nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển của một số dòng, giống đậu tương nhập nội tại hà giang - Pdf 24

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
o0o LÊ THỊ HẰNG

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG,
PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ DÒNG, GIỐNG
ĐẬU TƯƠNG NHẬP NỘI TẠI HÀ GIANG
Chuyên ngành: TRỒNG TRỌT
Mã số: 60 62 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NHIỆP

ĐẬU TƯƠNG NHẬP NỘI TẠI HÀ GIANG

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

HÀ GIANG – 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa có ai công bố trong bất kỳ công


Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của
cô giáo hướng dẫn, cơ quan chủ quản, các cá nhân trong và ngoài nước. Tôi
xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Luân Thị Đẹp, với cương vị người hướng dẫn
khoa học đã tận tâm hướng dẫn tôi trong suốt thời gian tôi thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Đào tạo Sau
Đại học, khoa Nông học, trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, những
người đã truyền thụ cho tôi những kiến thức và phương pháp nghiên cứu quý
báu trong suốt thời gian tôi học tập tại trường.
Và cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp, những người luôn quan tâm giúp đỡ trong suốt thời gian tôi học
tập và nghiên cứu vừa qua.
Xin chân thành cảm ơn!

Hà Giang, ngày 10/9/2011
LÊ THỊ HẰNG
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài: 1
2. Mục đích của đề tài: 2
3. Yêu cầu của đề tài: 2
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài 3
1.1.1. Cơ sở khoa học 3

3.5. Một số loại sâu hại chính và khả năng chống đổ của các dòng, giống đậu
tƣơng 50
3.6. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các dòng, giống đậu tƣơng
tham gia thí nghiệm. 52
3.6.1. Khả năng hình thành quả và hạt của các dòng đậu tƣơng 52
3.6.2. Năng suất thực thu của các dòng, giống đậu tƣơng tham gia thí nghiệm. 55
3.7. Hàm lƣợng Protein, Lipit của các dòng, giống đậu tƣơng thí nghiệm 57
3.8. Kết quả thử nghiệm các dòng đậu tƣơng có triển vọng trên đồng ruộng của
nông dân vụ Xuân 2011 58
3.8.1. Năng suất thực thu của các dòng, giống đậu tƣơng sản xuất thử trên đồng
ruộng nông dân vụ Xuân năm 2011. 58
3.8.2. Đánh giá của ngƣời dân đối với các dòng, giống đậu tƣơng sản xuất thử trên
đồng ruộng nông dân vụ Xuân năm 2011. 60
CHƢƠNG IV: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 62
4.1. Kết luận 62
4.2. Đề nghị 63
Tµi liÖu tham kh¶o 64
TÀI LIỆU NƢỚC NGOÀI 66
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1: Tình hình sản xuất đậu tƣơng trên thế giới giai đoạn 2005- 2010 4
Bảng 1.2. Tình hình sản xuất đậu tƣơng ở Mỹ giai đoạn 2005- 2009. 5
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất đậu tƣơng ở Brazil giai đoan 2005- 2009 6
Bảng 1.4. Tình hình sản xuất đậu tƣơng của Achentina 7
Bảng 1.5. Tình hình sản xuất đậu tƣơng ở Trung Quốc giai đọan 2005- 2009 8
Bảng 1.6. Tình hình sản xuất đậu tƣơng ở Việt Nam giai đoạn 2005- 2010 16
Bảng 1.7. Số lƣợng mẫu giống đậu tƣơng đƣợc nhập nội giai đoạn 2001- 2005 17
Bảng 1.8. Các giống đậu tƣơng đƣợc tuyển chọn từ nguồn vật liệu nhập nội 18

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

1
PHẦN MỞ ĐẦU
ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây đậu tương (tên khoa học Glycine max.L) thuộc cây họ đậu, là cây
công nghiệp ngắn ngày. Nó được xem là “cây thần diệu”, còn được ví là
“vàng mọc từ đất” sở dĩ cây đậu tương được đánh giá cao như vậy là do hạt
đậu tương chứa nhiều chất dinh dưỡng quan trọng. Các phân tích sinh hoá
cho thấy rằng hạt đậu tương chứa từ 38% - 45%, Protein, 18 % - 22% lipit,
nhiều vitamin và khoáng chất. Trong hạt đậu tương có chứa đầy đủ và cân đối
các loại axít amin, đặc biệt là các axit amin không thể thay thế cần thiết cho
cơ thể con người như: Triptophan, leuxin, valin, lizin, methiomin. Ngoài ra
còn có các muối khoáng như: Ca, Fe, Mg, Na, P, K…, các vitamin B1, B2, D,
K, E…. Đậu tương còn được chế biến thành 600 loại thực phẩm khác nhau,
bao gồm các loại thức ăn cổ truyền: đậu phụ, tương chao, sữa đậu nành tới
các loại thực phẩm, chế phẩm hiện đại như: Kẹo, bánh đậu tương, bacon đậu
tương, hotdogs đậu tương, đậu hũ cheese, các loại thịt nhân tạo (Trần Đình
Long, 2000) [10] tất cả các loại sản phẩm đều thơm ngon và có giá trị dinh
dưỡng cao.
Kết quả nghiên cứu của Bùi Tường Hạnh, 1997 [7] cho thấy trong hạt
đậu tương có chất IZOFLAVONE có tác dụng làm giảm đáng kể lượng
Cholesterol trong máu khi sử dụng sản phẩm làm từ đậu tương. Trong công
nghiệp dầu đậu tương được sử dụng làm si, sơn, mực in, xà phòng, chất dẻo,
cao su nhân tạo Đậu tương còn cung cấp nguyên liệu cho ngành chế biến
thực phẩm dược, ngành công nghiệp ép dầu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


3
CHƢƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
1.1.1. Cơ sở khoa học
Sản xuất nông nghiệp dựa trên cơ sở áp dụng một cách khoa học giữa
các yếu tố giống, phân bón, nước, kỹ thuật thâm canh, đồng thời bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên, tránh ô nhiễm môi trường. Trong đó, giống là yếu tố quan
trọng hàng đầu, sử dụng giống tốt có năng suất cao, chất lượng tốt, chống chịu
với điều kiện bất thuận và sâu, bệnh hại, có khả năng cải tạo và bảo vệ đất,
hạn chế ô nhiễm môi trường là mục tiêu quan trọng của việc phát triển một
nền sản xuất nông nghiệp tiên tiến, có tính bền vững cao.
Đậu tương được sản xuất với các mục tiêu khác nhau. Cho nên công tác
giống cần tập trung vào một số mục tiêu:
- Chọn tạo giống cho năng suất cao phù hợp với điều kiện sinh thái của
từng vùng.
- Chọn tạo giống cho chất lượng hạt tốt phục vụ ngành công nghiệp chế
biến xuất khẩu.
- Chọn tạo giống có hàm lượng dầu cao phục vụ chương trình sản xuất
dầu thực vật.
Điều kiện khí hậu, đất đai của Việt Nam rất thuận lợi cho cây đậu
tương sinh trưởng và phát triển. Tuy nhiên, đây cũng là điều kiện thuận lợi
cho sự phát sinh, phát triển của các loài sâu, bệnh hại. Bởi vậy, khi sản xuất
cần phải áp dụng các biện pháp canh tác thích hợp, nhằm phát huy, khai thác
tối đa tiềm năng năng suất của giống.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

4
1.1.2. Cơ sở thực tiễn

23,82
221,50
2007
94,90
24,36
219,70
2008
96,87
23,84
230,95
2009
99,50
22,43
223,18
(Nguồn: FAOSTAT Database,201 [28]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

5
Số liệu bảng 1.1 cho thấy sản xuất đậu tương trên thế giới tăng lên cả
về diện tích và sản lượng. Diện tích trồng đậu tương giai đoạn 2005- 2009
tăng dần từ 91,39 triệu ha năm (2005), tăng dần qua các năm và đạt 99,50
triệu ha (năm 2009) tăng 8,11 triệu ha. Năng suất đậu tương biến động từ
22,43- 24,36 tạ/ha. Trong đó năm 2009 năng suất đậu tương thế giới đạt thấp
nhất (22,43 tạ/ha) nguyên nhân là do điều kiện khí hậu biến đổi, gây hạn hán,
ngập úng, sâu bệnh đã làm giảm năng suất đậu tương của thế giới. Mặc dù
năng suất đậu tương giảm nhưng diện tích tăng nhanh nên sản lượng đậu
tương trên thế giới năm 2009 vẫn đạt 223,18 triệu tấn.
Trước năm 1970 chỉ có Mỹ và Trung Quốc là hai nước sản xuất đậu
tương lớn nhất thế giới. Tốc độ phát triển đậu tương ở Mỹ nhanh hơn Trung
Quốc. Sản lượng đậu tương của Mỹ trên thế giới tăng từ 60% năm 1960 lên

(Nguồn: FAOSTAT Database,2011) ) [28]
Trong vòng 5 năm trở lại đây diện tích đậu tương của Mỹ có sự giảm
xuống đáng kể từ 30,19 triệu ha năm 2006 xuống 28,84 triệu ha năm 2009,
sản lượng đạt cao nhất năm 2006 đạt trên 87 triệu tấn, đây là năm mà nước
Mỹ đạt đỉnh cao cả về diện tích cũng như năng suất và sản lượng, khẳng định
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

6
vị trí số một của mình về sản xuất đậu tương. Tới năm 2009 năng suất đậu
tương của Mỹ giảm gần 1 tạ/ha so với năm 2006, do đó sản lượng đậu tương
giảm còn 82,82 triệu tấn.
Braxin là nước đứng thứ 2 ở châu Mỹ và cũng đứng thứ 2 trên thế giới
về diện tích và sản lượng đậu tương. Năm 2000, Braxin sản xuất đậu tương
chiếm 18,5% về diện tích và 20,1% về sản lượng trên thế giới. Tình hình sản
xuất đậu tương của Brazil trong 5 năm gần đây được trình bày ở 1.3.
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất đậu tƣơng ở Brazil giai đoan 2005- 2009
Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(triệu tấn)
2005
22,94
22,30
51,18
2006
22,04
23,79


Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
2005
14,032
27,28
38,300
2006
15,130
26,80
40,460
2007
15,981
29,71
47,482
2008
16,387
28,21
46,238
2009
16,767
18,48
30,993
(Nguồn: FAOSTAT Database,2011) ) [28]
Năm 2009 diện tích trồng đậu tương của Achentina tăng khoảng 4 triệu

15,500
2007
8,753
14,54
12,725
2008
9,127
17,03
15,545
2009
9,190
16,30
14,981
(Nguồn: FAOSTAT Database,2011) [28]
Trong vòng 5 năm 2005- 2009 diện tích sản xuất đậu tương của Trung
Quốc tương đối ổn định, năm 2009 diện tích giảm so với năm 2005 gần
400.000 ha nhưng năng suất vẫn đạt 16,30 tạ/ha. Diện tích sản xuất đậu tương
giảm kéo theo sản lượng cũng giảm đáng kể từ 16,350 triệu tấn năm 2005
xuống còn 14,981 triệu tấn năm 2009 giảm trên 1 triệu tấn.
1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống đậu tƣơng trên thế giới
Hiện nay nguồn gen đậu tương được lưu giữ ở 15 nước trên thế giới:
Đài Loan, Australia, Trung Quốc, Pháp, Nigeria, Ấn Độ, Inđônêxia, Nhật
Bản, Triều Tiên, Nam Phi, Thụy Điển, Thái Lan, Mỹ và Liên Xô (cũ) với
tổng số 45.038 mẫu (Trần Đình Long, 2005) [13].
Thí nghiệm quốc tế về đánh giá giống đậu tương thế giới (ISVEX) lần
thứ nhất vào năm 1973 đã tiến hành với quy mô là 90 điểm thí nghiệm được
bố trí ở 33 nước đại diện cho các đới môi trường. Kết quả nghiên cứu cho
thấy: Trong phạm vi các địa điểm thí nghiệm từ xích đạo đến vĩ tuyến 30
0


trong 5 đặc tính cho các giống của Mỹ như: Protein, axit oleic và axit
Linolenic bởi giá trị khả năng kết hợp chung và giá trị di truyền cho Protein,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

10
dầu, axit oleic và axit Linolenic, Protein tổng số và sản lượng dầu tổng số/đơn
vị diện tích là cao, chọn những điểm đó sẽ đạt được ở thế hệ F2
Đài Loan bắt đầu chương trình chọn tạo giống đậu tương từ năm 1961
và đã đưa vào sản xuất các giống Kaoshing 3, Tai nung 3, Tai nung 4, cho
năng suất cao hơn giống khởi đầu và vỏ quả không bị nứt. Đặc biệt giống Tai
nung 4 được dùng làm nguồn gen kháng bệnh trong các chương trình lai tạo
giống ở các cơ sở khác nhau như trạm thí nghiệm Major (Thái Lan), Trường
Đại học Philippin (Vũ Tuyên Hoàng và các cs, 1995) [8].
Ấn Độ tiến hành khảo nghiệm các giống địa phương và nhập nội tại
trường Đại học tổng hợp Pathaga. Tổ chức AICRPS (The India Coordinated
Research Rroject on Soybean) và NRCS (National Research Center for
Soybean) đã tập trung nghiên cứu và phát hiện ra 50 tính trạng phù hợp với
khí hậu nhiệt đới, đồng thời phát hiện những giống chống chịu cao với bệnh
khảm virus (Brown D. M., 1960)[23].
Thái lan với sự phối hợp giữa hai trung tâm MOAC và CGPRT nhằm
cải tiến giống có năng suất cao, chống chịu với một số bệnh hại chính (gỉ sắt,
sương mai, vi khuẩn,…) đồng thời có khả năng chịu được đất mặn, chịu được
hạn hán và ngày ngắn (Judy W. H. and Jackobs J. A., 1979) [25].
Tại Indonesia các nhà nghiên cứu chọn tạo nhằm mục đích cải tiến
giống có năng suất cao trồng được ở vùng đất thấp sau vụ thu hoạch lúa, với
thời gian sinh trưởng ngắn khoảng 70- 80 ngày, chống chịu bệnh gỉ sắt và có
hạt dạng thon dài. 13 giống có năng suất cao đã được tạo ra và được khuyến
cáo gieo trồng trong đó có giống Wilis được trồng phổ biến nhất, giống này
có thời gian sinh trưởng 85 ngày, năng suất bình quân đạt 25 tạ/ha. Việc cải
tiến giống đã góp phần đưa năng suất đạt 25 tạ/ha, giống có thời gian sinh

có mối tương quan thuận chắc chắn với thời gian sinh trưởng và khối lượng
hạt. Khi nghiên cứu hệ số tương quan kiểu hình và di truyền của mười một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

12
tính trạng số lượng ở ba tổ hợp lai đậu tương cũng cho thấy năng suất hạt có
mối quan hệ với thời gian sinh trưởng, số cành/cây, số quả/cây, số hạt/quả và
hàm lượng dầu trong hạt, số đốt/cây có hệ số tương quan di truyền thuận với
năng suất hạt. Ở kết quả nghiên cứu khác, năng suất có tương quan thuận với
số quả/cây (0,72); Khối lượng 1000 hạt (0,255) và thời gian sinh trưởng
(0,16) –Banadjanegara và Umar (1998) [21].
Hiện nay, công tác nghiên cứu về giống đậu tương trên thế giới đã được
tiến hành với qui mô rộng lớn. Nhiều tập đoàn giống đậu tương đã được tổ
chức quốc tế khảo nghiệm ở rất nhiều vùng sinh thái khác nhau nhằm thực
hiện một số nội dung chính: thử nghiệm tính thích nghi của giống ở từng điều
kiện, môi trường khác nhau nhằm so sánh ưu thế của giống địa phương và
giống nhập nội, đánh giá phản ứng của các giống trong những điều kiện môi
trường khác nhau.
Đã có nhiều thành công trong việc xác định các dòng, giống tốt có tính ổn
định và khả năng thích ứng khác nhau với các điều kiện môi trường khác nhau.
Buitrago và cs (1971) [22] đã xác định được một số giống có khả năng thích ứng
rộng với tất cả các môi trường nghiên cứu, song có một số giống lại chỉ thích
ứng với môi trường riêng rẽ khi nghiên cứu 14 dòng, giống qua bốn vụ.
Tại Braxin các kết quả nghiên cứu của Silva và cs (1970) [34] cho thấy
có những giống chỉ cho năng suất cao ở môi trường thuận lợi và ngược lại.
Qua thực nghiệm Santos và Vieira đã xác định được bốn giống đậu tương có
năng suất cao và ít nhạy cảm với sự thay đổi của điều kiện môi trường, và ba
giống có tính ổn định trung bình ở tất cả các điều kiện môi trườ ng nhưng có
năng suất thấp hơn trung bình.
Khi nghiên cứu sáu giống đậu tương, Rohwal (1970) [32] đã tìm được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

14
Khi tiến hành nghiên cứu khả năng cho năng suất của đậu tương với
những cặp bố mẹ khác nhau về hàm lượng Protein tại Mỹ, Hartwig E.E và
KilenT.C (1992) [26] cho rằng năng suất đậu tương thường không kết hợp gì
với Protein thô. Mục đích việc nghiên cứu nhằm xác định sự kết hợp sẽ xảy ra
rất ít bằng sự tạp giao của những dòng có hàm lượng Protein cao và bình
thường còn năng suất hạt như nhau. Thế hệ F2 của 1.000 cây đã trưởng thành,
cây được thu hoạch riêng và xác định hàm lượng dầu sử dụng kỹ thuật cộng
hưởng sức hút hạt nhân. Hai phần quần thể được phát triển: một phần gồm
8% hàm lượng dầu cao nhất và phần kia 8% hàm lượng dầu thấp nhất. Với sự
tương quan nghịch giữa Protein thô và dầu, thì quần thể có hàm lượng dầu
thấp chắc chắn sẽ cung cấp những dòng tập trung Protein cao. Lấy 200 cây từ
hai quần thể trên, tiếp tục như vậy làm với F6, F7 thu được mười tám dòng có
hàm lượng đạm cao nhất và tiếp tục dùng mười tám dòng này để đánh giá
trong năm môi trường cho năng suất hạt, dầu và Protein, thì thấy năng suất hạt
trung bình giảm 6% ở hầu hết các dòng có hàm lượng Protein cao so với
dòng có hàm lượng dầu cao. Mặc dù, khi so sánh năng suất hạt của hai dòng
có hàm lượng dầu và Protein cao nhất trong cùng môi trường, cho thấy những
dòng có hàm lượng Protein cao cho năng suất tăng 1%, 18% Protein thô và
giảm 20% dầu. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng tiềm năng cho năng suất ở
những dòng đậu tương có hàm lượng dầu cao và Protein cao là tương đương.
Bằng việc ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo giống cây trồng
người ta đã tạo ra được các giống cây đậu tương vượt trội về năng suất. Hiện
nay, hầu hết các giống đậu tương được trồng ở Mỹ là cây biến đổi gen. Giống
đậu tương oleic axit là giống chuyển gen có hàm lượng axit oleic tới 80%, đây
là giống có triển vọng thoả mãn nhu cầu dầu ăn của con người. Các giống này
hiện đang được trồng ở Australia, Canada, Nhật Bản, Mỹ …



16
Bảng 1.6. Tình hình sản xuất đậu tƣơng ở Việt Nam
giai đoạn 2005- 2010
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(tấn)
2005
204.100
14,341
292.700
2006
185.600
13,906
258.100
2007
187.400
14,701
275.500
2008
191.500
14,026
268.600
2009
146.200
14,610

Tên cơ quan nhập
Số lƣợng nhập
1
Viện KHKTNNVN
177
2
Viện Di truyền NN
19
3
Viện KHKTNNMN
67
4
Trường Đại học Cần Thơ
277
Tổng số
540
( Nguồn: Trần Đình Long và các cs, 2005) [13].
Nguyễn Thị Út (2006) [16] nghiên cứu tập đoàn quỹ gen đậu tương
gồm 330 mẫu giống đậu tương thu thập tại Việt Nam và nhập nội, căn cứ vào
thời gian sinh trưởng đã phân lập chúng thành 5 nhóm giống. Tác giả cũng đã
xác định được một số giống có các đặc tính quý làm vật liệu cho công tác
chọn giống.
Tổng hợp các nguồn tài liệu của Trần Đình Long và các cs (2005) [13],
Trần Đình Long và Nguyễn Thị Chinh (2006) [14] cho biết: Trong giai đoạn
2001- 2005 các nhà chọn tạo giống đậu tương của Việt Nam đã tiến hành
khảo sát được 9482 lượt mẫu giống đậu tương và đã xác định được 83 mẫu
giống có các đặc tính quý là 4 giống có TGST cực sớm dưới 72 ngày; 6 giống
có năng suất cá thể cao; 30 dòng kháng bệnh phấn trắng; 25 dòng kháng bệnh
gỉ sắt. Theo tác giả giai đoạn này các nhà chọn tạo giống đậu tương của Việt


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status