khảo sát tình hình sử dụng con giống trong nuôi tôm thẻ chân trắng ở bến tre - Pdf 24

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Mã số: D620301
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG CON GIỐNG
TRONG NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG
(Litopenaeus vannamei) THÂM CANH Ở BẾN TRE
Sinh viên thực hiện:
NGUYỄN THỊ THU TRÂM
MSSV: 1053040030
LỚP: NTTS K5
Cần Thơ, 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Mã số: D620301
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG CON GIỐNG
TRONG NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG
(Litopenaeus vannamei) THÂM CANH Ở BẾN TRE
Cán bộ hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
ThS. NGUYỄN HỮU LỘC NGUYỄN THỊ THU TRÂM
MSSV: 1053040030
LỚP: NTTS K5
Cần Thơ, 2014
XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG BẢO VỆ KHÓA LUẬN TỐT
NGHIỆP ĐẠI HỌC
Khóa luận: Khảo sát tình hình sử dụng con giống trong nuôi tôm thẻ chân trắng
(Litopenaeus vannamei) thâm canh ở Bến Tre.
Sinh viên thực hiện: NGUYỄN THỊ THU TRÂM.

câu hỏi soạn sẵn với những nội dung về khía cạnh con giống và hiệu quả kinh tế.
Qua kết quả điều tra cho thấy diện tích đất sử dụng trong nuôi tôm thẻ chân trắng thâm
canh ở Bến Tre trung bình 0,29 ± 0,17 ha/hộ. Diện tích ao lắng trung bình 0,12 ± 0,076
ha/hộ, diện tích ao lắng chiếm 41,37% so với diện tích ao nuôi. Mật độ thả nuôi trung
bình 82,33 ± 10,07 con/m
2
, tỷ lệ sống 82,5 ± 11,5% năng suất trung bình 8,5 ± 2,7
tấn/vụ/ha.
Qua kết quả khảo sát nguồn con giống được các hộ nuôi thả có hai nguồn chủ yếu là miền
Trung và nguồn giống từ ĐBSCL. Hiện nay nguồn con giống ở miền Trung được hộ nuôi
thả nuôi khá nhiều chiếm đa số 96,67% và nguồn con giống từ ĐBSCL chỉ chiếm 3,33%.
Trong nuôi thâm canh đa số các hộ nuôi đều sử dụng thức ăn có độ đạm từ 39 – 42% và
hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) trung bình 1,24 ± 0,1. Qua kết quả điều tra 30 hộ nuôi
thấy có xuất hiện 5 bệnh phổ biến như: đốm trắng, phân trắng, bệnh gan tụy, sốc môi
trường và đen mang.
Tổng chi phí của mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh ở Bến Tre là 543,67 triệu
đồng/vụ/ha. Với thời gian nuôi ngắn từ 2 đến 3 tháng nuôi người nuôi có thể nuôi từ 1
đến 3 vụ trong năm với lợi nhuận khá cao, lợi nhuận từ việc nuôi tôm thẻ chân trắng tại
Bến Tre trung bình 678,02 ± 34,64 triệu đồng/vụ/ha.
Trong quá trình nuôi, nông hộ còn gặp nhiều khó khăn về nguồn con giống sạch bệnh, chi
phí nguyên nhiên liệu ngày càng tăng cao, giá tôm không ổn định. Cần đề ra các biện
pháp khắc phục nhằm phát triển mô hình nuôi thâm canh bền vững, lâu dài.
Từ khóa: Tôm thẻ chân trắng, Litopenaeus vannamei, tôm giống.
CAM KẾT KẾT QUẢ
Tôi xin cam kết khóa luận này được hoàn thành dựa trên các kết quả nghiên cứu của tôi
trong khuôn khổ của đề tài “Khảo sát tình hình sử dụng con giống trong nuôi tôm thẻ
chân trắng (Litopenaeus vannamei) thâm canh ở Bến Tre” và các kết quả của nghiên cứu
này chưa được dùng cho bất cứ khóa luận cùng cấp nào khác.
Cần Thơ, ngày tháng năm 2014
Ký tên

2.3.1.2 Điều kiện tự nhiên 12
2.3.2 Đặc điểm về kinh tế và xã hội 12
2.3.3 Hiện trạng nuôi tôm thẻ chân trắng ở Bến Tre 13
2.3.4 Quy hoạch, định hướng nghề nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh ở tỉnh Bến Tre
14
CHƯƠNG 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 15
ii
3.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 15
3.2 Đối tượng nghiên cứu 15
3.3 Phạm vi nghiên cứu 15
3.4 Phương pháp thu thập số liệu 15
3.4.1 Về mặt kỹ thuật 15
3.5 Phân tích chi phí, thu nhập, lợi nhuận 16
3.4 Phương pháp xử lý số liệu 18
CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ THẢO LUẬN
19
4.1 Hiện trạng nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh tại Bến Tre 19
4.1.1 Tình hình phát triển chung 19
4.1.2 Số vụ thả nuôi 20
4.1.3 Độ tuổi, trình độ chuyên môn, năm kinh nghiệm nuôi 20
4.2 Thông tin kỹ thuật của mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh ở Bến Tre 22
4.2.1 Kết cấu ao nuôi 22
4.2.2 Phương pháp và thời gian cải tạo ao 24
4.2.3 Xử lí nước 25
4.2.4 Mật độ và kích cỡ con giống tôm thẻ chân trắng thả nuôi 25
4.3 Đánh giá chất lượng hiệu quả của mô hình nuôi 27
4.3.1 Nguồn con giống và giá con giống 27
4.3.2 Thức ăn và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) 28
4.3.3 Thời gian nuôi, tỷ lệ sống, năng suất 29
4.3.4 Một số bệnh thường gặp trong nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh ở Bến Tre.30

v
DANH MỤC VIẾT TẮT
ĐBSCL: Đồng Bằng Sông Cửu Long
PL: Postlarvae
VASEP: (The Vietnam Association of Seafood Exporters and Producers): Hiệp hội Chế
biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam
NN và PTNT: Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn
UBND: Ủy ban nhân dân
1
CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Trong những năm qua, xuất khẩu thủy sản đã góp phần tạo nên một hình ảnh Việt Nam
với các bạn bè quốc tế. Năm 2004, lần đầu tiên Việt Nam nằm trong số 10 nước có sản
lượng nuôi trồng thủy sản hàng đầu thế giới (FAO, 2005), sản phẩm thủy sản của Việt
Nam đã có mặt trên 155 quốc gia và vùng lãnh thổ (ABS, 2010). Một trong những nghề
đóng góp cho thành công của thủy sản Việt Nam phải kể đến là nghề nuôi tôm. Nghề nuôi
tôm góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế của nước nhà, nuôi tôm là một trong
những nghề đem lại lợi nhuận cao, góp phần nâng cao đời sống cho người dân. Trong đó,
tôm thẻ chân trắng là một trong những đối tượng có giá trị kinh tế cao, thời gian sinh
trưởng ngắn, năng suất cao nên được nuôi phổ biến và chủ yếu ở các tỉnh ven biển nước
ta như: Bến Tre, Sóc Trăng, Cà Mau, Ninh Thuận…(Trần Viết Mỹ, 2009).
Ở Bến Tre diện tích nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh là khoảng trên 4.862ha, trong
đó tôm thẻ chân trắng được nuôi chủ yếu. Diện tích nuôi tôm tập trung vào 3 huyện ven
biển là Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú. Với những điều kiện tự nhiên thuận lợi, địa hình
giáp biển, thiên nhiên ưu đãi Bến Tre có những thuận lợi và tiềm năng để phát triển nghề
nuôi tôm (Trần Thị Mai Phương, 2010).
Những năm gần đây giống tôm thẻ chân trắng được sản xuất đại trà ở nước ta. Do lợi
nhuận của nghề nuôi tôm đem lại khá lớn nên diện tích nuôi ngày càng mở rộng nằm
ngoài sự quản lý của cơ quan chức năng, chính điều này đang đưa nghề nuôi tôm của

2.1.1 Phân loại
Theo Nguyễn Văn Thường và ctv., (2009) tôm thẻ chân trắng được phân loại như sau:
Nghành: Arthropoda
Lớp: Malacostraca
Bộ: Decapoda
Họ: Penaeidae
Giống: Litopenaeus
Loài: Litopenaeus vannamei
Tên khoa học: Litopenaeus vannamei (Boone, 1931).
Tên tiếng Anh: White leg shrimp.
Tên tiếng Việt: Tôm thẻ chân trắng, tôm chân trắng.
Hình 2.1 Hình thái bên ngoài tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei)
2.1.2 Đặc điểm hình thái
Theo Nguyễn Trọng Nho và ctv., (2003), cơ thể tôm thẻ chân trắng chia làm 2 phần: Phần
đầu ngực và phần bụng. Phần đầu ngực có các đôi phần phụ, một đôi mắt kép có cuống
mắt, 2 đôi râu: Anten 1 (A1), anten (A2), hai đôi râu này giữ chức năng là khứu giác và
giữ thăng bằng, 3 đôi hàm có chức năng ăn mồi, giữ mồi và hỗ trợ hoạt động bơi lội của
tôm, 5 đôi chân ngực giúp cho việc ăn và bò trên mặt đáy của tôm. Ở tôm cái ở giữa chân
ngực 4 và 5 có thelycum. Phần đầu ngực được bảo vệ bởi giáp đầu ngực, trên giáp đầu
ngực có nhiều gai, gờ, sóng, rãnh. Phần bụng được chia làm 7 đốt, mỗi đốt đều mang theo
một đôi chân bơi. Mỗi chân bụng có một đốt chung bên trong, đốt ngoài hình thành 2
4
nhánh: nhánh trong và nhánh ngoài. Đốt thứ 7 biến thành telson hợp với đôi chân đuôi
phân nhánh tạo thành đuôi giúp tôm bơi lội lên xuống và búng nhảy. Ở tôm đực, 2 nhánh
trong của đôi chân bụng 1 biến thành petesma và 2 nhánh trong của đôi chân bụng 2 biến
thành đôi phụ bộ đực, là các bộ phận sinh dục bên ngoài.
Tôm thẻ chân trắng vỏ mỏng có màu trắng đục nên có tên là tôm Bạc, bình thường có
màu xanh lam, chân bò có màu trắng ngà nên gọi là tôm thẻ chân trắng. Tôm thẻ chân
trắng có chủy hơi cong xuống, có 7 - 10 răng trên chủy và 2 - 4 răng dưới chủy, chân
ngực 4 và chân ngực 5 có màu trắng đục. Chiều dài lớn nhất của con đực là 187mm và

mặn và nhiệt độ. Mặc dù tôm có khả năng thích nghi với giới hạn rộng về nhiệt độ
(15 – 33
0
C), nhưng nhiệt độ thích hợp nhất cho sự phát triển của tôm là 23 – 32
0
C. Nhiệt
độ tối ưu cho tôm lúc nhỏ (1g) là 30
0
C và cho tôm lớn (12 – 18g) là 27
0
C (Trần Viết Mỹ,
2009). Tôm thẻ chân trắng có khả năng thích nghi với độ mặn 0,5 – 45‰, khoảng thích
hợp cho sự phát triển tối ưu là: 7 – 34‰ (Trần Viết Mỹ, 2009) và pH dao động từ 5 – 9
tuy nhiên pH tối ưu cho sự phát triển của tôm thẻ chân trắng là từ 7 – 8,5 (Boyd, 2003).
Nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển là 27 – 30
0
C (Kureshi và ctv., 2002 trích bởi Trần
Ngọc Hải và ctv., 2009), tuy nhiên chúng có thể sống được khi nhiệt độ từ 12 – 28
0
C
(Trần Viết Mỹ, 2009).
Tôm tăng trưởng nhanh trong điều kiện nuôi với môi trường sinh thái phù hợp tôm có khả
năng đạt 8 – 10g trong 60 – 80 ngày, hay đạt 35 – 40g trong khoảng thời gian là 180 ngày.
Trong 60 ngày nuôi đầu thì tôm tăng trưởng nhanh dần về sau tôm tăng trưởng chậm lại
(Thái Bá Hồ và ctv., 2004).
Tôm nhỏ thay vỏ cần vài giờ, tôm lớn cần 1 - 2 ngày. Tốc độ lớn thời gian đầu 3 g/tuần
(mật độ nuôi 100 con/m
2
) tới cỡ 30g tôm lớn chậm dần 1 g/tuần. Tôm cái thường lớn hơn
tôm đực, nuôi 60 ngày có thể đạt cỡ thương phẩm. Trong điều kiện tự nhiên, nhiệt độ

xác (Thái Bá Hồ và ctv., 2004).
Tôm thẻ chân trắng cùng thuộc họ tôm he nên có một số đặc điểm chung của họ tôm he
như sau:
Ở con đực, các nhánh trong chân bụng thứ nhất biến thành cơ quan giao vĩ (Petasma). Khi
chưa thành thục là những nhánh thon, dẹp, hình dạng đặc trưng cho loài. Cơ quan sinh
dục trong bao gồm một đôi tinh sào, một đôi ống dẫn tinh và đầu mút nằm ở vùng tim
phía trên của gan tụy. Đầu cuối của ống có túi tinh và đổ ra gốc của chân ngực thứ 5.
Ở tôm thẻ chân trắng cái có thelycum hở. Cơ quan sinh dục trong gồm một đôi buồng
trứng và ống dẫn trứng (Dall et al.,1990; Bray & Lawrence, 1992).
Theo Nguyễn Khắc Hường (2007), tôm thẻ chân trắng có mùa sinh sản tương đối dài, tôm
bố mẹ gần như thành thục quanh năm. Tôm thẻ chân trắng có thelycum hở nên quá trình
giao vĩ theo trình tự: lột xác - thành thục - giao vĩ - đẻ trứng, nên việc sản xuất giống gặp
khó khăn hơn. Ở tôm thẻ chân trắng giao vĩ chỉ vài giờ trước khi đẻ trứng và túi tinh của
con đực được chuyển sang đầu con cái và nằm bên ngoài thelycum để thụ tinh cho trứng
khi đẻ. Giao vĩ chủ yếu xảy ra vào chiều tối hay đầu hôm của đêm khoảng
19:00h - 21:00h (Trần Ngọc Hải và ctv., 2009). Tôm cái chưa giao vĩ, chỉ cần buồng trứng
đã thành thục thì vẫn đẻ trứng nhưng không thể ấp. Giống như tôm sú, ấu trùng tôm thẻ
chân trắng cũng phải lột xác để biến thái qua nhiều giai đoạn mới thành tôm trưởng thành
và tiếp tục vòng đời.
2.1.7 Vòng đời của tôm thẻ chân trắng
Ấu trùng (6 giai đoạn nauplius, 3 giai đoạn Zoae và 3 giai đoạn Mysis) – hậu ấu trùng –
tiền trưởng thành – trưởng thành.
7
Hình 2.2 Vòng đời của tôm thẻ chân trắng ngoài tự nhiên
2.1.8 Các loại bệnh thường gặp trên tôm thẻ chân trắng
Từ năm 1993 - 1994 đến nay bệnh tôm thường xuyên xuất hiện ở các vùng nuôi tôm ven
biển từ quảng canh đến thâm canh, bệnh đã gây thiệt hại đáng kể cho nghề nuôi tôm (Bùi
Quang Tề, 2003). Đối với tôm thẻ chân trắng thường xuất hiện một số loại bệnh sau:
Hội chứng Taura (TSV)
Hội trứng Taura là bệnh thường gặp ở tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei). Bệnh

hoạch (Bùi Quang Tề, 2003 trích bởi Lê Đình Quốc Khánh, 2013).
Bệnh do vi khuẩn Vibrio
Các dạng nhiễm khuẩn do giống Vibrio gây ra gồm vi khuẩn gây bệnh trên vỏ và bệnh
“đen mang”, các vi khuẩn thuộc nhóm này là tác nhân cơ hội, có mặt trong ao nuôi là một
quần thể vi khuẩn tự nhiên, phổ biến như bệnh “hội chứng chết sau một tháng tuổi”, bệnh
phát sáng,… đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển nghề nuôi tôm ở nước ta. Đặc biệt
bệnh phát sáng trên tôm chủ yếu do Vibrio harveyi gây ra, tôm bệnh có biểu hiện phát
sáng, đỏ thân và bị ăn mòn phụ bộ. Trong môi trường giàu dinh dưỡng, mùn bã hữu cơ
bệnh có thể xuất hiện quanh năm, là cơ hội cho bệnh đốm trắng xâm nhập. Bệnh phổ biến
ở các vùng nước lợ, trong sản xuất giống bệnh được lây truyền từ ruột của tôm mẹ cho
trứng trong quá trình sinh sản. Tỷ lệ chết tùy theo mức độ bệnh, tôm chết từ rải rác tới
hàng loạt (Đặng Thị Hoàng Oanh và ctv., 2005).
2.1.9 Ưu điểm của tôm thẻ chân trắng so với tôm sú
So với tôm sú tôm thẻ chân trắng có một số ưu điểm: Lớn nhanh hơn trong khoảng hai
tháng nuôi đầu, do đó có thể nuôi nhiều vụ trong một năm. Thích nghi với biên độ nhiệt
độ và độ mặn rộng hơn, có thể thuần hóa nuôi hoàn toàn ở nước ngọt, có khả năng chịu
được sự thay đổi đột ngột. Chủ động về nguồn tôm bố mẹ và giống thả nuôi.
Hệ số chuyển đổi thức ăn nhỏ hơn, giá thức ăn rẻ hơn. Lợi nhuận cao hơn.
9
2.2 Tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng trên thế giới và Việt Nam
2.2.1 Tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng trên thế giới
Trên thế giới tôm thẻ chân trắng được nuôi nhiều ở các nước Nam Mỹ và có sản lượng
đứng hàng đầu, đạt 86.000tấn (1990) và gần 200.000tấn (1999). Tôm thẻ chân trắng được
nuôi vào khoảng thập niên 80 (FAO, 2011). Đến năm 1992, chúng đã được nuôi phổ biến
trên thế giới, nhưng chủ yếu tập trung ở các nước Nam Mỹ. Khi đó nhiều nước Châu Á đã
tìm cách hạn chế sự phát triển tôm chân trắng do sợ lây bệnh cho tôm sú. Cho đến năm
2003 thì các nước châu Á bắt đầu nuôi đối tượng này và sản lượng tôm thẻ chân trắng
trên thế giới đạt khoảng 1 triệu tấn, từ đó sản lượng tôm liên tục tăng nhanh qua các năm
đạt 1,6 triệu tấn (2009), đến năm 2010 sản lượng tôm đạt khoảng 2,7 triệu tấn (FAO,
2011). Đến năm 2012 sản lượng tôm đạt khoảng 4 triệu tấn (FAO, 2013). Các nước nuôi

cả nước đạt hơn 628.700ha, sản lượng thu hoạch đạt hơn 258.780tấn. Trong đó, diện tích
tôm sú đạt gần 581.500ha, sản lượng đạt trên 152.313tấn. Trong khi diện tích tôm thẻ
chân trắng xấp xỉ 47.300ha nhưng sản lượng thu hoạch được cũng đạt mức rất cao,
106.479tấn.
Tại nhiều vùng chuyên nuôi tôm khu vực ĐBSCL hiện nay như Tiền Giang, Sóc Trăng,
Trà Vinh, Bến Tre tôm thẻ chân trắng được nhiều nông dân ưu tiên chọn nuôi do năng
suất cao, thời gian sinh trưởng ngắn, chỉ từ 2 - 3 tháng có thể thu hoạch nên xoay vòng
vốn nhanh.
Bên cạnh sự phát triển về năng suất, sản lượng trong nước, hoạt động xuất khẩu tôm thẻ
chân trắng cũng tăng mạnh thời gian gần đây. Báo cáo của (VASEP) cho biết, tính đến
giữa tháng 9/2013, kim ngạch xuất khẩu tôm thẻ chân trắng đạt 875,4 triệu USD, vượt
qua mức 868,3 triệu USD thu từ xuất khẩu tôm sú.
Theo hiệp hội thủy sản Việt Nam ước tính giá trị xuất khẩu tôm thẻ chân trắng 9 tháng
đầu năm 2013 chiếm hơn 47% tổng giá trị xuất khẩu tôm cả nước, cao hơn xuất khẩu tôm
sú với mức gần 46%.
Ngoài ra, nhu cầu nhập khẩu tôm thẻ chân trắng cũng đang tăng lên ở tất cả các thị trường
chính của tôm Việt Nam. Cụ thể, thống kê của cục Hải quan cho thấy 8 tháng đầu năm
2013, tỷ trọng tôm thẻ chân trắng xuất khẩu sang Nhật Bản tăng từ 31,6% cùng kỳ năm
2012 lên 42,7%. Tỷ trọng tôm thẻ chân trắng xuất khẩu sang Mỹ cũng tăng gần gấp đôi từ
37% lên 66,3%. Xuất khẩu tôm thẻ chân trắng sang EU và Trung Quốc cũng tăng đáng
kể.
2.2.3 Tình hình nghiên cứu sản xuất giống ở Việt Nam
Ở Việt Nam, tôm thẻ chân trắng bố mẹ được di nhập từ nhiều quốc gia khác nhau nên
việc sản xuất giống rất được chú trọng để đảm bảo số lượng cho nuôi tôm thương phẩm.
Bên cạnh số lượng thì chất lượng con giống cũng được chú trọng rất nhiều trong quá trình
sản xuất. Đến năm 2002 các nhà khoa học Việt Nam đã bắt đầu vào việc nghiên cứu quy
trình sản xuất giống như Viện Hải Dương Học Nha Trang, viện nghiên cứu Nuôi Trồng
Thủy Sản III. Hiện nay đã có nhiều công ty, trung tâm, trại giống sản xuất giống tôm thẻ
11
chân trắng đạt năng suất cao như: trại giống công ty Việt Úc, trại của viện nghiên cứu

Hàm Luông và Cổ Chiên mang phù sa bồi đắp qua nhiều thế kỷ và đã chia địa hình Bến
Tre thành ba dãy cù lao lớn là cù lao An Hoá, cù lao Bảo và cù lao Minh. Bến Tre tiếp
giáp với biển Đông, có đường bờ biển dài 65km, phía bắc giáp Tiền Giang, phía Tây giáp
12
Vĩnh Long, phía nam giáp Trà Vinh, với vị trí như vậy tỉnh Bến Tre có tiềm năng lớn cho
việc phát triển ngành nuôi trồng thủy sản. Nhìn trên bản đồ, tỉnh Bến Tre có hình rẻ quạt
mà đầu nhọn nằm ở thượng nguồn các nhánh sông lớn giống như nan quạt xoè rộng ra ở
phía Đông. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 2.360km
2
, khí hậu nhiệt đới, dân số khoảng 1,4
triệu người. Địa hình bằng phẳng, rải rác có những cồn cát xen kẽ với ruộng vườn, không
có rừng cây lớn.
2.3.1.2 Điều kiện tự nhiên
Bến Tre nằm trong miền khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhưng lại nằm ngoài ảnh
hưởng của gió mùa nhiệt đới, nên nhiệt độ cao, ít biến đổi trong năm, nhiệt độ trung bình
hằng năm từ 26
0
C – 27
0
C. Trong năm không có nhiệt độ tháng nào trung bình dưới 20
0
C.
Trở ngại đáng kể đối với tỉnh Bến Tre trong nông nghiệp là vào mùa khô, lượng nước từ
thượng nguồn đổ về giảm nhiều và gió mạnh đưa nước biển sâu vào nội địa, làm ảnh
hưởng đến việc cung cấp nước ngọt cho các huyện gần phía biển và ven biển. Địa hình
tỉnh Bến Tre có thể chia làm 3 vùng nông nghiệp: vùng nước ngọt, vùng nước lợ và vùng
nước mặn. Tại vùng nước lợ - mặn có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nghề nuôi
trồng và đánh bắt thủy sản.
2.3.2 Đặc điểm về kinh tế và xã hội
Bến Tre là tỉnh có nhiều lợi thế về nguồn lợi thủy sản, với 65km chiều dài bờ biển nên

thiệt hại lớn cho người nuôi tôm, nhiều hộ đã chuyển đổi diện tích sang nuôi tôm thẻ chân
trắng và đã mang lại hiệu quả kinh tế cao (Lê Đình Quốc Khánh, 2013).
14
2.3.4 Quy hoạch, định hướng nghề nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh ở tỉnh Bến
Tre
Hình 2.3 Quy hoạch nuôi tôm thẻ chân trắng đến năm 2020

Trích đoạn Phương pháp và thời gian cải tạo ao Mật độ và kích cỡ con giống tôm thẻ chân trắng thả nuôi Đánh giá chất lượng hiệu quả của mô hình nuôi Đánh giá về tình hình sử dụng con giống trong nuôi tôm thẻ chân trắng ở Bến Tre
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status