Nghiên cứu, đề xuất giải pháp công trình hợp lý cho kè bờ tả sông lam - Pdf 25

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Sạt lở bờ sông, xói, bồi lòng sông là hiện tượng tự nhiên nằm trong quy luật
vận động của dòng sông - đây là hiện tượng đã, đang và sẽ còn diễn ra. Tuy nhiên,
do sự biến đổi khí hậu toàn cầu, thời tiết diễn biến bất thường theo chiều hướng cực
đoan và các tác động của con người, sạt lở, xói bờ sông đã trở thành hiện tượng
thiên tai, đe doạ đến an toàn đê điều, đe doạ đến tính mạng tài sản nhân dân.
Sông Cả là một lưu vực lớn ở vùng Bắc Trung Bộ, có diện tích lưu vực
27.200 km2 phân bố trên lãnh thổ 2 quốc gia: Việt Nam và CHDCND Lào. Ở Việt
Nam sông Cả nằm trên địa giới hành chính của 3 tỉnh: Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh
Hoá. Phần lưu vực sông Cả và vùng chịu ảnh hưởng của lũ sông Cả thuộc địa phận
tỉnh Nghệ An có diện tích khoảng 15.030 km2 chiếm trên 55% diện tích toàn lưu
vực, với dân số hiện nay khoảng 2,1 triệu dân sinh sống từ đồng bằng, trung du đến
miền núi và có 8 dân tộc anh em sinh sống, trong đó 90% dân tộc Kinh.
Sông Cả là con sông quan trọng nhất cung cấp nguồn nước cho các hoạt
động kinh tế xã hội của tỉnh Nghệ An và tạo nên những vùng đất màu mỡ cho phát
triển nông nghiệp. Có thể nói đây là một tài nguyên rất quan trọng trong đời sống
xã hội và là cơ sở vật chất để phát triển kinh tế tỉnh Nghệ An nói riêng và các tỉnh
khác nằm trong lưu vực nói chung. Tuy nhiên sông Cả cũng gây không ít thiệt hại
cho nền kinh tế của tỉnh. Những trận lũ lớn xảy ra vào các năm 1978, 1988, 2002,
2007, 2010 đã gây tổn thất nặng nề cho nền kinh tế, xã hội trên lưu vực. Qua các
trận lũ gần đây cho thấy:
Mức độ ngập lụt ngày càng tăng, lũ xảy ra ngày càng lớn và rất phức tạp.
Đời sống xã hội ngày càng được nâng cao, của cải của dân nhiều nên khi bị
lụt, vỡ đê thiệt hại ngày càng tăng.
Hệ thống công trình phòng chống lũ chưa đủ đảm bảo an toàn, chắc chắn khi
gặp lũ lớn, nguyên nhân chính:
2
+ Các giải pháp công trình gia cố kè bờ sông chưa có hoặc chỉ mới có một số
đoạn chưa đảm bảo yêu cầu kỹ thuật.

Nghiên cứu tổng quan lý thuyết và thực tiễn, ứng dụng vào phân tích và đánh
giá hiện trạng kè bờ tả sông Lam;
Ứng dụng khung phân tích Đa tiêu chí để đánh giá các giải pháp công trình
và lựa chọn giải pháp hợp lý trong công tác chống sạt lở bờ tả sông Lam.
Sử dụng mô hình toán SLOPE/W phân tích ổn định giải pháp lựa chon;
4. Kết quả dự kiến đạt được.
Đánh giá được hiện trạng, phân tích nguyên nhân các hư hỏng của hệ thống
đê, kè bờ sông tỉnh Nghệ An.
Phân tích được nguyên nhân và các yếu tố tác động đến hiện tượng sạt lở bờ
sông khu vực bờ tả sông Lam
Xây dựng bộ tiêu chí và khung đánh giá Đa tiêu chí, để đánh giá các giải
pháp công trình kè chống sạt lở bờ sông nói chung và hệ thống đê, kè bờ tả sông
Lam nói riêng.
Đề xuất các giải pháp và lựa chọn giải pháp công trình hợp lý nhằm đảm bảo
an toàn xói lở cho bờ sông, giảm nhẹ thiên tai do ảnh hưởng của sự biến đổi khí hậu
toàn cầu.
Kiến nghị giải pháp công trình hợp lý cho kè bờ tả sông Lam.
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CÁC GIẢI PHÁP CÔNG TRÌNH BẢO VỆ BỜ SÔNG
1.1. Tổng quan về công trình bảo vệ bờ sông
1.1.1. Một số đặc điểm chung
Là công trình nằm ở ven sông, nơi thường có địa chất nền yếu, chịu tác động
của mực nước và dòng chảy sông, thay đổi theo mùa và theo thời gian.
Công trình bảo vệ bờ sông được xây dựng, củng cố, duy tu, bảo dưỡng qua
các thời kỳ lịch sử.
Chịu nhiều yếu tố tác động của tự nhiên mang yếu tố ngẫu nhiên, bất định,

Long- Hà Nội ngày ngay) để bảo vệ dân cư và sản xuất. Đến thế kỷ 13, thời Nhà
Trần, công cuộc đắp đê đã đạt được thành tựu lớn, đê sông Hồng đã nối dài từ Việt
Trì ra biển.
Trải qua nhiều thời kỳ, cho đến nay, hệ thống đê vẫn tồn tại và giữ vững. Hệ
thống đê vẫn là chiến lũy trên trận tuyến ngăn lũ, chống lụt bảo vệ tính mạng, tài
sản của cải của nhân dân các vùng đồng bằng. Theo thống kê năm 1986 cả nước có
5716 km đê sông và 2048 km đê biển. Hiện nay, trên cả nước có khoảng 8400 km
đê, trong đó có 6000 km đê sông và 2400 km đê biển.
1.1.5. Công tác xây dựng đê điều ở tỉnh Nghệ An qua các giai đoạn
Giai đoạn trước cách mạng tháng 8 năm 1945
Đê điều của Nghệ An đã được hình thành từ rất sớm, các công trình đê điều
được xây dựng nhiều bắt đầu từ năm 1928. Tuyến đê Tả Lam đoạn từ Nam Đàn đến
Bến Thuỷ được xây dựng từ năm 1928. Các công trình đê điều đã được xây dựng
không đồng bộ, không mang tính thống nhất, tính hệ thống mà chỉ được xây dựng
phục vụ cho việc phòng chống lụt bão cho một vùng, một địa phương. Quy mô,
kích thước của công trình đê điều ngày càng được nâng cấp theo yêu cầu của công
tác phòng chống lũ lụt, đời sống nhân dân. Chất lượng các công trình không đảm
6
bảo do việc đắp đê được tiến hành bằng thủ công. Tuyến đê được chú ý và quan
tâm đầu tư nhất là tuyến đê 42 từ Nam Đàn đến Bến Thuỷ, dưới tuyến đê này có rất
nhiều cống tiêu, khoảng từ 500m đến 2000m có một cống tiêu. Tuyến đê ngày càng
được nâng cấp, tôn cao, mở rộng và theo yêu cầu tiêu úng cho từng vùng thay đổi
nên các cống dưới đê ngày càng ít về số lượng.
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954
Thiệt hại do lụt bão gây ra: Trong thời kỳ này lụt, bão đã gây ra nhiều thiệt
hại về tính mạng và tài sản trên địa bàn tỉnh Nghệ An, đã có 7 cơn bão và 13 trận lũ.
Đặc biệt là trận lũ năm 1954 đã gây nhiều thiệt hại về người, tài sản, cơ sở hạ tầng
cho nhân dân trong tỉnh. Khối lượng vỡ đê năm 1954:
- Đê 42: Nam Đàn + Hưng Nguyên: 60.766 m3
- Đê Cẩm Thái: 690 m3

ngăn mặn Phú Lương, đắp đê ngăn mặn La Nham, đắp đê Quỳnh Tân, Quỳnh Yên,
cũng cố đê Quỳnh Phương huyện Quỳnh Lưu; 1950 làm mới một cống 2 cửa bằng
gỗ ở đê xã Tân Sơn. Năm 1951 chỉ tiêu đắp đê do dân công các huyện làm tự túc,
huyện Anh Sơn 1.100m3, huyện Yên Thành 8.700m3, huyện Diễn Châu 2.340m3,
huyện Quỳnh Lưu 2.454m3
Kết quả:
Đắp đê 42 đến hết năm 1954 là: 278.192 m3. Sau đó tiếp tục đắp các đê Cẩm
Thái, Đồng Văn, Nam Trung, Chợ Tràng, Bến Thủy, Hưng Phong. Số người đắp
8.581 người trên tuyến dài 60 km, khối lượng 554.836 m3 đất
Xây kè Nam Trung, Cẩm Thái, Chợ Vực, kết quả đá xây lát 10.102 m3.
Xây cống Văn Viên, Mỹ Dụ, Hưng Hòa, Hưng Lợi và nối cống Đồng Văn
với 386 m3 bê tông vượt mức 115% kế hoạch - Theo báo cáo của Trưởng ty Công
chánh Nghệ An đến ngày 3/10/1954 đã hoàn thành toàn bộ khối lượng trên.
Ước tính theo thống kê chưa đầy đủ khối lượng xây dựng công trình đê điều
từ năm 1945 đến 1954:
Đất: 854.037 m3
8
Đá: 10.102 m3
Bê tông: 386 m3
Việc xử lý 20 chỗ vỡ của đê 42: Trận lũ năm 1954 đã gây vỡ 20 đoạn thuộc
đê 42, các vị trí vỡ lớn là đoạn đê thuộc khu vực đền Vua Lê xã Hưng Khánh, chợ
Liễu xã Hưng Lĩnh, đoạn đê thuộc xã Hưng Xuân, xã Hưng Lam huyện Hưng
Nguyên và đoạn đê Bàu Sen huyện Nam Đàn. Để xử lý, hàn gắn các đoạn đê đã bị
vỡ thuộc đê 42, nhân dân tỉnh Nghệ An nhất là nhân dân vùng Hưng Nguyên, Nam
Đàn, Thành phố Vinh đã huy động sức người, sức của để thực hiện việc đắp đê.
Chính quyền tỉnh Nghệ An đã tranh thủ sự ủng hộ của nhà nước, sự đóng góp công
sức của Bộ đội Miền Nam tập kết ra Bắc (theo hiệp định Genever). Hậu quả do vỡ
đê 42 gây ra đã để lại hết sức nặng nề cho nhân dân trong vùng chịu ảnh hưởng trực
tiếp của trận lũ. Nước lũ đã cuốn đi tài sản, nhà cửa, cơ sở hạ tầng, nhân dân phải
chịu đói, chịu rét. Để khắc phục nhanh chóng hậu quả của trận lũ này, tỉnh Nghệ An

đê bao nội đồng thuộc huyện Yên Thành.
Các kè và mỏ hàn được làm mới và sửa chữa: kè Cẩm Thái, Đồng Văn,
Phượng Kỷ, Nam Trung, Hưng Xuân, Chợ Vực (Hưng Xá).
Các cống được làm mới và tu sửa, nối dài: Cống Văn Viên (Hưng Khánh),
Mỹ Dụ (Hưng Châu), Hưng Lợi, Hưng Hoà, Đồng Văn
Khối lượng thực hiện trong giai đoạn từ năm 1955 đến 1965:
Đất: 6.890.651 m3
Đá: 112.351 m
3

Bê tông: 6.370 m
3

Ngày công: 10.132.000 ngày
Tiền: 35.522.000.000 đồng (theo thời giá)
Giai đoạn từ năm 1966 đến năm 1975
Trong thời kỳ chiến tranh phá hoại, nhằm đối phó với hậu quả có thể xảy ra
10
do máy bay địch ném bom vào các trọng điểm đê điều, tại các trọng điểm này đều
được đắp từ 1-2 tuyến đê dự phòng về sau như trọng điểm Hưng Xuân và một vài
trọng điểm khác. Việc xây dựng đê điều trong giai đoạn này được tiến hành chủ yếu
là củng cố, tu sửa, bảo vệ các tuyến đê, kè, cống. Lực lượng tham gia đắp đê chủ
yếu là nhân dân địa phương và bộ đội tham gia đắp đê trong thời gian chờ đợi vào
chiến trường Miền Nam diệt giặc.
Khối lượng thực hiện:
+ Đất: 3.874.025 m
3

+ Đá: 75.629 m
3

3

+ Công: 3.682.000 ngày
+ Kinh phí: 18.450.000.000 đồng (theo thời giá)
Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2010
Đây là thời kỳ đổi mới của đất nước. Việc đầu tư kinh phí Trung ương, của
tỉnh cho việc xây dựng đê điều ngày càng được tăng lên hàng năm. Tỉnh Nghệ An
đã thực hiện xong dự án đường du lịch ven sông Lam (từ K58 đến K104 đê Tả
Lam) thời gian thực hiện từ năm 2005 đến 2010 và đã đầu tư nhiều dự án cho công
tác xây dựng công trình đê điều.
Các tuyến kè được làm mới và nâng cấp: Kè Phượng Kỷ, Cẩm Thái, Xuân
Hoà, Hồng Long, Hưng Xuân, Hiệu Mỹ (Hưng Lam), Hưng Lĩnh, Hưng Lam, Phú -
Khánh, Hưng Lợi, Làng Đỏ, Rào Đừng và hệ thống kè trên các tuyến đê Quỳnh
Lộc, Quỳnh Thuận, Quỳnh Long, Sơn Hải, Bãi Ngang, Trịnh Môn - An Hoà -Tả
Thái, Quỳnh Dị, huyện Quỳnh Lưu; đê Kim - Hải - Hùng, Diễn Thành, Trung -
Thịnh - Thành, Bích - Kỷ - Vạn - Ngọc, huyện Diễn Châu; kè đê La Vân (Nghi
Yên), kè Thượng Xá, kè Nghi Hải, huyện Nghi Lộc.
1.2. Đánh giá tổng quan hiện trạng sạt lở tại các khu vực bờ sông
Cùng với bão, lũ lụt, sạt lở bờ sông đang là vấn đề lớn của nhiều nước trên
thế giới. Sạt lở bờ sông là một quy luật tự nhiên nhưng gây thiệt hại nặng nề cho
các hoạt động dân sinh kinh tế vùng ven sông như gây mất đất sản xuất nông
nghiệp, hư hỏng nhà cửa, chết người, thậm chí có thể hủy hoại toàn bộ một khu dân
cư, đô thị.
Cũng như nhiều nước trên thế giới, sạt lở bờ sông cũng đang là vấn đề lớn
bức xúc hiện nay ở nước ta. Sạt lở bờ diễn ra ở hầu hết các triền sông và ở hầu hết
12
các địa phương có sông. Sạt lở bờ sông ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế và xã hội
của địa phương. Ở vùng hạ lưu hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình, hệ thống sông
ngòi miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long, vì dòng sông mang nhiều bùn cát
lại chảy trên một nền bồi tích rất dễ xói bồi nên quá trình xói lở - bồi lắng diễn ra

m đến 3 m so với mặt lộ hiện hữu. Nguyên nhân được xác định là do đoạn lộ trên
có nền đất yếu cộng với việc nạo vét lấy đất dưới lòng sông để làm tuyến đê bao
chống lũ nên đã gây ra sự cố trên. Tháng 7/2013, tại kênh Cống Đá, xã Tân Thành
xảy ra sạt lở với chiều dài khoảng 10 m.
Còn tại huyện Châu Thành, tính từ đầu năm 2013 đến tháng 8/2013 đã có sạt
lở 23 điểm với chiều dài trên 600 m, ước thiệt hại trên 700 triệu đồng. Ngoài các
tuyến kênh lớn như Mái Dầm, Ngã Sáu, Cái Côn thì các tuyến kênh nội đồng cấp 2,
cấp 3 cũng bị sạt lở nghiêm trọng. Đây là những con lộ đồng thời là đê bao khép kín
để bảo vệ lúa, hoa màu, cây ăn trái trong mùa mưa lũ.
Theo ghi nhận của các cơ quan chức năng, nguyên nhân chính của sạt lở là
do ảnh hưởng dòng chảy, gây xoáy hàm ếch. Bên cạnh đó, ở nhiều nơi, do người
dân tự ý thuê xe cuốc múc đất dưới sông, sát bờ để san lấp vườn, tôn nền nhà, đê
bao chống lũ. Mặc dù chính quyền địa phương đã nhiều lần cảnh báo nhưng bà con
vẫn chưa chấp hành nghiêm.
Hiện tượng sạt lở bờ sông Cần Thơ
Theo số liệu thống kê của ngành nông nghiệp tỉnh Cần Thơ, tính từ đầu năm
2013 đến hết tháng 7/2013, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 6 điểm sạt lở bờ sông lớn,
tập trung ở các nơi như quận Cái Răng, Thốt Nốt, Bình Thủy và huyện Phong Điền;
trong đó, có 2 vụ sạt lở đất nghiêm trọng, một vụ xảy ra ở xã Mỹ Khánh (huyện
Phong Điền) làm 5 căn nhà của dân chìm xuống sông và vụ sạt lở bờ kè đang xây
dựng ven sông Cần Thơ ở quận Cái Răng làm 56m kè sụp hoàn toàn xuống sông
gây thiệt hại trên 1,5 tỷ đồng. Ước tính tổng thiệt hại các vụ sạt lở đất từ đầu năm
đến nay trên địa bàn thành phố Cần Thơ là trên 2 tỷ đồng.
14
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Cần Thơ cho biết, ngoài 25
điểm có nguy cơ sạt lở cao trên địa bàn tỉnh Cần Thơ, trong mùa mưa lũ năm nay,
bất kỳ chỗ bờ sông nào cũng có nguy cơ sạt lở đất nên giải pháp phòng chống sạt lở
đất lâu dài, bền vững hạn chế thiệt hại cho người dân là phải di dời nhà cửa, phương
tiện, vật kiến trúc ra khỏi bờ sông. Ngành Nông nghiệp cùng với chính quyền các
địa phương đang vận động bà con di dời nhà cửa, vật kiến trúc ra khỏi các điểm có

mỏ hàn đang hoạt động tốt và 650m kè ghép mái; kè được xây dựng từ năm 1954
đến 1960; hiện tại mái kè nhiều chỗ bị bong xô song kè đảm bảo ổn định, chống lũ
có hiệu quả. Hiện nay, dòng chảy chủ lưu đã dịch chuyển sang phía bờ hữu.
+ Kè Hưng Lĩnh (Hưng Nguyên): Từ K68+250 đến K69+085; hình thức kè
lát mái; kè gồm 2 phần; phần 1 trực tiếp bảo vệ bờ sông hiện đã hư hỏng nhiều, cần
sửa chữa mái kè; phần 2 bảo vệ mái đê dài 759m, hiện tại mái kè ổn định.
+ Kè Hưng Xá (Hưng Nguyên): Từ K74+000 đến K74+600; gồm 4 mỏ hàn
bị mòn vẹt cả chân và mặt, 600m kè được xây dựng từ năm 1960; hiện nay đoạn kè
này đã bị bồi hoàn toàn; dòng chảy sông Lam đã dịch hẳn về phía bờ hữu cách đê
1.500m; hiện tại kè ổn định.
+ Kè Hưng Xuân (Hưng Nguyên): Từ K74+600 đến K77+720 gồm 6 mỏ hàn
đang hoạt động tốt và 3.120m kè lát mái. Phần thượng lưu cầu Yên Xuân, kè ổn
định do cầu Yên Xuân phía bờ hữu được mở rộng thêm 3 nhịp dài 198m phần kè hạ
lưu cầu bị sạt trượt nhiều đoạn, năm 2005 và năm 2006 đã đầu tư sửa chữa đoạn từ
Km 77+190 đến Km 77+720, hiện tại kè mới được sửa chữa nên ổn định, phần còn
lại bị sạt lở nghiêm trọng.
+ Kè Hưng Lam (Hưng Nguyên): Từ K78+100 đến K78+382 bảo vệ mái đê
đoạn Hưng Lam; chiều dài 282m; hình thức kè lái mái; kè này chỉ làm việc khi mực
nước lớn; hiện tại mái kè ổn định. Tuy nhiên, bờ sông Lam đoạn này đang bị xói lở
mạnh, cần bảo vệ bờ sông (bờ sông cách chân đê khoảng 10,20m).
+ Kè Hưng Phú (Hưng Nguyên): Từ K80+683 đến K81+700 gồm 4 mỏ hàn
16
làm việc tốt và 1.017m kè lát mái; hệ thống kè được xây dựng từ năm 1950, năm
1989 được sửa chữa, nâng cấp hiện tại kè làm việc ổn định. Vị trí kè Hưng Phú gần
với hợp lưu giữa sông Lam và sông La, dòng chảy có xu thế áp sát bờ đoạn từ mỏ
hàn số 3 đến mỏ hàn số 4, hiện nay trên bờ đối diện thuộc tỉnh Hà Tĩnh đã xây dựng
kè Đức Quang, hiện tại kè ổn định và phát huy tác dụng khá tốt, đã có hiện tượng
bồi dưới chân kè cần phải quan tâm tu bổ và đề phòng sự cố khi có lũ lớn. Năm
2007 dự án đường du lịch ven Sông Lam xây dựng 200m kè mái đê bằng tấm bê
tông từ K81+100 đến K81+300. Hiện tại mái kè ổn định làm việc tốt.

dẫn tới tắc nghẽn dòng chảy, đang là nỗi ám ảnh với hàng nghìn cư dân sống ven
con sông Lam. Nhiều năm qua, người nông dân xã Nam Cường (Nam Đàn) ngán
ngẩm khi mỗi năm đều phải mất cả trăm m2 đất nông nghiệp cho dòng sông Lam.
Khu vực đất sản xuất của bà con xóm 4 Nam Cường sát cầu đường sắt Yên Xuân bị
sạt lở nặng nhất. Cả một dải đất trù phú từ ngàn xưa với chiều dài hơn 3km đã bị sát
lở mép đường. Theo phản ánh của chính quyền địa phương, từ đợt mưa lũ năm
2011, tình trạng sạt lở xảy ra ngày càng nghiêm trọng.
Tính khoảng 10 năm trở lại đây, nước sông đã lấn vào bờ chừng 50m. Năm
2007, ngành đường sắt phải cho đóng một hàng cọc bê tông tổng chiều dài chừng 2km
để gia cố cho diện tích vùng đầu bờ. Thế nhưng nay sau 4 năm, hàng cọc trước đây
vốn được dựng trên diện tích đất sản xuất của bà con, đã nằm chơ vơ giữa lòng sông.
Trong đợt mưa lũ năm 2012, gần 50 hộ dân xóm Hòa Lam, xã Hưng Hòa (TP. Vinh)
luôn sống trong tình trạng thấp thỏm lo sợ nước lũ có thể nuốt chửng căn nhà bất cứ
lúc nào. Từ vài năm qua, tình trạng sạt lở đất ở đây đã diễn ra ngày càng nghiêm trọng.
Hình ảnh hiện trạng sạt lở bờ tả sông Lam xem hình PL.1, hình Pl.2, hình PL.3, hình
PL.4, hình PL.5, hình PL.6, hình PL.7, hình PL.8, hình PL.9, hình PL.10
Dưới đây là một vài hình ảnh về hiện tượng sạt lở bờ và khai thác cát trên
sông, uy hiếp đe doạ trực tiếp đến an toàn bờ sông, các tuyến đê và tính mạng tài
sản của nhân dân.
18

Hình 1.1. Hiện trạng sạt lở bờ sông Cần Thơ Hình 1.2. Hiện trạng sạt lở đoạn đê sông Hồng
Hình 1.3. Hiện trạng một đoạn bờ tả sông Lam
Hình 1.4. Hiện trạng một đoạn kè bờ sông Lam

20
trận lũ này thường có lưu tốc lớn và thời gian tập trung dòng chảy nhanh nên rất
nguy hiểm đối với các tuyến đê cũng như hệ thống kè bảo vệ bờ.
Thực trạng khai thác tài nguyên trái phép (khai thác cát, khai thác vàng) trên
các con sông ở nước ta rất khó kiểm soát.
Bất cập về công tác quản lý nhà nước trong quá trình khảo sát, thiết kế, thi
công, giám sát các công trình bảo vệ bờ.
Về khảo sát:
Sử dụng tài liệu khảo sát địa chất của các công trình cũ ở lân cận để thiết kế
thi công công trình, dẫn đến mất độ chính xác của tài liệu;
Tài liệu khảo sát không chi tiết, không tiến hành khảo sát địa chất những vị
trí xung yếu;
Người xử lý số liệu khảo sát địa hình (công tác nội nghiệp) chỉ xử lý trên
máy mà không ra thăm quan thực địa dẫn đến có sai sót mà không phát hiện ra.
Về thiết kế:
Đơn vị tư vấn thiết kế không đúng chuyên ngành, năng lực yếu kém.
Việc áp dụng các công nghệ tiên tiến, phần mền tính toán vào trong quá trình
thiết kế còn hạn chế.
Các tài liệu hướng dẫn thiết kế, tiêu chuẩn, quy phạm không được cập nhật
thường xuyên.
Về thi công:
Trình độ thi công còn non kém, đội ngũ công nhân chủ yếu là công nhân
chưa qua đào tạo, sử dụng các lao động thời vụ để thi công;
Biện pháp thi công chưa hợp lý, không tuân thủ nghiêm ngặt quy trình thi
công;
Công nghệ thi công lạc hậu, tiến độ không đảm bảo;
Khả năng ứng phó với các tình huống khẩn cấp khi xảy ra sự cố kém.
Về giám sát:
21
Đơn vị tư vấn giám sát không đúng chuyên ngành, năng lực yếu kém;

2.2. Tổng quan về công tác thiết kế công trình bảo vệ bờ sông
Hiện nay chưa có hướng dẫn thiết kế cụ thể nào, chỉ nằm rải rác một số tiêu
chuẩn thiết kế công trình bảo vệ bờ sông như:
TCVN 8419: 2010 Công trình thủy lợi - Thiết kế công trình bảo vệ bờ sông
để chống lũ;
Tiêu chuẩn ngành công trình bảo vệ bờ sông để chống lũ 14TCN 84-91
Để có được giải pháp công trình chống sạt lở bờ sông hợp lý, tại từng khu
vực khác nhau, trong các phần sau tác giả sẽ trình bày chi tiết và đánh giá các giải
pháp chống sạt lở thường gặp ở các bờ sông.

23
2.3. Giải pháp bằng rọ đá, thảm đá
2.3.1. Tổng quan về rọ đá
Dùng các loại vật liệu như dây thép, tre đan thành rọ hoặc sọt, bên trong bỏ
đá hộc, đá dăm, sỏi cuội…, được gọi là rọ đá. Rọ đan bằng dây thép có đường kính
từ 1 mm đến 2.5 mm thành những lưới mắt cáo dạng hình hộp, hình trụ có kích
thước 1x1x1m hoặc 2x1x1 m …, rọ đá bằng lưới thép có thể tích và trọng lượng
tương đối lớn.
Rọ đá và thảm đá được tạo thành từ các tấm lưới thép đan bằng máy, chuyên
được sử dụng trong các công trình bảo vệ bờ kè, phòng chống xói lở và các loại
tường chắn đất.
Các tấm lưới dùng tạo thành rọ được đan xoắn ba vòng tạo thành hình lục
giác, nhờ kết cấu này khi rọ đá bị đứt rời một mắc xích nào đó thì toàn bộ kết cấu rọ
và thảm đá không bị tách rời ra. Dây viền ngoài cùng của rọ và thảm đá được tạo
bởi các dây có đường kính lớn hơn rất nhiều giúp cho lưới thép được chắc chắn,
không bị co giãn.
Rọ đá thường xuyên phải tiếp xúc với nước nên lưới thép phải mạ kẽm có
bọc lớp PVC.

Hình 2.1. Lưới thép dùng làm rọ đá, thảm đá

Rọ
hình
Mạ
kẽm
2,4
2,7
Chế độ làm việc nhẹ, công trình tạm, khô ráo
Chế độ làm việc trung bình, khô ráo
25
Loại
rọ đá
Lớp
bảo vệ
Đường
kính
(mm)
Phạm vi áp dụng
khối
3,0 Chế độ làm việc nặng, khô ráo
PVC
2,4
2,7
3,0
Chế độ làm việc nhẹ, điều kiện khô và ẩm ướt
Chế độ làm việc trung bình, điều kiện khô và ẩm ướt
Chế độ làm việc nặng, điều kiện khô và ẩm ướt
Rọ
mỏn
g
Mạ


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status