ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG HỌC PHẦN KINH TẾ PHÁT TRIỂN (Dành cho sinh viên ngành kinh tế đầu tư) - Pdf 25

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG HỌC PHẦN
KINH TẾ PHÁT TRIỂN
(Dành cho sinh viên ngành kinh tế đầu tư)
1
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1 3
Tăng trưởng và phát triển kinh tế 3
1.1. Các nước phát triển và các nước đang phát triển 3
1.4. Tổng quan về tăng trưởng và phát triển kinh tế 19
1.3. Các chỉ tiêu phản ánh (đánh giá) tăng trưởng 22
1.4. Các chỉ tiêu phản ánh (đánh giá) phát triển 24
1.5. Các nhân tố tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế 27
CHƯƠNG 2 33
Các mô hình tăng trưởng kinh tế 33
2.1. Mô hình cổ điển về tăng trưởng kinh tế 33
2.2. Mô hình của K.Marx về tăng trưởng kinh tế 36
2.3. Mô hình tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế 38
2.4. Mô hình Keynes về tăng trưởng kinh tế 39
2.5. Mô hình kinh tế hiện đại với tăng trưởng kinh tế 41
CHƯƠNG 3 45
Cơ cấu kinh tế và các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế 45
3.1. Một số khái niệm 45
3.2. Lý thuyết phát triển theo giai đoạn của W.Rostow 50
3.3. Mô hình hai khu vực 53
CHƯƠNG 4 63
Phúc lợi con người cho phát triển kinh tế 63
4.1. Tăng trưởng kinh tế và mức độ đáp ứng phúc lợi cho con người trong phát triển kinh tế 63
4.2. Phát triển con người và phát triển kinh tế 68
4.3. Bất bình đẳng và phát triển kinh tế 71
4.4. Bất bình đẳng giới 80
4.5. Nghèo khổ ở các nước đang phát triển 83

7.3. Chiến lược thay thế hàng hóa nhập khẩu (chiến lược hướng nội) 115
2
CHƯƠNG 1
Tăng trưởng và phát triển kinh tế
Số tiết: 04 tiết (Trong đó: 03 tiết lý thuyết; 01 tiết thảo luận)
*) Mục tiêu:
- Sinh viên nắm được các kiến thức cơ bản về tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Đánh giá được quá trình phát triển kinh tế trên cả 3 khía cạnh: Tăng trưởng kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các yếu tố xã hội.
- Biết cách sử dụng hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) của Việt Nam để lấy các
chỉ tiêu kinh tế sử dụng vào việc phân tích và đánh giá thực trạng tăng trưởng và phát
triển kinh tế của Việt Nam.
- Nắm được các nhân tố tác động tới tăng trưởng kinh tế, vận dụng vào tìm
hiểu các nhân tố đang tác động tới quá trình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
1.1. Các nước phát triển và các nước đang phát triển
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của thế giới thứ ba
Xét về mặt lịch sử, cho tới năm 1945, nhiều quốc gia Tây Âu, nhất là các nước
Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ, Bồ Đào Nha vẫn còn kiểm soát những thuộc địa rộng lớn. Sau
chiến tranh thế giới II, các dân tộc bị thực dân cai trị đã không còn chịu sự đô hộ. Đầu
tiên, làn sóng giải phóng thuộc địa bùng nổ mạnh mẽ ở châu Á. Năm 1947, Gandhi đã
lãnh đạo thành công cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn Độ giành độc lập từ tay người
Anh. Ở vùng Đông Nam Á, Indonexia giành độc lập năm 1947 sau cuộc đấu tranh vũ
trang chống lại thực dân Hà Lan. Sau thất bại Điện Biên Phủ ở Việt Nam, thực dân
Pháp phải rút khỏi Đông Dương. Sau châu Á, cao trào giải phóng thuộc địa lan sang
châu Phi. Năm 1954, các lực lượng đấu tranh đòi độc lập cho Angeria chuyển sang
đấu tranh vũ trang, đến năm 1962, Pháp phải ký hiệp định công nhận độc lập cho nước
này. Tiếp đó, tất cả các thuộc địa của Pháp ở châu Phi đều lần lượt được trao trả độc
lập, cùng theo đó là Công Gô (thuộc Bỉ), Nigeria (thuộc Anh), Angola và
Mazambique (thuộc Bồ Đào Nha).
Về mặt chính trị, với việc giải phóng thuộc địa, một nhân tố mới đã xuất hiện

triển”. Khái niệm này bắt đầu xuất hiện vào những năm 1960, khi đó, các nước thuộc
thế giới thứ ba đều đứng trước sự cấp bách về giải quyết vấn đề phát triển kinh tế.
Khái niệm này cũng được dùng để phân biệt các nước giàu ở phía Bắc, được gọi là các
nước phát triển, đây là những nước đã có thời kỳ dài công nghiệp hóa và trở thành các
nước công nghiệp phát triển.
Bản thân các nước đang phát triển khi mới dành độc lập đều là các quốc gia có
trình độ phát triển kinh tế thấp kém, nền kinh tế què quặt, lạc hậu, phụ thuộc rất lớn
bởi nước ngoài. Tuy vậy, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, các nước đang
phát triển đã có sự phân hóa mạnh mẽ, một số nước đã tìm kiếm được con đường phát
triển đúng đắn cho đất nước mình và vượt lên hàng đầu giữa các nước đang phát triển
trở thành các nước công nghiệp mới (NICs). Một số nước khác do ưu đãi của thiên
nhiên đã có được những mỏ dầu lớn, tạo nguồn thu nhập lớn cho đất nước và trở thành
các nước có thu nhập bình quân đầu người cao hơn hẳn các nước đang phát triển khác,
hình thành nên một nhóm các nước, gọi là các nước thuộc tổ chức xuất khẩu dầu mỏ
(OPEC).
1.1.2. Phân chia các nước theo trình độ phát triển
Có nhiều góc độ khác nhau để phân chia hệ thống kinh tế thế giới.
4
+ Nếu phân loại theo thu nhập, căn cứ theo tiêu chí thu nhập bình quân đầu
người (GNI/người), ngân hàng thế giới (WB) chia thành 4 nhóm nước: các nước thu
nhập thấp (LIC0, các nước thu nhập trung bình thấp (LMC), các nước thu nhập trung
bình cao (UMC) và các nước thu nhập cao (HIC).
Ngưỡng GNI/người để phân loại được thay đổi theo từng năm theo xu hướng
tăng lên. Theo báo cáo phát triển thế giới năm 2010, các nước thu nhập thấp có
GNI/người là 935$ trở xuống, trung bình thấp từ 936 đến 3705$, trung bình cao từ
3706 đến 11.455$ và nhóm thu nhập cao từ 11.456$ trở lên.
Theo ngưỡng này, trong số 195 quốc gia và nền kinh tế tham gia xếp loại, có
khoảng 50 nước LIC trong đó phần lớn là các nước vùng châu phi Hạ Sahara (33
nước), 53 quốc gia thuộc LMC, 41 quốc gia UMC và 68 quốc gia và nền kinh tế HIC.
+ Nếu phân loại theo trình độ phát triển con người, dựa trên Chỉ số phát triển

6
(1) Nhóm các nước công nghiệp phát triển – DCs: Có khoảng 40 nước bao gồm
nhóm bảy nước công nghiệp đứng đầu thế giới (thường gọi là nhóm G7 bao gồm Mỹ,
Nhật, Anh, Pháp, Đức, Italia và Canada) và các nước công nghiệp phát triển khác.
Những nước này nằm trong số những quốc gia có quy mô GNP lớn nhất thế
giới (trên 500 tỷ USD) và GNI/người cao nhất thế giới (trên 20.000 USD/người).
Riêng G7 chiếm tới 75% tổng giá trị công nghiệp toàn thế giới. Các nước công nghiệp
phát triển khác bao gồm phần lớn các nước Tây Âu, Bắc Âu, Đông Âu cùng với Úc và
Niudilan. Các nước này đều có GNI/người đạt trên 15.000 USD và có tỷ trọng công
nghiệp cao trong nền kinh tế. Đại bộ phận các nước nước đều tham gia vào tổ chức
hợp tác và phát triển kinh tế - OECD.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (tiếng Anh: Organization for Economic
Co-operation and Development; viết tắt: OECD) đó là một diễn đàn dành cho các
thành viên, hiện là chính phủ của 34 nước kinh tế thị trường phát triển nhất thế giới
cũng như 70 nước không phải là thành viên, cùng nhau bàn bạc, trao đổi kinh nghiệm
để giải quyết các vấn đề kinh tế cũng như các vấn đề chung khác. Hiện OECD có 34
thành viên, hầu hết trong số đó là các quốc gia có thu nhập cao.
(2) Các nước công nghiệp mới – NICs: Đây là những nước ngay từ thập kỷ 60,
trong đường lối phát triển kinh tế của mình đã biết tận dụng lợi thế so sánh của đất
nước qua từng thời kỳ để sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Họ cũng tranh thủ được nguồn
vốn đầu tư và công nghệ của các nước phát triển để thực hiện công nghiệp hóa, đưa
đấy nước thoát khỏi tình trạng nông nghiệp lạc hậu, tiến tới nền công nghiệp hiện đại.
Thu nhập bình quân đầu người của các nước này đạt khoảng trên 6.000 USD/người.
Theo WB có khoảng 11 nước NICs. Trong số những nước này, thế giới đặc biệt quan
tâm đến bốn nước NICs châu Á được mệnh danh là bốn con rồng. Những nước này đã
đạt được tốc độ tăng trưởng bình quân 7 – 8% liên tục trong ba thập kỷ, có thời kỳ đạt
mức 11 – 12% và có mức thu nhập bình quân trên 10.000 USD/người, họ đã tạo ra
được những nền kinh tế đầu sức sống.
(3) Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC): Đây là những nước sau chiến tranh
thế giới thứ 2, vào giữa thập kỷ 60 bắt đầu phát hiện ra nguồn dầu mở lớn, họ đã tận

khí hậu sa mạc nóng và khô nhưng nhờ được chăm sóc chu đáo nên các công viên, bãi
cỏ luôn xanh ngát.
Doha có rất nhiều di tích cổ như bảo tàng, pháo đài, các đền thờ cổ kính thu hút du
khách. Nổi bật là Bảo tàng Quốc gia Qatar — được xây bằng đá phiến một màu vàng
trắng kiên cố như một pháo đài giữa sa mạc.
Người dân Quatar tự hào nói rằng, muốn biết sự giàu có của đất nước vùng vịnh này,
xin hãy vào Bảo tàng Quốc gia Qatar. Gần một nửa không gian phía sau của bảo tàng
được dành để xếp những chiếc ô tô cực kỳ sang trọng cùng các đồ vàng bạc, châu báu
khác.
8
Ở khu vực nhà giàu Vịnh Ngọc Trai với hàng trăm du thuyền đậu kín dưới bến. Trên
bờ là khu shopping chỉ toàn thương hiệu lớn như Hermes, Gucci, Versace, Christian
Dior…
Doha, cũng là một thiên đường mua sắm với những mặt hàng miễn thuế dạng trong
các trung tâm thương mại: City Center, Landmark, Hyatt Plaza, the Mall và the Royal
Plaza… Không chỉ có nhiều tiền, người dân Qatar cũng rất biết cách tiêu tiền. Nếu như
muốn mua một món đồ mà Qatar không có, họ lập tức đáp máy bay tới Dubai để mua.
Nếu như ở Dubai cũng không có thì họ có thể bay tới Châu Âu hoặc Mỹ để mua bằng
được.
Tuy phụ nữ ở Qatar bình đẳng hơn so với các nước Ả-rập khác, thể hiện qua việc được
tự lái xe. Nhưng họ vẫn phải đeo mạng che mặt, không được ngồi gần nam giới tại một
số nơi ở Doha.
Người dân nước này chưa bao giờ phải lo lắng về việc làm thế nào để kiếm sống. Vì
thế, mà người dân ở đây không cần thiết phải làm việc.
Nếu bạn được sinh ra tại Qatar và là người dân Qatar thì từ khi bạn sinh ra bạn sẽ
không mất một xu nào để khám bệnh ngay cả gas, điện, nước cũng do chính phủ do chi
trả, người dân không phải mất tiền.
Dầu mỏ là nguồn tài nguyên quý của đất nước Qatar và đem lại cho họ cuộc sống sung
túc.
(4) Các nước đang phát triển: Thuật ngữ đang phát triển được thể hiện để chỉ

sử, địa lý, chính trị và kinh tế, nhưng giữa các nước này cũng có sự khác biệt cơ bản,
tạo nên tính đa dạng cho các nước này. Những khác biệt này chi phối đến việc xác
định lợi thế của từng nước.
(1) Quy mô đất nước
Xem xét quy mô đất nước dưới góc độ diện tích hay dân số cũng được coi là
những yếu tố quan trọng, xác định tiềm năng của một nước. Trong khoảng 130 nước
đang phát triển, có những nước diện tích rộng lớn và đông dân cư như Trung Quốc, Ấn
Độ, Braxin. Ngược lại có những nước nhỏ cả vè diện tích và dân số như Brunei,
Maldives…Nước lớn thường có vị thế tài nguyên phong phú, thị trường tiềm năng.
Tuy vậy, nó cũng tạo ra những khó khăn về quản lý hành chính, về sự thống nhất quốc
gia trong các lĩnh vực chính trị, xã hội, cũng như sự cân đối giữa các khu vực.
(2) Bối cảnh lịch sử
Nguồn gốc lịch sử khác nhau của các nước đang phát triển cũng tác động đến
xu thế khác nhau trong quá trình phát triển. Hầu hết các nước châu Á và châu Phi đều
có thời kỳ dài là thuộc địa của các nước tây Âu chủ yếu là Anh và Pháp, ngoài ra còn
Bồ Đào Nha, Bỉ và Tây Ban Nha. Cơ cấu kinh tế cũng như nền tảng giáo dục và xã hội
thông thường dựa vào mô hình của các nước đã cai trị họ trước đây, Ở châu Á, những
di sản khác nhau của thời kỳ thực dân cùng với những truyền thống văn hóa đa dạng
của các dân tộc bản địa đã kết hợp với nhau để tạo ra mô hình xã hội và thể chế hoàn
toàn khác nhau giữa các nước như Ấn Độ, Philipines, Lào, Indonesia. Những nước
châu Phi do dành độc lập muộn nên thường quan tâm đến việc củng cố các thể chế
chính trị, mặc dù khả năng đa dạng về địa lý và nhân khẩu nhưng những nước này đều
có thể chế kinh tế - xã hội và văn hóa tương đối giống nhau.
(3) Vai trò của khu vực nhà nước và khu vực tư nhân
10
Ở hầu hết các nước đang phát triển đều song song tồn tại khu vực kinh tế nhà
nước và tư nhân. Tuy nhiên, xác định tầm quan trọng tương đối giữa hai khu vực này
tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế - chính trị của mỗi nước. Nhìn chung các nước châu
Mỹ La tinh và Đông Nam Á có khu vực kinh tế tư nhân lớn hon các nước nam Á và
Châu Phi. Ở những nước châu Phi với sự thiếu hụt trầm trọng về lao động có tay nghề

được tổ chức tại Hà Nội ngày 19/9/2014. Với chủ đề "Vượt qua bẫy thu nhập trung bình",
diễn đàn do Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản tổ chức tập trung thảo luận về những thách
11
thức mà một quốc gia gặp phải khi đạt ngưỡng thu nhập trung bình, nhưng không thể
vươn lên nấc thang cao hơn, thậm chí thụt lùi về tăng trưởng.
Phát biểu tại sự kiện này, Trưởng ban châu Á của OECD - Kensuke Tanake đưa ra một
bảng dự báo về thời gian dự tính để các nền kinh tế có thu nhập trung bình châu Á trở
thành nước phát triển. Trong đó, Việt Nam thuộc nhóm tốn nhiều thời gian nhất, với thời
gian lên hạng thu nhập cao vào năm 2058, trước Ấn Độ một năm.
Trong khi đó, các nước lân cận như Malaysia được dự báo sẽ vượt ngưỡng thu nhập trung
bình vào năm 2020, Trung Quốc năm 2026 và Thái Lan năm 2031.
Nói về hiện trạng phát triển, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Bùi Quang Vinh nhấn
mạnh Việt Nam luôn xác định mình đang là một nước có thu nhập trung bình thấp. Đây là
kết quả của quá trình dài 30 năm và những động lực phát triển trước đây đã gần hết dư
địa. "Nếu không tìm ra phương thức tái cấu trúc thì chắc chắn Việt Nam sẽ đối diện bẫy
thu nhập trung bình và tăng trưởng chậm lại", Bộ trưởng Vinh nhấn mạnh.
Ở quy mô rộng hơn, theo quan điểm của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), châu Á sẽ
đứng trước 2 kịch bản phát triển đến năm 2050. Kịch bản thứ nhất là GDP cao gấp 10 lần
năm 2010. Kịch bản thứ hai là toàn châu lục mắc kẹt vào cái bẫy nói trên.
Thu nhập bình quân đầu người của một số nền kinh tế châu Á hiện nay
Quốc gia
Dân số
(triệu)
GDP (tỷ
USD)
GDP đầu
người (USD)
Dự báo tăng
trưởng GDP
2014 (%)

tầng; đầu tư vào y tế giáo dục và con người; chính sách thương mại và đầu tư; quản trị tốt;
sự hòa nhập cho tất cả mọi người; chia sẻ tầm nhìn phát triển chung.
Nguồn: Vnexpress
1.2.2.2. Tỷ lệ tích lũy thấp
Điều hiển nhiên là để có nguồn vốn tích lũy cần phải hy sinh tiêu dùng. Nhưng
khó khăn là ở chỗ, đối với các nước đang phát triển, nhất là những nước có thu nhập
thấp, đã gần như chỉ có mức sống tối thiểu, vì vậy việc giảm tiêu dùng là rất khó khăn.
Ở các nước phát triển thường để dành từ 20% đến hơn hơn 30% thu nhập để tích lũy.
Trong khi đó ở các nước nông nghiệp chỉ có khả năng tiết kiệm trên 10% thu nhập,
nhưng phần lớn số tiết kiệm này lại phải dùng để cung cấp nhà ở và trang thiết bị cần
thiết khác cho số dân đang tăng lên. Do vậy càng hạn chế quy mô tiết kiệm cho tích
lũy phát triển kinh tế.
1.2.2.3. Trình độ kỹ thuật của sản xuất thấp
Ở các nước đang phát triển hoạt động kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở sản xuất
nhỏ, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, kỹ thuật sản xuất thủ công lạc hậu. Lịch sử phát
triển kinh tế cho thấy rằng, nền kinh tế không thể chuyển động đi lên nếu không có
công nghiệp phát triển. Sự ra đời của các phương thức sản xuất mới luôn đi đôi với
cách mạng công nghiệp. Các nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đều
có nguồn gốc từ tốc độ tăng của ngành công nghiệp. Trải qua giai đoạn phát triển công
nghiệp thay thế nhập khẩu, các nước đang phát triển tuy đã có được những ngành công
nghiệp mới, nhưng phần lớn vẫn là những ngành sản xuất với kỹ thuật cổ truyền, trình
độ kỹ thuật thấp, sản xuất sản phẩm thường ở dạng thô, sơ chế hoặc chế biến với chất
lượng thấp, trong khi các nước có nền kinh tế phát triển đã đạt tới trình độ công nghệ
tiên tiến với kỹ thuật sản xuất hiện đại, trình độ quản lý thành thạo, vượt xa trình độ
công nghệ của các nước đang phát triển từ 3 – 6 thập kỷ, khoảng cách công nghệ quá
13
lớn cũng làm cho các nước đang phát triển khó tận dụng được lợi thế của các nước đi
sau do quá trình phân công lao động quốc tế mới đưa lại.
1.2.2.4. Năng suất lao động thấp
Do sản xuất chủ yếu là nông nghiệp, trình độ kỹ thuật thấp kém, tỷ lệ tích lũy

Trong bảng xếp hạng này, Việt Nam đứng thứ 16 trên 24 nước. Khả năng sáng tạo
được đánh giá chỉ ở mức trung bình, với cả “Đầu vào” và “Đầu ra” đứng ở nửa cuối
danh sách. Tính riêng khu vực Đông Nam Á, Việt Nam xếp thứ 6, sau Lào, Singapore,
14
Indonesia, Malaysia và Thái Lan.
Các tiêu chí cần ưu tiên cải thiện về “Đầu vào” của Việt Nam là lọt top 500 trường Đại
học, tốc độ phổ cập tài chính vi mô và khả năng trả nợ. ADB nhận xét Việt Nam còn
gặp nhiều thách thức trong việc cung cấp nhân lực, với 27,2 điểm trên 100. Dù hơn
90% dân số biết chữ, hệ thống trường lớp và chương trình học của Việt Nam được
đánh giá đã lỗi thời. Các kỹ năng của lao động trong ngành dịch vụ, IT và tài chính –
ngân hàng cũng còn thiếu. Bên cạnh đó, dù độ năng động của các công ty ở mức trung
bình, rủi ro về bất ổn trong nhân công cũng là mối lo với các doanh nghiệp.
Tương tự, tiêu chí “Đầu ra” cần cải thiện là số bằng sáng chế, các ấn bản khoa học và
sách, do vẫn ở mức trung bình so với mặt bằng chung. ADB cũng cho rằng Việt Nam
cần cải thiện chất lượng và phương hướng bậc giáo dục đại học.
Nguồn: Vnexpress
Ngoài ra các nước đang phát triển còn đối mặt với một thách thức nữa trong
quá trình phát triển đó là áp lực về dân số. Dân số những nước đang phát triển vốn đã
đông, sự bùng nổ về dân số ở những quốc gia này đã tạo ra một hạn chế lớn cho phát
triển kinh tế. Tỷ lệ gia tăng dân số thường ở mức cao hơn tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đã
làm cho mức sống của nhân dân ngày cành giảm. Theo số liệu của Báo cáo phát triển
thế giới 2010, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân trong vòng 10 năm 2000 – 2010 của
thế giới là 1,2%, các nước phát triển chỉ là 0,7%, trong khi đó các nước đang phát triển
là 1,3%, các nước chậm phát triển 2,2%, vùng Châu Phi Hạ Sahara còn lên tới 2,5%.
Dân số tăng trưởng nhanh làm cho tốc độ tăng lao động lớn hơn tốc độ tăng trưởng
việc làm, điều đó dẫn đến hiện tượng thất nghiệp trở thành khá phổ biến ở các nước
đang phát triển và gánh nặng giải quyết việc làm luôn đặt lên vai Chính phủ của các
nước này.
Do tốc độ tăng trưởng dân số nhanh, ngoài việc phải vật lộn với mức thu nhập
thấp, nhiều người dân ở các nước đang phát triển còn thường xuyên phải đấu tranh

thông qua các hình thức khác nhau như đầu tư trực tiếp, nhập khẩu, mua bán công
nghệ nước ngoài và phụ thuộc vào tốc độ và trình độ phát triển của khoa học công
nghệ của các nước phát triển.
Thứ ba, phụ thuộc bởi thị trường quốc tế, nhất là thị trường cung cấp hàng hóa
trung gian, các nước đang phát triển thường xuất khẩu sản phẩm thô, nhưng lại phải
nhập khẩu hàng hóa đầu vào của các quá trình sản xuất do họ không có khả năng sản
xuất ra các hàng hóa này.
Điều đó gây ra những hạn chế về tính hiệu quả cũng như tính chủ động trong
quá trình thực hiện các mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế.
1.2.3. Sự cần thiết lựa chọn con đường phát triển
Những đặc trưng trên đây chính là những trở ngại đối với sự phát triển, chúng
có liên quan chặt chẽ với nhau, tạo ra vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ, làm cho
khoảng cách giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển ngày càng gia tăng.
16
Hình 1.1: Vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ
Đứng trước tình hình này đòi hỏi các nước đang phát triển phải có biện pháp để
phá vỡ vòng luẩn quẩn. Trong khi tìm kiếm con đường phát triển đã dẫn đến những xu
hướng khác nhau. Có những nước vẫn tiếp tục rơi vào tình trạng trì trệ, thậm chí phát
triển thụt lùi, xã hội rối ren, như một số nước châu Phi cận Sahara, hay một số nước
Nam Á. Có những nước đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá, đưa đất nước ra khỏi
vòng luẩn quẩn, nhưng rồi lại rơi vào những cuộc khủng khoảng với những vòng luẩn
quẩn mới như Philipines. Bên cạnh đó có những nước đã tạo được tốc độ phát triển
nhanh, rút ngắn khoảng cách thậm chí đuổi kịp các nước phát triển, đó là các nước
NICs Châu Á: Hồng Kông, Đài Loan, Singapore và Hàn Quốc. Gần đây các nước Thái
Lan, Malaixia và Trung Quốc cũng đã chứng minh sự đúng đắn trong việc lựa chọn
đường lối phát triển. Vì vậy việc lựa chọn con đường đi hợp lý cho mỗi nước là điều
tất yếu phải đặt ra trong quá trình phát triển của quốc gia mình.
1.3. Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu môn học
Kinh tế học truyền thống (vĩ mô và vi mô) nghiên cứu nguyên lý phát triển kinh
tế, trong đó nội dung chính là nghiên cứu cách thức phân bổ nguồn lực khan hiếm để

người một cách có hiệu quả cao trong điều kiện còn nhiều hạn chế về vốn đầu tư, lao
động có tay nghề cao, công nghệ lạc hậu và các điều kiện bất lợi khác.
Trong khi kinh tế học truyền thống không đặt vấn đề nghiên cứu các vấn đề xã
hội với các thành phần, dân cư khác nhau, khả năng tham gia của họ vào hoạt động
kinh tế cũng như ảnh hưởng của kinh tế đến sứ mệnh phát triển con người như thế nào,
thì các vấn đề này lại được đề cập trong Kinh tế phát triển. Câu hỏi đặt ra là làm thế
nào để kết quả của tăng trưởng mang lại những cải thiện nhanh chóng và có quy mô to
lớn trong mức sống của quảng đạt người dân, nhất là người nghèo đói, suy dinh
dưỡng, mù chữ.
Tóm lại, Kinh tế phát triển là một môn trong hệ thống các môn Kinh tế học, nó
nghiên cứu nguyên lý phát triển kinh tế trong các điều kiện kém phát triển, đó là quá
trình chuyển một nền kinh tế từ tình trạng trì trệ, lạc hậu, tăng trưởng thấp, tỷ lệ nghè
đói và mất công bằng xã hội cao sang một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh, có
hiệu quả và với các tiêu chí xã hội ngày càng được cải thiện.
Mục tiêu, tôn chỉ của Kinh tế phát triển là cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn
quá trình phát triển kinh tế từ một xuất phát điểm thấp kém, giúp các nước đang phát
triển có thể vận dụng vào hoàn cảnh, đặc điểm riêng của mình trong từng giai đoạn
nhất định, tìm kiến được con đường phát triển hợp lý, cải thiện tình trạng chưa tiến bộ
của từng quốc gia.
Về phương pháp nghiên cứu, Kinh tế phát triển được thực hiện theo những
phương pháp chính sau đây:
18
(1) Phương pháp nghiên cứu thực chứng và chuẩn tắc của Kinh tế học: Việc
phân tích đánh giá vấn đề dựa trên những kết quả nghiên cứu thực nghiệm (thực
chứng) sẽ là cơ sở tốt cho việc nghiên cứu tìm ra và đề xuất các chính sách, mô hình
cũng như cách thức vận hành các hoạt động kinh tế - xã hội (chuẩn tắc) trong quá trình
hình thành các cơ sở khoa học và thực tiễn cho quá trình chuyển nền kinh tế từ tình
trạng thấp lên cao.
(2) Phương pháp phân tích so sánh: Để đánh giá một quá trình hay yếu tố phát
triển, cần phải dựa trên cơ sở so sánh toàn diện, bao gồm so sánh theo chuỗi thời gian

quả.
- Nội hàm của phát triển là chuyển dịch mặt bằng kinh tế, xã hội và giai đoạn
kinh tế.
19
1.2.2.2. Đo lường phát triển kinh tế
Để đo lường phát triển người ta dùng hệ thống chỉ tiêu
Một là, sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu nhập
bình quân trên một đầu người. Đây là tiêu thức thể hiện quá trình biến đổi về lượng
của nền kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao mức sống vật chất của một quốc gia và
thực hiện những mục tiêu khác của phát triển.
Hai là, sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế. Đây là tiêu thức phản
ánh sự thay đổi về chất của nền kinh tế trong một quốc gia. Để phân biệt các giai đoạn
phát triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển kinh tế giữa các nước với nhau, người
ta thường dựa vào dấu hiệu về dạng cơ cấu ngành kinh tế mà quốc gia đạt được.
Ba là, sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội. Mục tiêu cuối
cùng của sự phát triển kinh tế trong các quốc gia không phải là tăng trưởng hay chuyển
dịch cơ cấu kinh tế mà là việc xóa bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, sự tăng lên của tuổi
thọ bình quân, khả năng tiếp cận đến các dịch vụ y tế, nước sạch, trình độ dân trí giáo
dục của quảng đại quần chúng nhân dân. Hoàn thiện các tiêu chí trên là sự thay đổi về
chất xã hội của quá trình phát triển.
1.2.3. Phát triển kinh tế bền vững
Từ những năm 1970 - 1980, trong khi tăng trưởng kinh tế của nhiều nước đã đạt
được quy mô và tốc độ nhất định thì tình trạng suy kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi
trường xuất hiện ngày càng nhanh. Các vấn đề trên xuất hiện và chỉ có thể được giải
quyết ở phạm vi quốc gia, liên quốc gia và toàn cầu. Vấn đề phát triển bền vững trở
thành chương trình nghị sự của mỗi nước và cả thế giới.
Năm 1987, Ngân hàng Thế giới lần đầu tiên đưa ra khái niệm phát triển bền
vững: “Là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khả
năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai,…”
Quan niệm trên đây của WB chỉ mới chú trọng đến sử dụng có hiệu quả tài

 Xung đột giữa các giai cấp chủ và thợ gắn với nạn thất nghiệp tràn lan.
 Xung đột giữa các dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; xảy ra mâu thuẫn về lợi ích
kinh tế - xã hội, do quá trình tăng trưởng không đều tạo nên.
+ Tăng trưởng kinh tế đưa lại những giá trị mới xong nó cũng phá hủy và hạ
thấp một số truyền thống tốt đẹp cần phải bảo tồn và phát huy như: nền giáo dục gia
đình, các giá trị tinh thần, đạo đức, thuần phong mỹ tục, các chuẩn mực của dân tộc.
Đồng thời với việc làm giàu bằng bất cứ giá nào thì các tội ác cũng phát triển: các
21
Mục tiêu kinh tế
Tăng trưởng cao, ổn định
Phát triển bền vững
Mục tiêu xã hội
Mục tiêu
môi trường
Bảo vệ, cải thiện
TNTN,
MT
-Cải thiện các điều
kiện xã hội,…
- Phát triển nhân
lực
Cải thiện môi
trường, bảo vệ
TNTN
băng đảng lũng đoạn, tệ nạn sản xuất hàng giả, buôn bán chất ma túy, gái mại dâm với
quy mô quốc tế…cũng gia tăng.
+ Sự tăng trưởng và phát triển nhanh chóng còn dẫn đến những diễn biến khó
lường trước, cả mặt tốt và không tốt. Do vậy đời sống kinh tế - xã hội thường đảo lộn,
mất ổn định, khó có thể lường trước được hậu quả.
Ví dụ: Thái Lan trong những năm 90 đã rơi vào tình trạng một nền kinh tế tăng

quả đó.
22
- GNP là thước đo sản lượng gia tăng mà dân cư của một nước thực sự thu nhập
được, không phân biệt sản xuất được thực hiện ở trong hay ngoài nước.
1.3.1.3. Phương pháp tính
a. Tổng sản phẩm quốc dân (GDP)
+ Tính theo luồng sản phẩm: GDP = C + I + G + NX
+ Tính theo luồng thu nhập hoặc chi phí: GDP = W + r + i + Π + A + Te
+ Tính theo giá trị gia tăng: GDP là tổng giá trị của hàng hoá và dịch vụ cuối
cùng được sản xuất ra.
b. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
GNP = GDP + Thu nhập ròng từ tài sản nước ngoài.
Thu nhập ròng từ tài sản nước ngoài: Các khoản thu nhập mà dân cư trong nước
tạo ra ở nước ngoài trừ đi các khoản thu nhập mà người nước ngoài tạo ra ở trong
nước.
GNPn đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong một thời kỳ theo giá
hiện hành (giá cả của cùng thời kỳ đó).
GNPr đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong một thời kỳ theo giá
cố định ở thời kỳ được lấy làm gốc.
Cầu nối giữa GNPn và GNPr là chỉ số giá cả, còn gọi là chỉ số lạm pháp tính theo
GNP (D).
%100
Pr
x
GN
GNPn
D =
1.3.2. Sản phẩm quốc dân thuần túy (NNP)
NNP = GNP – Dp
1.3.3. Thu nhập quốc dân (NI)

chuyển đổi theo xu hướng chung là tỷ trọng nông nghiệp có xu hướng giảm đi, trong
khi đó tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên.
1.4.1.2. Cơ cấu vùng kinh tế
Sự phát triển kinh tế được thể hiện ở cơ cấu kinh tế theo góc độ thành thị và
nông thôn. Ở các nước đang phát triển, kinh tế nông thôn chiếm tỷ trọng rất cao. Trong
khi đó, các nước phát triển có hiện tượng đối ngược lại, dân số chủ yếu sống ở khu vực
thành thị.
Một xu hướng khá phổ biến của các nước đang phát triển là luôn có một dòng
di dân từ nông thôn ra thành thị. Đó là kết quả của cả “lực đẩy” từ khu vục nông thôn
bởi sự nghèo khổ cũng như sự thiếu thốn đất đai ngày càng nhiều và cả “lực hút” từ sự
hấp dẫn của khu vực thành thị. Dòng di dân ngày càng lớn đã tạo ra áp lực rất mạnh
đối với chính phủ các nước đang phát triển. Mặt khác, việc thực hiện các chính sách
công nghiệp hóa nông thôn, đô thị hóa, phát triển hệ thống công nghiệp, dịch vụ nông
thôn làm cho tỷ trọng kinh tế thành thị ở các nước đang phát triển ngày càng tăng lên,
tốc độ tăng dân số thành thị cao hơn so với tốc độ tăng trưởng dân số chung và đó
chính là xu thế hợp lý trong quá trình phát triển.
1.4.1.3. Cơ cấu thành phần kinh tế
Đây là dạng cơ cấu phản ánh tích chất xã hội học về tư liệu sản xuát và tài sản
của nền kinh tế. Xét về nguồn gốc thì có 2 loại hình sở hữu là sở hữu công cộng và sở
24
hữu tư nhân. Nhìn chung các nước phát triển và xu hướng ở các nước đang phát triển,
khu vực kinh tế tư nhân thường chiếm tỷ trọng cao và nền kinh tế phát triển theo con
đường tư nhân hóa.
Ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại 6 thành phần kinh tế là thành phần kinh tế
nhà nước, thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ, thành phần
kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế tư bản nhà nước và thành phần kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế nói trên không có sự phân biệt về thái
độ đối xử, đều có môi trường và điều kiện phát triển như nhau, trong đó, kinh tế nhà
nước đóng vai trò chủ đạo.
1.4.1.4. Cơ cấu khu vực thể chế


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status