Nghiên cứu đề xuất giải pháp bảo tồn và phát triển một số loài cây lâm sản ngoài gỗ ở xã Đồng Lâm, huyện Hoành Bồ, Quảng Ninh - Pdf 24



1

I HC THI NGUYấN
TRNG I HC NễNG LM

LÊ ĐìNH ANH

"NGHIÊN CứU Đề XUấT GIảI PHáP BảO TồN Và PHáT TRIểN
MộT Số LOàI CÂY LÂM SảN NGOàI Gỗ ở Xã ĐồNG LÂM -
HUYệN HOàNH Bồ - TỉNH QUảNG NINH" Chuyờn ngnh: Lõm hc
Mó s: 60.62.02.01 LUN VN

triệu USD, năm 2010 đạt 255 triệu USD, năm 2011 đạt hơn 380 triệu USD. Ngoài ra,
LSNG còn có vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trƣờng, bảo vệ rừng, làm tăng giá trị
kinh tế của rừng góp phần khôi phục, nâng cao giá trị của các khu rừng nghèo. Hơn
nữa, việc khai thác LSNG ít ảnh hƣởng đến cấu trúc tầng cây gỗ, vẫn giữ đƣợc vai trò
bảo vệ môi trƣờng và đa dạng sinh học của rừng.
Để quản lý, sử dụng và phát triển tài nguyên rừng một cách bền vững, đồng thời
vừa nâng cao thu nhập cho ngƣời dân từ chính diện tích rừng của mình thì việc gây
trồng, phát triển LSNG là một trong những giải pháp hữu hiệu đã đƣợc thực tế chứng
minh. Trong những năm gần đây, Bộ NN&TNT cũng nhƣ Chính phủ đã ban hành một
số chính sách khuyến khích việc gây trồng và phát triển LSNG, cụ thể nhƣ đề án bảo
tồn và phát triển LSNG giai đoạn 2006-2020, kế hoạch hành động bảo tồn và phát
triển LSNG giai đoạn 2007-2010. Đặc biệt, ngày 09/01/2012, Thủ tƣớng Chính phủ
ban hành Quyết định số 57/QĐ-TTg về phê duyệt Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng
giai đoạn 2011-2020. Theo quyết định này, việc chú trọng gây trồng và phát triển
LSNG ở tất cả các loại rừng là một trong những nhiệm vụ ƣu tiên, đây là một hƣớng đi
giúp ngƣời dân sống đƣợc bằng nghề rừng, gắn bó với rừng hơn.
Tuy nhiên, tiềm năng kinh tế của LSNG chƣa đƣợc phát huy, chƣa đóng góp
xứng đáng cho nền KTQD, mặt khác trong một thời gian dài, việc sử dụng rừng chủ
yếu là khai thác gỗ, ít quan tâm đến việc bảo tồn và phát triển LSNG nên nguồn tài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3

nguyên này có xu hƣớng bị suy giảm, ảnh hƣởng đến cuộc sống của các cộng đồng
dân cƣ sống ở gần rừng.
Đứng trƣớc thực trạng trên, việc nghiên cứu các giải pháp bảo tồn và phát triển
nguồn LSNG để phục hồi và phát triển nguồn tài nguyên rừng góp phần tạo việc làm,
cải thiện đời sống cho một bộ phận cƣ dân sống ở gần rừng có ý nghĩa thực tiễn rất lớn.
Trong những năm gần đây, nhiều tổ chức quốc tế cũng nhƣ Chính phủ Việt nam

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Trên thế giới
1.1.1. Khái niệm Lâm sản ngoài gỗ
Trƣớc đây những loài cây trong rừng không phải là gỗ thƣờng đƣợc gọi là lâm
sản phụ, một số loài có giá trị đặc biệt gọi là đặc sản. Ngày nay thống nhất gọi các sản
phẩm không phải là gỗ có ở trong rừng là lâm sản ngoài gỗ. Khái niệm về Lâm sản
ngoài gỗ là một khái niệm tƣơng đối mới so với gỗ. Đến nay, nhiều khái niệm về Lâm
sản ngoài gỗ đã đƣợc đề xuất, điển hình là các khái niệm sau đây:
Tháng 11/1991, hội thảo chuyên gia vùng về Lâm sản ngoài gỗ Châu Á Thái
Bình Dƣơng tổ chức ở Bangkok - Thái Lan đã đƣa ra khái niệm về Lâm sản ngoài gỗ:
“Lâm sản ngoài gỗ bao gồm tất cả các sản phẩm có thể tái sinh được của sinh
vật, trừ gỗ, củi và than củi, được thu hái từ rừng, đất rừng hoặc từ thực vật thân gỗ.
Như vậy, các sản phẩm như cát, đá, nước và du lịch sinh thái không phải là Lâm sản
ngoài gỗ”
Nhóm chuyên gia này nhấn mạnh rằng du lịch sinh thái không phải là Lâm sản
ngoài gỗ. Quan điểm này khác với quan điểm của Chandrasekhan (1995) cho rằng
Lâm sản ngoài gỗ bao gồm cả những dịch vụ do rừng đem lại nhƣ câu cá, cắm trại,
quan sát chim thú và thƣởng ngoạn.
Năm 1992, FAO thì cho rằng “Lâm sản ngoài gỗ là tất cả các sản phẩm không
phải là gỗ phục vụ thương mại, công nghiệp và sinh kế, được cung cấp từ rừng và sinh
khối của rừng, chúng được khai thác ổn định, nghĩa là khai thác từ một hệ sinh thái
rừng với một khối lượng không ảnh hưởng tới chức năng tái sản xuất cơ bản của
rừng.”
Năm 1995, hội thảo chuyên gia đƣợc tổ chức ở Tanzania (Châu Phi), đã đƣa ra
khái niệm:
“Tất cả các sản phẩm động vật, thực vật được cung cấp từ rừng, đất rừng và các
cây rừng ở ngoài rừng; không kể gỗ tròn công nghiệp, gỗ dùng làm năng lượng, sản
phẩm từ vườn và chăn nuôi.
Năm 1995, FAO lại đƣa ra một khái niệm khác tổng quát hơn về Lâm sản ngoài

Theo phƣơng pháp phân loại này thì các loại LSNG đƣợc phân theo hệ thống tiến
hóa của sinh giới bao gồm hai nhóm chính: động vật và thực vật. Giới động vật và giới
thực vật tuy rất phong phú và đa dạng nhƣng đều có thể sắp xếp một cách khách quan
vào hệ thống các bậc phân loại từ lớn đến nhỏ: Giới/Ngành/Lớp/Bộ/Họ/Chi/Loài. Có
thể thấy phân loại theo phƣơng pháp này đòi hỏi phải chú ý nhiều đến đặc điểm sinh
học của loài và ngƣời sử dụng phải có hiểu biết nhất định về phân loại động thực vật.
- Phƣơng pháp phân loại Lâm sản ngoài gỗ theo nhóm giá trị sử dụng:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6

Theo phƣơng pháp này nhiều loài Lâm sản ngoài gỗ khác nhau không kể nguồn
gốc trong hệ thống sinh thái, nơi phân bố có cùng giá trị sử dụng đƣợc phân vào cùng
một nhóm.
Hội nghị Quốc tế tháng 11/1991 tại Bangkok đã chia LSNG làm 6 nhóm:
+ Nhóm 1. Các sản phẩm có sợi: bao gồm tre nứa, song mây, lá và thân có sợi và
các loại cỏ.
+ Nhóm 2. Sản phẩm làm thực phẩm: gồm các sản phẩm có nguồn gốc thực vật
nhƣ : thân, chồi, rễ, củ, lá, hoa,… Các sản phẩm có nguồn gốc động vật nhƣ: Mật ong,
thịt động vật rừng, trứng và côn trùng,…
+ Nhóm 3. Thuốc và mỹ phẩm có nguồn gốc thực vật
+ Nhóm 4. Các sản phẩm chiết xuất: Nhựa, nhựa dầu, nhựa mủ, ta nanh, dầu béo,
tinh dầu
+ Nhóm 5. Động vật và các sản phẩm từ động vật không làm thực phẩm: tơ, động
vật sống, chim, sừng, ngà, xƣơng và nhựa cánh kiến đỏ.
+ Nhóm 6. Các sản phẩm khác.
Năm 1992, Meldelson đã đƣa ra 2 cách phân loại Lâm sản ngoài gỗ căn cứ vào
mục đích khác nhau của con ngƣời về Lâm sản ngoài gỗ:
Căn cứ vào giá trị sử dụng ông chia làm 5 nhóm:

Lâm sản ngoài gỗ một trong những nguồn tài nguyên thiên nhiên chủ yếu của
rừng, từ lâu đã giữ một vai trò to lớn và quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của
các cộng đồng dân tộc sống ở vùng rừng núi, là nguồn nguyên liệu chính không thể
thiếu đối với nhiều ngành công nghiệp, thủ công mỹ nghệ, hoá mỹ phẩm, dƣợc
phẩm, Ngày nay, nhiều loại LSNG đã trở thành những mặt hàng xuất khẩu có giá trị.
Đã từ lâu nhiều nƣớc trên thế giới, đặc biệt các nƣớc nhiệt đới đã đầu tƣ nghiên cứu về
LSNG nhằm định hƣớng quy hoạch phát triển.
Số lƣợng các sản phẩm từ Lâm sản ngoài gỗ đƣợc coi là rất lớn. Theo báo cáo
của tổ chức Liên Hiệp Quốc và FAO (1998) cho thấy ít nhất 150 sản phẩm Lâm sản
ngoài gỗ đƣợc tìm thấy trong các thị trƣờng quốc tế. Chẳng hạn chỉ riêng về năng
lƣợng đƣợc biết tới 138 sản phẩm từ 80 loài trong rừng trên bán đảo Michigan.
Theo Maxim Lobovikov (2009) [31] thì cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
hiện nay đã thu hút sự chú ý hơn tới Lâm sản ngoài gỗ, đặc biệt là nguồn thực phẩm
thay thế. Một nghiên cứu gần đây tiến hành tại ba cộng đồng ở miền Nam Cameroon
tiết lộ rằng nông nghiệp cung cấp 80% lƣợng carbohydrate, nông thôn ở Cameroon
nhận đƣợc 90% protein từ rừng. Trái cây rừng và thảo dƣợc là nguồn cung cấp vitamin
và chất dinh dƣỡng cho cƣ dân nông thôn. Hàng triệu ngƣời dân Châu Á phụ thuộc
phần lớn vào sự cung cấp cá từ rừng ngập mặn.
Ngoài ra, lâm sản ngoài gỗ cũng ngày càng đƣợc thừa nhận về vai trò của nó trong
phát triển bền vững và bảo tồn các hệ sinh thái. Có đến 80% dân số ở các nƣớc đang phát
triển sống phụ thuộc vào Lâm sản ngoài gỗ cho sinh hoạt, cả về kinh tế và dinh dƣỡng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8

Lâm sản ngoài gỗ đặc biệt quan trọng đối với phụ nữ ở các nƣớc đang phát triển từ châu
Mỹ Latinh đến châu Á và châu Phi (Russel M và cộng sự, 1999) [37].
Hàng ngàn năm trƣớc đây, thu thập cây dƣợc liệu từ rừng ở Châu Á là một thành
phần quan trọng của hệ thống y học cổ truyền, điều này vẫn có giá trị cho đến ngày


9

chiếm khoảng 80% sản lƣợng thế giới. Mây và tre đã đƣợc sử dụng để đan giỏ (Salix
viminalis) ở các vùng ôn đới, cận nhiệt đới và đũa (Clusia) ở Guyana, đặc biệt để sản
xuất đồ thủ công mỹ nghệ.
Theo báo cáo của FAO (1995) [28] về nguồn tài nguyên Mây, thế giới có khoảng
600 loài thuộc 13 chi trong các rừng nhiệt đới vùng đất thấp ở đông bán cầu. Hầu hết
các loài có phạm vi phân bố rất hạn chế trong tự nhiên, từ sát mực nƣớc biển tới độ
cao 3.000 m. Trong số 13 chi đƣợc biết đến có 10 chi với khoảng 574 loài đƣợc tìm
thấy ở Đông Nam Á và các vùng lân cận, từ Fiji tới tiểu lục địa Ấn Độ, và từ miền
Nam Trung Quốc đến Queensland ở Úc. Đông Nam Á đƣợc coi là trung tâm đa dạng
sinh học của song mây. Thƣơng mại của loài mây chỉ khoảng 10% của tổng số loài
đƣợc biết đến trên toàn thế giới.
Theo Joost Foppes và cộng sự (2004) [35] tại Philippines, có khoảng 600 loài
thuộc họ cau dừa, 90 loài mây, trong đó một 1/3 số loài mây là đặc hữu, chiếm 5% các
loài mây trên toàn thế giới. Trong đầu thập kỷ 1900, tại Philippines rừng bao phủ 70%,
21 triệu ha có các hệ sinh thái rừng đa dạng và phong phú, đến năm 2000 chỉ còn 5,39
triệu ha rừng. Đánh giá cho thấy mất sinh cảnh rừng là mối đe dọa lớn cho sự tồn tại
của các loài mây trong tự nhiên.
1.1.4. Về giá trị kinh tế, xã hội của Lâm sản ngoài gỗ
Ngày nay các tổ chức quốc tế, chính phủ của các Quốc gia cũng nhƣ ngƣời dân
vùng núi đã nhận thức đƣợc giá trị của các loài LSNG, chúng không chỉ có giá trị về
kinh tế mà còn có giá trị cả về văn hoá xã hội và môi trƣờng.
1.1.4.1. Giá trị kinh tế
Theo báo cáo của Bert Jan Ottens (2005) [1] nhu cầu Lâm sản ngoài gỗ nhƣ sau:
- Nhu cầu của thế giới về thuốc có nguồn gốc từ thực vật tăng mạnh trong 10 năm
qua, tăng nhanh hơn thuốc có nguồn gốc hóa học.
- Thƣơng mại thuốc có nguồn gốc từ thực vật ƣớc tính khoảng 10 tỉ Euro hàng
năm; tăng trƣởng hơn 10% mỗi năm.

Theo FAO (1995) [28] ƣớc tính thƣơng mại sản phẩm mây đạt khoảng 4 tỷ USD
trong đó các quốc gia Đông Nam Á chiếm 2,5 tỷ USD. Trên thế giới, khoảng 700 triệu
ngƣời sử dụng song mây và khoảng 2 triệu ngƣời ở vùng nhiệt đới châu Á trực tiếp
phụ thuộc vào mây hoặc thực hiện việc thu hoạch và thƣơng mại mây.
Theo báo cáo của FAO (1995) [28] cho thấy các thƣơng mại bên ngoài và giá trị
thƣơng mại của đồ nội thất làm từ mây lên đến 7-8 tỷ USD. Tuy nhiên, gần 90%
nguyên liệu thô đƣợc cung cấp từ các khu rừng tự nhiên và rất ít từ rừng trồng.
Theo đánh giá của FAO (2002) [26] thì Trung Quốc có diện tích rừng tre trúc lớn
nhất ƣớc tính khoảng từ 7-17 triệu ha, chủ yếu Trúc sào (Phyllostachys edulis). Hàng
năm sản xuất cọc tre khoảng 6-7 triệu tấn (1/3 tổng sản lƣợng thế giới). Ƣớc tính giá
trị thƣơng mại thế giới hàng hoá từ tre khoảng 36,2 triệu USD, Trung Quốc và Thái
Lan là những nơi cung cấp chính; Malaysia, Myanmar, Hàn Quốc, Indonesia, Việt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11

Nam, Philippines và Bangladesh là nƣớc xuất khẩu nhỏ. Sản phẩm măng tre nhanh
chóng mở rộng thị trƣờng xuất khẩu, trong đó Trung Quốc là nƣớc sản xuất chính trên
thế giới và xuất khẩu (1.6 triệu tấn măng tƣơi trong năm 1999), tiếp theo là Thái Lan,
Indonesia, Việt Nam và Malaysia. Măng tre đƣợc sản xuất tại các trang trại.
Theo FAO (1995) [28] sản phẩm hạt từ cây họ đậu (Parkia spp) ở Châu Phi đƣợc
tiêu thụ nhiều tại châu lục này và ở Đông Nam Á, Nam Mỹ. Ở Tây Phi từ Gambia tới
Cameroon cung cấp hơn 200.000 tấn hạt mỗi năm. Các sản phẩm khác nhƣ bột cọ sagu
làm thực phẩm đƣợc sử dụng rộng rãi trong khu rừng nhiệt đới Châu Á, bột các loài
Metroxylon là nguồn thực phẩm cung cấp năng lƣợng chính cho ít nhất hơn 300.000
ngƣời ở Melanesia (Thuộc hòn đảo Vanuatu- Nam Thái Bình Dƣơng) và một triệu
ngƣời sử dụng làm thực phẩm thƣờng xuyên nhƣ một phần trong chế độ ăn uống hàng
ngày trên thế giới. Củ các loài dây leo khoai mỡ trong rừng đƣợc tiêu thụ nhiều ở Châu
Phi, Châu Úc và Châu Á.

hủy sinh cảnh [40].
Nghiên cứu của FAO (2002) [26] Trung Quốc là nƣớc sản xuất lớn và xuất khẩu
các loài nấm hoang dã, nấm Mộc nhĩ (Auricularia auricula) đƣợc xuất khẩu hàng năm
khoảng 1.000 tấn trị giá khoảng 8 triệu USD, nấm Tuyết nhĩ (Tremella fuciformis) đạt
tới 1.000 tấn, 1/3 trong số đó là xuất khẩu, nấm Hƣơng (Lentinus edodes) hàng năm
ƣớc tỉnh sản lƣợng khoảng 120.000 tấn, chiếm 38% sản lƣợng thế giới trong đó xuất
khẩu hàng năm 1.000 tấn nấm hƣơng khô, trị giá 20 triệu USD.
Theo FAO (2002) [26] Indonesia là nƣớc sản xuất lớn nhất thế giới về nhục đậu
khấu và vỏ của nó, chiếm khoảng 3/4 thế giới về sản xuất và xuất khẩu. Indonesia sản
xuất 15.800 tấn nhục đậu khấu trong năm 1990. Thƣơng mại Quế trên thế giới đạt
khoảng 20.000-25.000 tấn mỗi năm, trong đó Indonesia chiếm 2/3 và Trung Quốc
chiếm phần còn lại. Sản xuất nhỏ bao gồm Việt Nam và Ấn Độ, khoảng 2.000-3.000
tấn quế vỏ đƣợc xuất khẩu từ Việt Nam hàng năm. Chủ yếu xuất khẩu sang các nƣớc
châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản [26].
Đánh giá của FAO (1995) [28] tại Ấn Độ, LSNG đƣợc sản xuất rộng rãi và đƣợc
sử dụng ở Madhya Pradesh, Maharastra, Orissa, Bihar, Tây Bengal, Gujarat, Andhra
Pradesh và Đông Bắc Hoa Kỳ. Nhóm bộ lạc đã dần dần đẩy vào vùng biên, nơi sản
lƣợng nông nghiệp thấp và không chắc chắn, do đó ngành LSNG cung cấp việc làm
chủ yếu cho 5,7 triệu ngƣời/năm. Hầu nhƣ 50% doanh thu quốc gia về rừng và 80%
xuất khẩu ròng thu nhập từ rừng sản xuất từ LSNG.
Theo FAO (2002) [26] tổ Yến đƣợc khai thác nhiều ở Malaysia và Thái Lan cung
cấp chủ yếu cho thị trƣờng Trung Quốc. Đồng thời Malaysia cũng là nƣớc sản xuất và
xuất khẩu lớn tổ chim, năm 1991 xuất khẩu tổ chim đạt tổng cộng 18,6 tấn, chủ yếu tới
Hồng Kông, Singapore, Nhật Bản và Đài Loan, trị giá khoảng 1 triệu USD. Ngoài ra,
sản phẩm gồm (Karaya) sử dụng làm nƣớc giải khát, thu đƣợc từ khai thác nhựa một
số cây cây của Chi Trôm (Sterculia) ở Ấn Độ là nhà sản xuất lớn duy nhất, tổng số sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13

tăng lên. Nghiên cứu cũng cho thấy thƣơng mại hóa các dự án LSNG rõ ràng tập
trung vào sự tham gia của phụ nữ có thể có tác dụng gia tăng quyền lực chính trị và
kinh tế của họ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14

Theo IFAD (2008) [34] ở Scotland sự quan tâm đến LSNG đã đƣợc tăng lên trong
10 năm qua. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong phạm vi tại Scotland, 24% dân số có thu hái
LSNG trong 5 năm trƣớc đây và 80% những ngƣời đó (tƣơng đƣơng khoảng 19% tổng số
dân Scotland) đã thu hái LSNG trong 12 tháng trong năm, nhƣng đa số chỉ đƣợc sử dụng
cá nhân [34].
Theo Tinde van Andel (2006) [39] tại Kodagu - Ấn Độ đã chỉ ra vai trò quan
trọng của LSNG trong sự hiểu biết của nền kinh tế bộ lạc. Tại đây, tỷ lệ phần trăm chia
sẻ (>70%) của LSNG đóng vai trò lớn trong kinh tế của các hộ gia đình thu nhập thấp.
Nghiên cứu của quỹ nông nghiệp quốc tế (2006) [33] về giới cho thấy LSNG đem
lại nhiều hứa hẹn to lớn cho ngƣời sản xuất là phụ nữ trong nền kinh tế không chính
thức. Hiện nay có 150 loài LSNG có ý nghĩa quan trọng trong thƣơng mại quốc tế.
Cùng các LSNG liên quan đến hàng triệu công nhân và ngƣời sản xuất, trong đó có
nhiều phụ nữ và đàn ông bản địa ở các vùng xa xôi nhất của các nƣớc đang phát triển.
Ngƣời nghèo, nhất là phụ nữ đã tìm sự hấp dẫn từ các hoạt động LSNG, hấp dẫn vì
những yêu cầu đầu vào kỹ thuật và tài chính thấp. Nghiên cứu gần đây ở Mexico và
Bolivia cho thấy rằng Lâm sản ngoài gỗ có thể góp phần xoá đói giảm nghèo bằng
cách cung cấp “mạng lƣới an sinh”, trong đó làm giảm tính dễ tổn thƣơng của các
cộng đồng nghèo có sự rủi ro khi mất mùa hoặc đình công.
1.1.5. Các nghiên cứu về sử dụng bền vững, giải pháp nâng cao vai trò của LSNG
Một số tổ chức quốc tế tiêu biểu trong hoạt động nghiên cứu về LSNG nhƣ tổ
chức Nông lƣơng thế giới (FAO), trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế (CIFOR),
tổ chức quốc tế về tre nứa và song mây (INBAR) tập trung chủ yếu vào các nhóm

trung về LSNG đã đƣợc thực hiện tại đây.
Adepoju, Adenike Adebusola và Salau, Adekunle Sheu (2007) [24] nghiên cứu
về giá trị kinh tế của LSNG đƣa ra nhận định: Trong quá khứ, các cơ sở hợp lý cho
việc bảo tồn rừng chỉ đơn giản để duy trì vai trò rừng sản xuất cho ngành công nghiệp
gỗ. Tuy nhiên điều này đã thay đổi ở nhiều nƣớc trong 15 năm qua. Với sự nổi lên của
khu bảo tồn tại Brazil, Lâm nghiệp cộng đồng ở Nepal, Quản lý rừng ở Ấn Độ và các
sáng kiến tƣơng tự ở nhiều nƣớc khác, ngƣời dân địa phƣơng đã đƣợc tiếp cận với
những lợi ích đáng kể từ LSNG.
1.2. Ở trong nƣớc
1.2.1. Khái niệm về lâm sản ngoài gỗ
Trƣớc năm 1991, sản phẩm chính của rừng đƣợc khai thác sử dụng chủ yếu là gỗ,
các lâm sản khác nhƣ: song, mây, tre, nứa, dầu nhựa, cây thuốc còn ít đƣợc quan tâm
và quản lý nên gọi là lâm sản phụ (Minor forest product). Sau năm 1961, một số loài
lâm sản phụ có giá trị đặc biệt trong sử dụng và thƣơng mại nhƣ: hồi, quế, thảo quả,
nấm hƣơng thì gọi là đặc sản rừng (Special forest product). Vài thập kỷ gần đây, vai
trò và chức năng cung cấp gỗ của rừng, nhất là rừng tự nhiên nhiệt đới ngày càng hạn
chế, vai trò và chức năng phòng hộ môi trƣờng của rừng ngày càng đƣợc thể hiện rõ và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16

đƣợc quan tâm nhiều hơn trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay. Muốn
phát triển rừng nhằm bảo vệ môi trƣờng sinh thái kết hợp với phát triển kinh tế, cải
thiện đời sống của ngƣời dân làm nghề rừng thì lâm sản phụ hay đặc sản rừng lại có
vai trò hết sức quan trọng. Chính vì lẽ đó một thuật ngữ mới đƣợc đề xuất và sử dụng
là Lâm sản ngoài gỗ (LSNG).
Ở Việt Nam chƣa có thấy một khái niệm nào về LSNG, mà chỉ nói đến giá trị của
một số loại LSNG ảnh hƣởng tới từng mặt của xã hội nhƣ: Đỗ Tất Lợi (1991) cho rằng
xuất xứ của dƣợc liệu hầu hết là các sản phẩm của rừng; Lê Mộng Chân (1992) cho

+ Nhóm động vật hoang dã cho da, lông, xƣơng, ngà, mỡ, xạ, mật và các sản
phẩm dƣợc liệu. Ví dụ nhƣ: Voi, hổ, báo, hƣơu, trăn, rắn, khỉ, nhím, ong, chim cảnh và
các loài động vật khác
+ Nhóm các sản phẩm đƣợc chế biến từ nguyên liệu thô của động vật.
Năm 1991, báo cáo của Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn) về "Tình trạng và triển vọng phát triển các loại lâm đặc sản của Việt Nam
(Ministry of Forestry - Current Status of Perspective for Non - Wood/ (Special) Forest
Products Devlopment in S. R Vietnam) thì lâm đặc sản (hay Lâm sản ngoài gỗ) của
Việt Nam đƣợc chia thành 9 loại sau:
1. Sản phẩm tinh dầu chiết xuất: Hoàng đàn, Pơ mu, Trầm hƣơng, Quế, Hồi, Bạc

2. Cây sử dụng làm thuốc: Thảo quả, Sa nhân, Thảo quyết minh, Hoa hoè, Mã
tiền, Trân châu, Ba kích, Củ mài, Bình vôi, Sâm ngọc linh
3. Cây thực phẩm: Nghệ, Gừng, Hạt điều, Hạt dẻ và các đồ gia vị
4. Sản phẩm dầu béo: Sở, Trẩu, các loại dầu ăn thực vật.
5. Sản phẩm dầu nhựa và keo gôm: Trám, Dầu rái chai cục, dầu Thông
6. Chất tannin và thuốc nhuộm: Đƣớc, Chàm nhuộm
7. Sản phẩm cho sợi: Thùa, Bông, Gạo, Gòn
8. Sản phẩm thủ công từ tre nứa và song mây
9. Các sản phẩm khác: Nấm ăn đƣợc, tơ lụa, lá cọ, lá nón , động vật và sản
phẩm từ động vật
Theo Võ Văn Chi và Trần Hợp (1999) [23] về phân loại nhóm cây có ích đã phác
thảo một hệ thống phân chia dựa trên các sản phẩm chính của cây cỏ để phân ra 11
nhóm theo công dụng nhƣ sau:
- Nhóm cung cấp gỗ
- Nhóm cho sợi
- Nhóm nhựa mủ, gôm, nhựa dầu
- Nhóm cây cho dầu béo, sáp mỡ
- Nhóm cây cho dầu thơm (hƣơng liệu)
- Nhóm cây cây cho Tanin, chất nhuộm

cùng quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe con ngƣời từ xƣa đến nay, đặc biệt là
đối với ngƣời dân tộc thiểu số.
Theo kết quả nghiên cứu của Dự án Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam trong số 12.000
loài cây đƣợc thống kê có 76 loài cho nhựa thơm, 160 loài cho dầu, 600 loài cho tanin,
260 loài cho tinh dầu, 93 loài cho chất màu, 1498 loài cho các dƣợc phẩm. Theo dự
đoán của nhiều nhà thực vật số loài thực vật bậc cao có thể lên tới 20.000 loài; hệ động
vật cũng đã thống kê đƣợc 225 loài thú, 828 loài chim, 259 loài bò sát, 84 loài ếch
nhái. Dẫn theo Triệu Văn Hùng và các cộng sự (2007) [20].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19

Theo Nguyễn Hữu Dũng (2005) [9] ở Việt Nam hiện nay đã xác định đƣợc
11.373 loài thực vật thuộc 2.524 chi và 378 họ. Về động vật có xƣơng sống có khoảng
310 loài thú, 840 loài chim, 286 loài bò sát và 162 loài lƣỡng cƣ (Đặng Huy Huỳnh,
2005) và nhiều loài động vật không xƣơng sống khác. Trong đó có rất nhiều loài là
LSNG có giá trị.
Trong công trình nghiên cứu và bảo vệ tài nguyên thực vật sinh thái núi cao ở
SaPa, Lã Đình Mỡi, Nguyễn Thị Thuỷ và Phạm Văn Thính (1995) [5] đã phân hạng
LSNG theo hệ thống sinh và thống kê đƣợc tập đoàn đông đảo thực vật có giá trị làm
thuốc ở địa phƣơng.
Trong báo cáo hội thảo quốc gia về Lâm sản ngoài gỗ năm 2005 tại Hà Nội [17]
cho thấy tại Việt Nam đã có 28% các loài động vật, 10% các loài chim, 20% các loài
bò sát/ lƣỡng cƣ đang đứng trƣớc nguy cơ tuyệt chủng; 350 loài thực vật cũng đang có
nguy cơ tuyệt chủng. Báo cáo cũng cho thấy rằng về nguồn tài nguyên cây thuốc có
khoảng 4.000 loài (truyền thống và hiện đại) đƣợc sản xuất tại Việt Nam đã đáp ứng
đƣợc 30% tổng nhu cầu, còn 70% phải nhập khẩu. Trong đó, hơn 2000 loài cây gỗ
(238 họ thực vật) có đặc tính thảo dƣợc; 300 loài cây đƣợc thu hoạch phục vụ cho các
mục đích trong nƣớc và thƣơng mại; cây thuốc Việt Nam ở phía Bắc đƣợc nhập khẩu

loài) đƣợc làm thuốc thuộc ngành Ngọc lan chữa nhiều loại bệnh nhƣ: Bao tử, viêm
gan, sỏi thận, trị rắn độc.
Trần Tuấn Kha (2009) [19] nghiên cứu về nấm Lỗ tại Ba Vì xác định 18 loài nấm
thuộc bộ nấm lỗ (Aphyllophorales) trong đó có sự đa dạng về hình thái. Kết quả cũng
cho thấy các loài nấm này có nhiều công dụng khác nhau nhƣ làm thực phẩm, dƣợc
liệu, phân giải gỗ mục và kháng khối u.
Nghiên cứu về khu hệ mây song tại Bà Nà - Núi Chúa - Đà Nẵng, Nguyễn Quốc
Dựng (2009) [14] đã ghi nhận đƣợc 12 loài thuộc 3 chi chiếm 30% tổng số loài song
mây tại Việt Nam. Có 2 loài mới là Mây tôm (Calamus crispus Henderson, N. K.
Ban& N. Q. Dung) và Mây cám (Calamus fissilis Henderson, N. K) bổ sung cho danh
lục mây song trên thế giới. Có 8 loài đƣợc sử dụng làm đồ mỹ nghệ và đan lát, 4 loài
chƣa rõ công dụng.
Theo Nguyễn Hoàng Nghĩa và cộng sự (2000), ở Việt Nam hiện có 6 chi song
mây với 30 loài, mây nếp 19 loài, chi mây nƣớc 4 loài, chi phƣớn 2 loài, chi mây húp 1
loài, chi song lá bạc 3 loài và chi song voi 1 loài. Tác giả cũng đã mô tả tóm tắt hình
thái, phân bố địa lý và sử dụng của từng loài [11].
Về nguồn tài nguyên tre trúc Việt Nam theo Biswas (1995) thì Việt Nam đã có
tới 92 loài của 16 chi tre trúc (dẫn theo Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2005) [10]. Theo thống
kê của sách thực vật chí Đông Dƣơng thì ở Việt Nam có tới 61 loài thuộc 31 chi khác
nhau (dẫn theo Nguyễn Ngọc Bình, Phạm Đức Tuấn 2007) [13].
Nghiên cứu về nguồn lợi chim ở Ninh Sơn - Ninh Thuận, Lê Đình Thủy (2009)
[7] đã ghi nhận đƣợc 120 loài chim thuộc 46 họ và 14 bộ. Thống kê đã xác định đƣợc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21

17 loài chim quý hiếm có giá trị kinh tế và giá trị bảo tồn nguồn gen sinh sống ở 4
dạng sinh cảnh đặc trƣng: Sinh cảnh rừng hỗn giao lá rộng và lá kim (86 loài chiếm
71,66%); sinh cảnh rừng thứ sinh, cây bụi ven sông suối, nƣơng rẫy ở các sƣờn núi (74

4.965
23.33
1.065
2001
108.10
2.338
25.57
2.589
2002
139.44
1.599
27.78
233
2003
144.59
1.703
33.22
200
2004
197.96
1.908
58.37
214
Năm 2007 xuất khẩu gỗ, các sản phẩm gỗ và quế xuất khẩu đạt đƣợc nhƣ sau.
Bảng 1.2: Xuất khẩu gỗ, các sản phẩm gỗ và Quế (2000-2007)
Năm
2000
2003
2004
2005

1.2.4. Tình hình quản lý Lâm sản ngoài gỗ ở Việt Nam
Nhận thấy rõ vai trò quan trọng của LSNG, Chính phủ đã ban hành nhiều
chƣơng trình, chính sách cho việc phát triển và bảo tồn rừng, trong đó có đề cập đến
nội dung quản lý LSNG. Một số chính sách quan trọng đã tạo nên sự chuyển biến về
phát triển và quản lý LSNG nhƣ chính sách của chính phủ về giao đất giao rừng cho
hộ gia đình và cộng đồng quản lý (Nghị định 02/CP ngày 15 tháng 1 năm 1994; thông
tƣ 06LN/KN về giao đất lâm nghiệp; Nghị định 163/CP ngày 16/11/1999 về giao đất
và cho thuê đất lâm nghiệp); chƣơng trình trồng mới 5 triệu ha rừng cũng đã đề cập
đến việc phát triển Lâm sản ngoài gỗ; luật bảo vệ và phát triển rừng (19/8/1991), thông
tƣ 13LN/KL của Bộ Lâm nghiệp đã ban hành nhiều quy định nhằm bảo vệ và phát
triển tài nguyên động thực vật rừng quý hiếm.
Hiện nay, LSNG đƣợc quản lý dƣới nhiều hình thức khác nhau: quản lý nhà
nƣớc, quản lý cộng đồng và quản lý ở cấp hộ gia đình, cá nhân với nhiều mục đích
khác nhau (kinh doanh, sử dụng cho mục đích tự cung tự cấp, nghiên cứu khoa học…).
Trong đó việc lập kế hoạch quản lý bền vững LSNG dựa vào cộng đồng là một trong
những vấn đề đƣợc quan tâm và nó đang ngày càng thể hiện rõ vai trò tích cực trong
phát triển nguồn tài nguyên LSNG.
Theo chiến lƣợc phát triển Lâm nghiệp Việt Nam 2006-2020 [2] định hƣớng
phát triển LSNG của Việt Nam đến năm 2020 dự kiến xuất khẩu lâm sản đạt trên 7,8
tỷ USD (bao gồm 7 tỷ USD sản phẩm gỗ và 0,8 tỷ USD sản phẩm Lâm sản ngoài gỗ).
Đến năm 2020, LSNG trở thành một trong các ngành hàng sản xuất chính, chiếm trên
20% tổng giá trị sản xuất lâm nghiệp, giá trị LSNG xuất khẩu tăng bình quân 15 -
20%; thu hút khoảng 1,5 triệu lao động và thu nhập từ LSNG chiếm 15 - 20% trong
kinh tế hộ gia đình nông thôn.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã trình Quốc hội phê duyệt chƣơng
trình mục tiêu Quốc gia về bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2012-2020. Trong đó,
đặc biệt quan tâm bảo vệ và phát triển LSNG nhằm giảm bớt áp lực về gỗ cũng nhƣ
tăng cƣờng các lợi ích từ rừng. Các chƣơng trình hoạt động khác nhƣ: Chƣơng trình
xây dựng mô hình trình diễn và đào tạo, huấn luyện cho chủ rừng; chƣơng trình canh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2003). Báo cũng đã đƣa ra đề xuất cần bảo tồn một số cây thuốc quý có giá trị nhƣ: Ba
kích (Morinda officinalis How), Cát sâm (Milletia speciora Champ), Hoàng tinh cách
(Disporopsis longifolia Craib), Ngũ gia bì gai (Acanthopanax trifoliatus (L.), Thổ phục
linh (Smilax glabra Roxb), Hoàng đằng (Fibraureca tinctoria Lour), Khôi tía (Ardisia
gigantifolia Staff), Bình vôi (Stephania rotumda Lour).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24

Ngoài ra, dự án LSNG pha II triển khai hiện trƣờng tại ba thôn Đèo Đọc, Cài,
Đồng Trà. Trong khuôn khổ hoạt động của dự án có các hoạt động tập huấn nâng cao
nhận thức về LSNG, tập huấn kỹ thuật nhân giống, gây trồng và khai thác bền vững
các loài cây LSNG có giá trị tại địa phƣơng. Dự án đã triển khai xây dựng nhiều mô
hình trình diễn cây LSNG nhƣ: Mô hình trồng cây Ba kích, Lá khôi, Tai chua, Tre
mai… Tuy nhiên, do dự án kết thúc nên chƣa có những hoạt động điều tra đánh giá
tình hình sinh trƣởng và hiệu quả kinh tế của các mô hình đó.
Tóm lại: Thông qua các thông tin cả ở trong và ngoài nƣớc cho thấy rõ quan
niệm nhận thức về vai trò của LSNG đối với kinh tế, xã hội và môi trƣờng. Việc đánh
giá tiềm năng LSNG cũng đã đƣợc thực hiện ở một số địa phƣơng và một số Quốc gia.
Tuy nhiên mỗi địa phƣơng, mỗi vùng sinh thái có một số nhóm, loài có tiềm năng
cũng nhƣ thích hợp với một số điều kiện sinh thái nhất định, không thể áp đặt kết quả
nghiên cứu ở vùng này cho vùng khác. Đồng Lâm là một xã vùng cao chủ yếu là đồng
bào ngƣời Dao sinh sống, số loài LSNG rất đa dạng và phong phú, nhƣng không tập
trung nên không thể phát triển thành hàng hoá nếu không có điều tra đánh giá cụ thể.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề xuất giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển các loài LSNG
tại địa phƣơng là cần thiết.

các loài có trong rừng tự nhiên và các loài đã đƣợc gây trồng trong vƣờn hộ gia đình
hoặc vƣờn rừng, đặc biệt chú trọng các loài có giá trị sử dụng và có giá trị kinh tế.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài chỉ đánh giá thực trạng và tổng kết kỹ thuật từ tạo
giống, gây trồng, khai thác, sử dụng và thị trƣờng tiêu thụ các sản phẩm của những
loài có giá trị và có nhu cầu sử dụng lớn.
- Địa điểm nghiên cứu: Đề tài triển khai thực hiện tại 6/6 thôn của xã Đồng Lâm,
huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Nghiên cứu đánh giá tiềm năng khai thác, sử dụng cây LSNG ở xã Đồng Lâm
- Thực trạng các loài cây LSNG ở xã Đồng Lâm.
- Lựa chọn một số loài LSNG có giá trị.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Trích đoạn Nội dung nghiên cứu Giải pháp về kỹ thuật Giải pháp về chính sách Thực trạng các loài cây LSNG ở xã Đồng Lâm Khuyến nghị
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status