’Mông giàu bản lĩnh
và phóng khoáng.
Nếu có một dịp khách du lịch đến bản của người H’Mông, được xem họ dệt
nhuộm chàm và vẽ hoa văn bằng sáp ong trên vải, xem các cô gái H’Mông thêu
hoa văn - những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc trên váy, áo thì ai cũng phải thán
phục không chỉ ở sự khéo léo của đôi tay mà còn khâm phục họ ở sự kiên trì. Cần
nói thêm rằng phụ nữ H’Mông phải đảm nhận các công việc nặng nhọc quanh
năm nhưng không quản mệt nhọc họ vẵn say mê khi tranh thủ thời gian cho công
Lớp: 1059
23
Luận văn tốt nghiệp Hoàng Thị
Minh
việc thêu dệt và đây chính là thước đo giá trị của phụ nữ, đặc biệt là của các cô

thượng võ và sinh hoạt văn hoá văn nghệ của những thành viên thuộc các thế hệ
khác nhau trong cộng đồng.
Lễ hội truyền thống tiêu biểu khác của người H’Mông là Nào sồng hay Nào
cống (lễ ăn ước hay ăn hội). Lễ Nào sồng được tổ chức trong phạm vi từng bản,
có nơi tiến hành vào đầu năm mới theo Tết của người H’Mông, có nơi tổ chức
muộn hơn. người H’Mông quan niệm rằng, ngày thìn (ngày con rồng) là ngày tốt
Lớp: 1059
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status