Bài học tôn trọng khách quan phát huy tính năng động chủ quan và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay - Pdf 24

Thảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mại
LỜI CẢM ƠN
Nhóm 1 lớp CH18A - QLKT xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS.Phương Kỳ
Sơn đã tận tình giúp đỡ nhóm trong quá trình học tập cũng như thực hiện báo cáo thảo
luận.
Do nhóm còn nhiều hạn chế về kiến thức và thời gian nghiên cứu nên bài trình bày
chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Nhóm rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
chân thành từ phía thầy giáo và các bạn.
Khoa Sau đại học 1 Nhóm1_CH18A.QLKT
Thảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mại
LỜI CAM ĐOAN
Trong quá trình được thầy giáo truyền đạt kiến thức và thực hiện đề tài thảo luận,
nhóm 1 đã tham khảo một số giáo trình, tài liệu có liên quan trong phạm vi nội dung Triết
học. Tuy nhiên, nhóm xin cam đoan bài trình bày của nhóm không trùng lặp với bất kỳ báo
cáo nghiên cứu nào thực hiện trước đó mà nhóm được biết.
Khoa Sau đại học 2 Nhóm1_CH18A.QLKT
Thảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mại
MỤC LỤC
BÊN BẢN ĐÁNH GIÁ T
rang
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN TRIẾT HỌC CỦA NGUYÊN TẮC “TÔN TRỌNG
KHÁCH QUAN, PHÁT HUY TÍNH NĂNG ĐỘNG CHỦ QUAN”
1.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc “tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động
chủ quan”
1.1.1. Vật chất
1.1.2. Ý thức
1.1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
1.2. Yêu cầu của nguyên tắc phương pháp luận “tôn trọng khách quan và phát huy

kinh nghiệm phê phán thì vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan mà con người biết được là nhờ cảm giác. Cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh nhưng tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
* Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật
chất.
Như vậy vật chất tồn tại bằng hình thức vận động, thông qua vận động mà biểu
hiện ra nó là gì?nhận thức sự vận động của vật chất là nhận thức chính bản thân sự vật,
hiện tượng.
- Vận động của vật chất là sự vận động tự thân, mọi sự vật, hiện tượng của thế giới
vật chất đều do các mặt, các yếu tố hợp thành, sự liên hệ tác động giữa chúng làm cho vật
chất vận động.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất mà vật chất không do ai sinh ra và
không bao giờ mất đi, chỉ chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác; định luật bảo toàn và
chuyển hoá năng lượng đã chứng minh điều đó.
- Vận động của vật chất có nhiều hình thức khác nhau, nhưng có 5 hình thức vận
động cơ bản sau:
+ Vận động cơ học: Đó là sự di chuyển vị trí của vật thể trong không gian.
+ Vận động vật lý: Đó là sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản: đIện từ,
nhiệt
+ Vận động hoá học: Đó là sự vận động của các nguyên tử, sự hoá hợp và phân giải
của các chất.
+ Vận động sinh học: Đó là sự trao đổi chất giữa cơ thể sống và môI trường.
Khoa Sau đại học 4 Nhóm1_CH18A.QLKT
Thảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mại
+ Vận động xã hội: Đó là sự thay đổi, sự thay thế các quá trình vận động của các
hình thái kinh tế xã hội.
Năm hình thức vận động trên từ thấp đến cao, chúng khác nhau về chất nhưng có
quan hệ biện chứng với nhau.Hình thức vận động cao bao hàm các hình thức vận động
thấp trong đó nhưng không được lẫn lộn giữa các hình thức vận động, không được quy
định hình thức vận động cao về hình thức vận động thấp.Mỗi sự vật, hiện tượng bao giờ

có thể dự đoán về hiện tượng trong tương lai có thể tạo ra những ảo tưởng, những giả
thuyết, những lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng khái quát . Dù sáng tạo của ý thức
không đối lập, không loại trừ và không tách rời sự phản ánh, mà ngược lại thống nhất với
phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của thức.
1.1.3- Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Vật chất vàý thức là hai phạm trù triết học, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau,
trong đó vai trò quyết định thuộc về vật chất, mặt khác ý thức tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
* Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, được thể hiện ở những mặt
sau đây:
- Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định sự hình thành của ý thức;
- Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Bởi vì ý thức của chúng ta là sự phản
ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, nó là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan.
- Vật chất quyết định sự biến đổi, sự phát triển của ý thức: Bản chất của ý thức là sự
phản ánh hiện thực khách quan trong điều kiện tự nhiên thay đổi, quan hệ vật chất thay đổi
thì ý thức cũng thay đổi theo.
- Vật chất là điều kiện để hiện thực hoá ý thức: Mỗi một cá nhân, mỗi một tổ chức
đều có những ý niệm và mục đích riêng, do đó phải có vật chất thì những ý nguyện đó mới
thành hiện thực.
* Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất thông qua sự chỉ đạo hoạt
động thực tiễn của con người, được diễn ra theo 2 chiều hướng:
- Hướng thứ nhất: Nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan, trên cơ sở đó
chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người và đưa hoạt động thực tiễn của con người đi đến
thành công.
- Ngược lại, nếu ý thức không phản ánh đúng hiện thực khách quan mà dùa vào đó
để chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người thì sẽ làm cho hoạt động thực tiễn của con
người mang tính chủ quan, duy ý chí, hành động trái quy luật, thậm chí dẫn đến mù quáng.
1.2- Yêu cầu của nguyên tắc phương pháp luận “tôn trọng khách quan và phát huy
tính năng động chủ quan” trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn:

Mô hình kinh tế của nước ta trong giai đoạn này là mô hình kế hoạch hóa tập trung,
quan liêu, bao cấp mà biểu hiện của nó là :
- Nền kinh tế phi thị trường, tuyệt đối hóa vai trò của thành phần kinh tế XHCN
dưới hai hình thức kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ( hai chủ lực )
- Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát
triển công nghiệp nặng.
- Chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các
nước xã hội chủ nghĩa, việc phân bổ nguồn lực để sản xuất chủ yếu bằng cơ chế kế hoạch
hóa tập trung quan liêu trong nền kinh tế thị trường.
- Áp đặt nóng vội, giản đơn các chính sách, biện pháp hành chính để đẩy nhanh tiến độ cải
tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế còn lại với mục tiêu không phải để huy động,
phát triển, mà hạn chế, thu hẹp, thậm chí xóa bỏ các thành phần kinh tế “phi XHCN”
- Chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã
hội.
Kết quả là thành phần kinh tế XHCN (quốc doanh và tập thể) tăng nhanh về số
lượng, quy mô và phạm vi hoạt động mở rộng nhưng hiệu quả kinh doanh thấp và ngày
càng giảm
2.2 Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan ở
Việt Nam hiện nay.
2.2.1 Quan điểm của Đảng về vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy
tính năng động chủ quan.
Ở Việt Nam, trong khoảng 10 năm sau khi thống nhất đất nước, bên cạnh những
thành tựu đạt được, chúng ta nôn nóng, tách rời hiện thực, vi phạm nhiều quy luật khách
quan trong đó quan trọng nhất là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, nên đã vi phạm những sai lầm trong việc xác định mục
tiêu, xác định các bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và
quản lý kinh tế. Tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội ngày càng trầm trọng xuất phát từ
nguyên nhân chủ quan, bắt nguồn từ những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương,
chính sách lớn, sai lầm về chủ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Đánh giá về mức độ sai
lầm do chủ quan duy ý chí của Đảng trong thời kỳ này, Đại hội lần thứ VI đã chỉ rõ Đảng

quan vốn có của nó trong việc đề ra các chế định, chủ trương, chính sách vào thực tế của
công cuộc xây dựng đất nước ta.
Với quan điểm tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, từ sau Đại hội Đảng lần
VI đến nay, nhiều biện pháp khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí đã được thực hiện mà đầu
tiên là việc Đại hội VI đề ra đường lối đổi mới toàn diện.
Đại hội VI xác định xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là một công việc to
lớn, không thể làm xong trong một thời gian ngắn, không thể nóng vội làm trái quy luật.
Văn kiện Đại hội xác định: "Nay phải sửa lại cho đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội
chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất". Đại hội cũng phát hiện một vấn đề lớn có tính lý luận, hoàn toàn mới mẻ:
"Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp
quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những
yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất". Trên cơ sở đó, Đại hội
xác định: "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ".
Khoa Sau đại học 9 Nhóm1_CH18A.QLKT
Thảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mại
Trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, tôn trọng nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù
hợp với lực lượng sản xuất, Đại hội VI đã xác định phải điều chỉnh lại các cơ cấu này theo
hướng "không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực tế",
tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương
thực - thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những
chương trình chẳng những đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà còn là điều
kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản phẩm hàng hóa
Về cơ chế mới quản lý kinh tế, trước đây trong các văn kiện Đại hội Đảng chỉ nêu nhiệm
vụ "xây dựng nền kinh tế hàng hóa", thì nay nói rõ và đầy đủ hơn: "Phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước" (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội). Theo Đại hội VI, cơ chế quản lý kinh tế có 2 đặc trưng: "Tính kế

Thảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mại
quả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của
đất nước, một số chỉ tiêu không đạt kế hoạch.
Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và các lĩnh vực xã hội có tiến bộ, bảo
vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải
thiện nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, gây bức xúc xã hội.
Quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tăng cường nhưng vẫn còn nhiều hạn chế.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố
nhưng chưa được phát huy đầy đủ.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu
quả được nâng lên tuy vậy vẫn chưa theo kịp được yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất
nước.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực nhưng
vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục.
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đảng ta đã rút ra một số
kinh nghiệm sau:
Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, “phải kiên trì thực hiện đường lối và mục
tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”
Hai là, “phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững”,
nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng hợp
lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường huy động các nguồn lực trong và ngoài
nước.
Ba là, phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội.
Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Năm là, trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám sát
thực tiễn đất nước, chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình
hình mời.
Thực tế hiện nay, Văn kiện Đại hội XI đã nhận định, hơn 20 năm qua, “Việt Nam

chuyển hóa về chất trong toàn bộ đời sống xã hội để đáp ứng nhu cầu mà thực tiễn cách
mạng Việt Nam đang đặt ra.
2.2.2. Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan
trên lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Trước năm 1986, mô hình kinh tế của Việt Nam là mô hình kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, quan liêu, bao cấp với 4 đặc điểm cơ bản sau:
Về sở hữu, nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986 là nền kinh tế dựa trên chế độ sở
hữu thuần nhât (công hữu về tư liệu sản xuất) với hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà
nước (quốc doanh) và kinh tế tập thể. Các thành phần kinh tế khác không được thừa nhận.
Về cơ chế vận hành, nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986 vận hành theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung. Theo đó, mọi hoạt động từ sản xuất tới tiêu dùng đều do nhà nước
quyết định. Nhà nước định lượng cho sản xuất, định lượng phân phối cho tiêu dùng. Kế
hoạch hóa là công cụ trung tâm của nền kinh tế. Khi nó đã được ban hành thì có tính chất
bắt buộc thực hiện vô điều kiện đối với tất cả các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ
thị trường không hề được coi trọng.
Khoa Sau đại học 12 Nhóm1_CH18A.QLKT
Thảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mại
Về quản lý nhà nước, nhà nước trực tiếp quản lý mọi hàng hóa và giá cả trên thị
trường có tổ chức. Nhà nước quy định giá mua cũng như giá bán đối với hầu hết các loại
hàng hóa. Hàng hóa không được tự do lưu thông. Đất đai, vốn, sức lao động không được
coi là hàng hóa nên không được mua bán trên thị trường.
Nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986 là nền kinh tế khép kín, chỉ giao lưu buôn
bán với các nước xã hội chủ nghĩa.
Sở dĩ có sự tồn tại của một nền kinh tế với những đặc điểm như vậy là do đặc điểm
lịch sử đặc biệt của Việt Nam trước năm 1975: vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa kháng
chiến thống nhất đất nước, giành độc lân tộc. Trong bối cảnh đó, một nền kinh tế như thế
đã góp phần tích cực vào việc huy động toàn bộ sức người sức của cho kháng chiến. Mọi
lợi ích cá nhân đều được gác lại vì mục tiêu cao cả độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
Tuy nhiên, sau năm 1975, khi đất thống nhất thì nền kinh tế với những đặc điểm đó
đã không còn phù hợp với tình hình mới nữa và bắt đầu bộc lộ những hạn chế và yếu kém

Chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang mô
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng xác định: kinh tế thị trường là
nền kinh tế hàng hoá phát triển ở giai đoạn cao, trong đó yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” đều
thông qua thị trường. Các chủ thể kinh tế đều chịu sự tác động quy luật thị trường và thái
độ ứng xử của họ đều tìm kiếm lợi ích cho mình thông qua sự điều tiết của giá cả. Vận
dụng bài học tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan, để thực hiện được
tư duy đổi mới đó, cần phải tổ chức lực lượng vật chất để thực hiện nó. Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những
quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên
tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt sở hữu, tổ chức quản lý, và
phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cũng có thể
nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế của một xã
hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế còn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở
trình độ cao hơn hướng tới chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị
trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa, được định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự
phát thị trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền
vững của đất nước.
Tôn trọng khách quan luôn gắn liền với việc phát huy tính năng động chủ quan.
Chuyển đổi kinh tế sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thực tế khách
quan. Tuy nhiên, trong quá trình đó, không thể dập khuân máy móc theo mô hình của bất
Khoa Sau đại học 14 Nhóm1_CH18A.QLKT
Thảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mại
kỳ nước nào (như trước kia chúng ta lấy mô hình của Liên Xô làm khuân mẫu tuyệt đối)
mà có vận dụng, biến đổi cho phù hợp với những đặc điểm riêng của Việt Nam.
Đảng ta thực hiện chủ trương khuyến khích phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
đa dạng về sở hữu. Thay vì nền kinh tế chỉ có hai thành phần như trước năm 1986 thì hiện
nay nền kinh tế bao gồm năm thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư

doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả hơn.
Các mối quan hệ thương mại của Việt Nam cũng được mở rộng đáng kể, từng bước
hội hội nhập kinh tế khu vực và đất nước. Vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế ngày
càng được nâng cao. Năm 2007. Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức
thương mại thế giới WTO, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Tốc độ tăng trưởng, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thời kỳ 1992-1997 tăng bình quân
8,75%/năm. Thời kỳ 2000-2007: 7,55%/năm. Năm 2008 và 2011 do chịu ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng GDP vẫn đạt 6,31% và 5.89%
BẢNG TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG GDP GIAI ĐOẠN 2000 – 2011
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Tốc
độ
tăng
GDP
(%)
6.79 6.89 7.08 7.34 7.79 8.44 8.23 8.46 6.31 5.32 6.78 5.89
Nguồn: tổng cục thống kê
GDP/người/năm: 1995 là 289 USD, năm 2005 là 639 USD, năm 2007: 835 USD và năm
2008 đạt 1.024 USD.
Cơ cấu thành phần kinh tế: Khu vực kinh tế nhà nước chiếm 38,4% GDP vào năm 2005.
Kinh tế dân doanh chiếm 45,7% GDP. Hợp tác và hợp tác xã chiếm 6,8% GDP. Khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài chiếm 15,9% GDP.
Như vậy, có thể thấy rằng: Sự hình thành tư duy kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi và phát kiến về mặt lý luận của chủ nghĩa
xã hội, mà còn là sự lựa chọn và khẳng định con đường và mô hình phát triển trong thực
tiễn mang tính cách mạng và sáng tạo của Việt Nam. Mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và
đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó rất mới

và chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ vững sự đoàn kết và uy
tín của Đảng, củng cố, và giữ vững niềm tin trong nhân dân. Văn kiện Đại hội VII của
Đảng khẳng định: "Đảng ta coi việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn và nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng là yêu cầu quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng, là công việc
thường xuyên bảo đảm cho Đảng ta luôn ngang tầm nhiệm vụ cách mạng".
Tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, coi trọng phản biện xã hội, mở rộng dân chủ
trong tất cả các lĩnh vực, xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa đã tạo nên những tiền đề, động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp đổi mới ở
nước ta ngày càng tiến triển mạnh mẽ.
Phát huy những thành tựu đã đạt được, vượt qua những khó khăn, thách thức trong quá
trình hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao chất lượng tăng
Khoa Sau đại học 17 Nhóm1_CH18A.QLKT
Thảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mại
trưởng kinh tế, thực hiện tốt an sinh xã hội, giải quyết những tồn đọng, những vấn đề gây
bức xúc trong dân hiện nay , sẽ là những yếu tố quan trọng để nâng cao hơn nữa tính văn
hóa chính trị trong sự lãnh đạo của Đảng, để Đảng xứng đáng với tên gọi: "Đảng ta là đạo
đức, là văn minh”
2.2.4. Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan
trên lĩnh vực văn hóa – xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Phát triển lĩnh vực văn hóa – xã hội là một trong những yêu cầu căn bản và quan
trọng của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung. Nguyên tắc phát
triển lĩnh vực văn hóa – xã hội nước ta là dựa trên nguyên tắc tôn trọng khách quan và phát
huy tính năng động chủ quan. Việc vận dụng được nguyên tắc này được xem xét trên nhiều
khía cạnh, tuy nhiên có thể đề cập tới một số mặt căn bản như sau:
- Thứ nhất, xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng khách quan, vật chất quyết định ý thức, chúng ta
đã nhận thức được sự biến đổi cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế thị trường dẫn đến biến đổi
cơ cấu xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển cho các giai tầng trong xã hội. Biến đổi cơ
cấu xã hội là một trong những biến đổi xã hội điển hình nhất ở Việt Nam trong đổi mới.
Trước giai đoạn 1986, kinh tế Việt Nam được xây dựng theo mô hình nền kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp, chính vì vậy kéo theo một cơ cấu kinh tế giản đơn mang nặng

lần thứ X đã ghi nhận các doanh nhân được phép phát triển kinh doanh “không hạn chế
quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng
của nền kinh tế mà pháp luật không cấm”
1
. Tầng lớp này có vị trí và vị thế quan trọng cả về
kinh tế và xã hội, nhất là trong hội nhập quốc tế, và có số lượng tăng lên nhanh chóng.
Năm 2011, Việt Nam có trên 600.000 doanh nghiệp, 1 triệu hộ kinh doanh cá thể, 133.000
hợp tác xã và trang trại, có tới khoảng 3 triệu hộ kinh doanh cá thể hoạt động trong khu
vực không chính thức không đăng ký kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực kinh tế theo quy
định. Bên cạnh đó, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã khách quan hoá vai trò
quan trọng vốn có của công nhân và trí thức, nhất là trong xu hướng tiến tới kinh tế tri
thức, xã hội thông tin và nền kinh tế dựa trên công nghệ cao trong thế giới toàn cầu hoá.
Đặc biệt, khi đề cập tới sự ra đời của các giai tầng trong xã hội Việt Nam khi có sự biến
động về nền kinh tế, ta không thể không đề cập tới tính năng động chủ quan đã và đang
được phát huy. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã góp phần giải
phóng sức sản xuất, đẩy mạnh phân công lao động, vị thế và vai trò của người lao động,
các chủ hộ lao động, của doanh nghiệp và doanh nhân được khẳng định. Các thành phần
kinh tế, các giai cấp tích cực và chủ động tham gia phát triển kinh tế. Đồng thời, các chính
sách xã hội được mở rộng và cải thiện dựa trên sự thay đổi về cơ cấu xã hội, tăng quyền tự
chủ, đảm bảo quyền lợi cho các thành phần xã hội. Nhà nước khuyến khích mọi người làm
giàu chính đáng theo luật pháp. Chính sách của nhà nước bao quát nhiều đối tượng, có chú
ý thích đáng sự quan tâm của Nhà nước và cộng đồng tới các đối tượng yếu thế, thua thiệt
1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, tr.87
Khoa Sau đại học 19 Nhóm1_CH18A.QLKT
Thảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mại
trong phát triển, bằng các biện pháp điều tiết lợi ích, các chính sách thuế, kể cả thuế thu
nhập từ bộ phận có thu nhập cao. Các thể chế pháp lý đảm bảo cho sự phát triển kinh tế
định hướng vào phát triển một xã hội có tăng trưởng cao đi liền với công bằng xã hội: Luật
Lao động, Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật thuế và nhiều luật khác. Chính sách xã hội

Thảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mại
phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục
nếp sống và hình thành nhân cách. Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là
môi trường rèn luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả
cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người và nền văn
hoá Việt Nam”
2
. Con người xã hội chủ nghĩa, phát huy tính năng động chủ quan của con
người xã hội chủ nghĩa kết hợp với tôn trọng khách quan là chìa khóa thành công trong sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
KÉT LUẬN
Trong thời kì đổi mới của nước ta, khi chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan
liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan. Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật
thông qua các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta, đời sống vật chất tinh thần
2ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia-Sự
thật, Hà Nội, 2011, tr76-77.
Khoa Sau đại học 21 Nhóm1_CH18A.QLKT
Thảo luận triết học nâng cao Trường Đại học Thương mại
của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, chế độ XHCN ngày càng củng cố và
đất nước đó ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội và đang có những bước chuyển biến
tích cực trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nhà xuất bản chính
trị - Hành chính, năm 2010.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
Khoa Sau đại học 22 Nhóm1_CH18A.QLKT


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status