Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh - Pdf 25

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*** ĐỖ THỊ HẢI

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN
NGẮN
TỪ NGUYÊN TĨNH

NGÀNH : VĂN HỌC
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỎA DIỆU THÚY


1.2.1. Hình ảnh Hàm Rồng, trọng điểm hủy diệt của Đế quốc Mỹ 25
1.2.2. Hình ảnh Hàm Rồng hiên ngang,bất khuất 27
Chƣơng hai: Thế giới nhân vật đa dạng, phong
phú 34
2.1. Nhân vật tư tưởng 34
2.2. Nhân vật số phận 41
2.3. Nhân vật loại hình 45
2.3.1. Nhân vật người tốt 45
2.3.2. Nhân vậtngười xấu 52
2.4. Nhân vật tính cách 57
2.4.1. Kiểu tính cách “lưỡng hóa” 58
2.4.2. Kiểu tính cách “tự nhiên bản thể” 60
Chƣơng ba: Một số đặc điểm ở phƣơng diện trần thuật
64
3.1. Điểm nhìn trần thuật linh hoạt 64

5
3.1.1. Điểm nhìn gián tiếp 64
3.1.2. Điểm nhìn trực tiếp 66
3.1.3. Điểm nhìn nửa trực tiếp, nửagián tiếp 68
3.2. Sử dụng yếu tố huyền ảo để dẫn dắt và kết nối mạch truyện 71
3.2.1. Khai thác đề tài dân gian để tạo dựng cốt truyện kỳ ảo 71
3.2.2. Sử dụng tình tiế, chi tiết hoang đường, kì ảo làm hạt nhân của tứ truyện 72
3.3. Giọng điệu trần thuật đa giọng 74
3.3.1. Giọng nghiêm cẩn, cung kính 74
3.3.2. Giọng ngợi ca 75
3.3.3. Giọng khách quan, lạnh lùng 76
3.3.4. Giọng cảm thông, chia sẻ 78
3.3.5. Giọng hài hước, châm biếm 78
3.3.6. Giọng giễu nhại 79

được “mài đũng quần” trên ghế của giảng đường khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng
hợp rồi lại trở về với mảnh đất đã sinh thành và chắp cánh cho ông trở thành nhà văn
như bây giờ. Đó là lí do khiến phần lớn sáng tác của Từ Nguyên Tĩnh đều lấy cảm
hứng từ xứ Thanh, đậm đặc không gian xứ Thanh, thấm đẫm tâm hồn tính cách xứ
Thanh. Ở một mức độ nào đó muốn tìm hiểu về con người và mảnh đất Thanh Hóa
giai đọan hiện đại có thể tìm đến sáng tác của Từ Nguyên Tĩnh như một địa chỉ đáng
tin cậy.
Từ Nguyên Tĩnh vẫn luôn nhận mình là nhà văn tỉnh lẻ, nhưng “nhà văn tỉnh
lẻ” này trong ngót ba mươi năm cầm bút đã cho ra mắt 6 tập truyện ngắn, 4 tiểu
thuyết, 2 tập thơ và một trường ca. Tuy nhiên, nghệ thuật không quen đo đếm ở số
lượng, tác phẩm của Từ Nguyên Tĩnh cũng đã được nhận nhiều giải thưởng văn
chương.
Truyện ngắn dường như là thể loại gắn bó suốt đời của cây bút này: sáng tác
đầu tay là truyện ngắn, đỉnh cao thành công của sự nghiệp sáng tác là truyện ngắn và
hình như cứ vài năm lại đều đặn cho ra đời một tuyển tập truyện ngắn. Tập Truyện
ngắn Từ Nguyên Tĩnh – NXB Công an nhân dân, 2006 cho thấy truyện ngắn là nơi
tập trung “cái hồn, cái tạng của nhà văn”.
Tìm hiểu thế giới nghệ thuật của truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh, luận văn nhằm
hướng tới tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của một tác giả tiêu biểu, có đóng góp cho sự
phát triển của một vùng văn học nói riêng, nền văn học Việt Nam nói chung.
Hiện nay trong chương trình ở các cấp phổ thông và đại học đã đưa nội dung
giới thiệu tác giả và tác phẩm văn học địa phương vào giảng dạy. Luận văn nghiên cứu

7
một tác giả địa phương nhằm phục vụ cho việc tìm hiểu, học tập và góp phần xây
dựng chương trình này.
2. Lịch sử vấn đề:
Từ Nguyên Tĩnh từng đoạt nhiều giải thưởng văn chương, vì vậy, tác phẩm của
ông đã thu hút được sự quan tâm độc giả trong đó có giới phê bình, nghiên cứu. Là
cây bút xông xáo trên nhiều thể loại nên số lượng bài viết về tác phẩm ông cũng không

Hướng nghiên cứu khái quát:
ở hướng nghiên cứu này có hai dạng: thứ nhất, nghiên cứu bao quát toàn bộ tác
phẩm của tác giả, như bài viết: “Cây bút xứ Thanh” của tác giả Bùi Việt Thắng in trên
báo Văn Hóa Thanh Hóa số 383, 7/1998. Trong khuôn khổ của một bài báo mà đưa ra
ý kiến về tất cả các thể loại thì chỉ có thể là những nhận xét bước đầu hoặc những cảm
nhận khái quát, chẳng hạn “Từ Nguyên Tĩnh viết cả ký, tiểu thuyết và truyện ngắn,
nhưng dĩ nhiên người đọc vẫn nhớ anh là một nhà văn viết truyện ngắn rất có duyên
hiện nay góp phần làm khởi sắc thể loại “nhỏ” vốn có truyền thống và thành tựu
trong nền văn học dân tộc, đặc biệt ở thế kỉ XX”.
Tác giả Đỗ Văn Phác trong bài viết “Bước đầu tìm hiểu truyện ngắn Từ
Nguyên Tĩnh (Nhân đọc Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh– NXB Công an nhân dân, năm
2006)” in trên tạp chí Xứ Thanh tháng 8/2007 thì cảm nhận được nội dung cụ thể của
một số truyện ngắn tiêu biểu và phần nào phát hiện ra bút pháp nghệ thuật của nhà
văn.
Đáng kể hơn cả là một số bài viết đã đi sâu nghiên cứu về một phương diện
nào đó của truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh, như : “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn
Từ Nguyên Tĩnh” in trên tạp chí Xứ Thanh số 323, 5/2008; “Về yếu tố huyền thoại kì
ảo trong truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh” ” in trên tạp chí Xứ Thanh 8/2008, và “Truyện
ngắn Từ Nguyên Tĩnh- món nợ làng quê” (Đọc Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh, NXB
Công an ND, 2006 ) in trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số 148, 5/2007 của
TS Hỏa Diệu Thúy. Theo TS Hỏa Diệu Thúy, thế giới nhân vật trong truyện ngắn Từ
Nguyên Tĩnh “đa dạng về tính cách, phức tạp trong tâm hồn”; ấn tượng nhất trong
nghệ thuật truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh là yếu tố “huyền thoại kì ảo”; cũng theo TS
Hỏa Diệu Thúy, quê hương là nỗi ám ảnh lớn nhất của Từ Nguyên Tĩnh, nỗi ám ảnh
ấy như trở thành “món nợ” trong xúc cảm nghệ thuật của ông.
Tác giả Mạnh Lê trong bài viết “Mấy đặc sắc truyện ngắn Từ NguyênTĩnh”
trên tạp chí Xứ Thanh số 45 cũng đã cảm nhận về truyện ngắn của ông: “ quả là văn
anh có nguồn mạch. Cái mạch nguồn dễ nhận ra trước mắt là sắc thái một vùng quê”.

9

Từ Nguyên Tĩnh. Chúng tôi coi đó là chỗ còn bỏ ngỏ để đặt vấn đề nghiên cứu.

10
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Luận văn hướng tới tìm hiểu, nhận diện thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn
Từ Nguyên Tĩnh, từ đó nhằm tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của một nhà văn đồng thời
chỉ ra nét đặc trưng riêng của một nhà văn gắn bó với địa phương, vì vậy tác phẩm
mang sắc thái địa phương rõ nét.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Quan niệm về đề tài: Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử và Nguyễn Khắc Phi chủ biên- NXB Giáo dục, năm 2000, “Thế giới nghệ
thuật” là “một thế giới riêng được sáng tạo theo các nguyên tắc tư tưởng”; Thế giới
nghệ thuật có “không gian riêng, thời gian riêng, có quy luật tâm lí riêng, có quan hệ
xã hội riêng, quan niệm đạo đức thang bậc giá trị riêng”; Mỗi thế giới nghệ thuật “ứng
với một quan niệm về thế giới, một cách cắt nghĩa về thế giới”. Thế giới nghệ thuật
giúp ta “hình dung tính độc đáo về tư duy nghệ thuật của sáng tác nghệ thuật, có cội
nguồn trong thế giới quan, văn hóa chung, văn hóa nghệ thuật và cá tính sáng tạo của
nghệ sĩ”.
Xét theo quan niệm trên, Từ Nguyên Tĩnh quả đã tạo ra được một thế giới nghệ
thuật riêng trong các sáng truyện ngắn của mình. Thế giới nghệ thuật ấy gắn liền với
mảnh đất và con người xứ Thanh được lọc qua lăng kính của một người con xứ Thanh.
- Phạm vi và cũng là đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Thế giới nghệ thuật”
trong các sáng tác truyện ngắn của Từ Nguyên Tĩnh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để tiến hành nghiên cứu, chúng tôi vận dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp hệ thống. Nghiên cứu toàn bộ toàn bộ sáng tác truyện ngắn của
một nhà văn rất cần tới những thống kê, phân loại. Phương pháp hệ thống giỳp cho việc
phỏt hiện ra hạt nhõn lụ gớc tạo nờn tớnh khu biệt của loại hỡnh thể loại, từ đó xác định
rõ đối tượng nghiên cứu, khảo sát.
- Phương pháp loại hình. Đề tài tập trung khảo sát nghiên cứu một thể loại là
12
NỘI DUNG
Chƣơng một
TRUYỆN NGẮN TỪ NGUYÊN TĨNH, MỘT KHÔNG GIAN
XỨ THANH ĐẬM NÉT
Là một trong những cây bút khi đã thành danh rồi vẫn bám trụ tại mảnh đất quê
nhà, phải chăng đó chính là lí do khiến không gian nghệ thuật chính trong truyện ngắn
Từ Nguyên Tĩnh là không gian xứ Thanh, là con người và cuộc sống của mảnh đất
miền trung nắng gió mặn mòi.
1.1. Nông thôn Xứ Thanh qua hình ảnh “làng tôi” của tác giả
Từ Nguyên Tĩnh sinh ra ở làng Bàn Thạch, xã Xuân Quang, huyện Thọ Xuân,
Thanh Hoá, cách thành phố Thanh Hoá 36 km về phía tây tính theo đường chim bay.
Đó là một làng thuần nông “ít học, chỉ thích cày ruộng, quanh quẩn với vài sào ruộng
hoặc cày thuê cuốc mướn.”. Một vùng đất bán sơn địa, song có lẽ là mạch đất hưng
vượng nên “sinh ra cả anh hùng và thi sĩ”. Đây là quê hương của hai bậc anh hùng hào
kiệt có công sáng lập nên hai triều đại lớn trong lịch sử dân tộc: Lê Hoàn và Lê Lợi;
cũng là nơi phát tích nghề ca công. Mảnh đất giàu trầm tích văn hoá này trở thành
nguồn cảm hứng dồi dào cho các sáng tác của Từ Nguyên Tĩnh.
1.1.1. “Làng tôi” với những hiện thực bi hài trong quá khứ
Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh có một mảng lớn về hiện thực nông thôn và nông
thôn ấy chủ yếu là sự việc và con người của quê hương tác giả. Có nhà nghiên cứu đã
nhận xét rằng Từ Nguyên Tĩnh đã “mượn ô cửa làng mình để nhìn ra thế giới”. Từ

còm rom và mắc bệnh ho lao”. “Xưa làng xã tung hô anh bao nhiêu thì thì bây giờ tẩy
chay phỉ nhổ: “Cái quân phản động ấy dây vào làm gì chắc là bị tra tấn trong tù
không chịu nổi khai ra Mà phải lắm đấy Nó lại lấy con cái nhà giàu ”. “Người ta
quên đi công lao thầy mẹ tôi, chị Kén mua vàng , hiến của cho cách mạng. Họ cũng
chẳng cần biết bom đạn và tai biến nhắm vào gia đình tàn tạ ” [33, 139]
Đó là không khí của những năm cải cách ruộng đất với những chính sách bắt
nguồn từ tư duy ấu trĩ, cực đoan mà ngay sau đó Đảng ta đã nhận ra sai lầm. Cái ấu trĩ,
thiển cận của một thời khiến con người ta không quan tâm đến ngọn nguồn của sự việc
để xem xét đánh giá, yêu và ghét một cách hồn nhiên theo cảm tính dẫn đến những
oan sai cho bao số phận. Chị Kén “tôi” từ ngày ấy chìm nổi, ngụp lặn trong cuộc sống
bi đát nhất, bị hạ nhục, bị dày vò, chị trở thành nạn nhân của sự sai lầm trong tư duy
ấu trĩ. Tác giả không giấu nổi sự xót xa cho thân phận người chị khốn khổ chân yếu
tay mềm bị vùi dập tức tưởi: “…bó chị vào manh chiếu rách nát, khênh chị ra Mã

14
Tiền. Chị không tưởng tượng nổi được mình ra đi lại khốn khổ như thế này. Chị từng
đẹp một thời. Ai nhìn đến chị thảy đều giật mình, cùng một kiếp người…Chị ra Mã
Tiền không kèn trống, áo quan. Con Tấn khóc như xé vải: Mẹ ơi! Mẹ ơi”[33, 150].
Qua câu chuyện về người chị gái, câu chuyện về làng Bàn Thạch, Từ Nguyên Tĩnh đã
dựng lại không khí của những năm tháng ấy trên mảnh đất xứ Thanh. Nỗi đau không
hề nhỏ, những mất mát xuất phát từ những sai lầm, song dẫu sao, khí thế cách mạng
đang hừng hực khi đó đã cuốn đi tất cả.
Truyện Gã nhà quê lại là câu chuyện về một kiếp người khác, kiếp của lão Cao,
lão già cô độc chột một mắt để lại cho tác giả nhiều ấn tượng nhất mỗi khi nhớ về làng
mình hay nếu có ai nhắc đến hai chữ “nhà quê”. Chuyện về cuộc đời lão Cao làm nghề
chăn vịt, biết đủ thứ chuyện trên đời. Cuộc đời lão như một pho sử của làng. Câu
chuyện về cuộc đời lão cho ta hình dung về một nông thôn xứ Thanh ở một giai đoạn
lịch sử một đi không trở lại. “Thời ấy dân mình ngu hơn bây giờ. Chỉ biết nai lưng ra
làm cho bọn chánh, lý hào mục hưởng”. Câu chuyện của lão Cao với lũ trẻ đưa người
đọc trở về cái “thời ấy”, cái thời nô lệ. Lão Cao tứ cố vô thân không tấc đất cắm dùi,

đức tính thì ông tổ họ này nổi tiếng tằn tiện. Thủa hàn vi “đi chợ tỉnh bán chanh không
dám ăn quà, uống nước sợ tốn tiền. Dọc đường đái cố nhịn bằng được về nhà mới tiểu
kẻo mất của. Còn ba cây số nhịn không nổi phải chọn một cục đất cay của người ta mà
tè, đem về”[1, 8]. Có thể nói đây là chi tiết đắt giá về tính kiệm cần của người nông
dân xứ Thanh. Nó “ngang cơ” với chi tiết ăn “cá gỗ” của người nông dân xứ Nghệ. Xứ
Thanh vốn là mảnh đất thiên nhiên hà khắc, thiên tai địch họa luôn là nỗi lo sợ đối với
người dân, vì vậy để sống được ở đây người dân phải hết sức tằn tiện và chịu khó.
Đời con, đời cháu hình như cũng kế thừa được “đức tính” ấy. Ông Thầu “có tài tần
tiện đến mức lạ lùng. Lò vôi của xã giao cho thằng cháu họ mỗi lần đi qua ông xin một
cục, một năm trời ông đã có hố vôi tôi làm được cái chuồng lợn. Người ta nói, gạch
làm bếp là do ông đi hót phân rơi ở đường nhặt về xây đủ đấy”. Họ này giàu là nhờ
tiết kiệm cùng với tính chịu thương chịu khó, thành có máu mặt ở làng. Qua những
chi tiết độc đáo trên ta thấy nó tiêu biểu cho tâm lý và cách sống tằn tiện chi li đến tội
nghiệp của một bộ phận người nông dân. Giàu do tiết kiệm, do chắt bóp. Đó là cách
vươn lên để tự khẳng định của người nông dân xứ Thanh.
Dòng họ ấy không chỉ nổi tiếng về tính tằn tiện, tiết kiệm mà cũng nổi bật về
tính háo danh. Cả họ Công đều giàu nhưng hầu hết cả họ đều buồn một nỗi là trong họ
không có ai làm quan to và con em “thiếu ăn học”, “Cái buồn làm nẫu ruột bọn choai
choai, cái buồn làm khô héo người già cả”. Con trai chú Thầu “nghe đâu đánh nhau rất

16
máu me ở Hàm Rồng suýt được phong anh hùng” nhưng lại trật lất bởi cái tính huyếnh
hoáng của chú Thầu. Chưa được đưa tin lên đài báo mà mới có anh cán bộ về thẩm tra
đã “loan tin” và “ngã ngay con lợn ra liên hoan”, lại thêm cái tội “lãng phí lương thực
phá hoại sản xuất, chống Mỹ”. Chuyện con trai chú mất anh hùng làm “cả họ tiếc ngẩn
ngơ hàng năm trời”.
Ông Thầu có niềm tha thiết “con cái có danh giá”. Ông muốn “một ngày nào đó,
chi của cành thứ hai này phải nêu danh, là trụ cột của họ này”. Vì vậy khi đứa con trai
học hàm thụ đại học của ông bị “bóng gió” là “đại học giả cày. Đại học “bia –thịt chó”
là chú cứ bực mình. Tư tưởng này lan đến cả ông Tứ thuộc “cành cuối cùng của dòng

ông quan sát và đúc kết từ một dòng họ? Tuy nhiên, qua đó cũng cho thấy cách sống,
cách nghĩ của người nông dân xứ Thanh với những nét đặc trưng của xứ này.
Trong truyện Đứa bỏ làng lại là một hiện thực khác, một hiện thực nông thôn
lạc hậu, đời sống dân trí thấp, người dân lẩn quẩn trong đói nghèo, mê tín. Dốt nát đi
liền với nghèo đói, căn bệnh cố hữu của nông thôn Việt Nam một thời, xứ Thanh
không là ngoại lệ. Viết về thực trạng đó, nhà văn muốn gióng lên hồi chuông về vấn
đề phát triển nông thôn trước hết chính là vấn đề nâng cao dân trí: Cả làng Bàn Thạch
“trí thức” chỉ có ba người: “Bác Lung làm thầy bói, ông Lật thầy cúng và chú tôi”.
Tuy chú tôi không biết chữ “nhưng cũng nói được những lời lạ lùng”. Bác Lung thầy
bói “tiếng tăm hàng nửa thế kỉ của bác nổi như cồn. Đâu đâu người ta cũng đến xin ý
kiến bác”, từ chuyện “mất của” đến “tình duyên dang dở”, nhất là những người “mộ
lạc”. Thậm chí ông còn “bói về thời cuộc thua được của ta, ẩu đả của thế giới, luận về
Kiều”. Đã thế lại có lão Lật, “người thấp, đen sắt miệng méo làm nghề thầy cúng ủng
hộ” nên bác Lung rất “mạnh”.
Lão Lật thì lo liệu sức khỏe cho cả làng, “bọn nhóc ốm, hái lá léo không khỏi.
Cúng. Người ốm thập tử nhất sinh lập đàn cầu đảo, khỏi ngay. Động mồ động mả
cúng ăn nên làm ra”. Chính quyền xã là con cháu trong nhà, lại ít chữ thành ra người
“lo cho sinh mệnh của làng tôi là bác Lung và lão Lật thầy cúng”. Còn chú Ngũ tôi
“một chữ cắn đôi cũng không biết”, nhưng có dạo đã “làm tới chân chủ tịch xã” nhưng
“cũng chỉ nhập tâm các cuộc họp. Sau đã có máy đứa đàn em văn hoá lớp hai lớp ba
lên thay” [33; 34].Tri thức khoa học và sự văn minh là một điều xa lạ, lạc lõng ở làng
quê này.
“Trí thức” của làng thì như vậy, cán bộ xã chỉ lo ăn chơi, “ban ngày thì mấy
ông chính quyền xã điều hành- ăn uống lỉnh kỉnh, đêm về thì âm binh”, làng càng
“bại”. Điều hành cả xã không phải là bộ máy chính quyền vững mạnh, liêm khiết mà

18
chính là thầy bói Lung và lão Lật – thầy cúng. Con người làng quê tôi “nhỏ bé như
con chuột”. Chú Ngũ – tuy không biết chữ nhưng cảm nhận được điều ấy mà bất lực,
“không bác lại được những gì đã ăn sâu bén rễ trong tâm thức người dân bao đời”.

cả nước một không khí phấn khởi, hồi hởi khiến xã hội thay đổi về mọi mặt, trong đó
sự thay đổi sâu sắc nhất là đổi mới về tư duy. Người Việt Nam nói chung và người
Thanh Hoá nói riêng dần dần thoát khỏi lối tư duy làng xã để đến với văn minh đô thị.
Người dân làng Bàn Thạch của tác giả cũng đã vượt qua được “dòng sông định mệnh”
để vươn ra tự khẳng định mình. Đây cũng là một trong những chủ đề chính trong
truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh được ông dành nhiều tâm huyết: “Làng tôi” đã đổi mới.
Như trên đã nói, sự thay đổi lớn nhất của “làng tôi” nói riêng, nông thôn Thanh
Hóa và mở rộng ra trong cả nước thời “mở cửa” chính là đổi mới tư tưởng, đổi mới tư
duy. Truyện “Đứa bỏ làng” cùng một lúc đã đặt ra hiện thực ấy. Chi tiết về cái chết
của chú Ngũ “treo lơ lửng trên chiếc dây thừng. Chú như muốn bay lên trời mà không
bay nổi…” như là kết cục tất yếu của sự tăm tối, bế tắc. Trong số những kẻ lần mò tìm
cách thay đổi ấy chính là “tôi”, có sự ngấm ngầm đồng tình của dòng họ “cả họ góp
cho tôi gạo thóc, tế lễ rồi cũng tốt nghiệp đại học”. Có lẽ nhờ những năm tháng trong
quân ngũ (có đến mười năm rồi lại trở về làng) mà có thêm bản lĩnh và quyết tâm thay
đổi chăng? Và “tôi” chính là đứa “bỏ làng” sớm nhất “Tôi theo vợ nhập cư vào nửa
gian nhà của ủy ban kế hoạch. Ba mươi cây số phải mất bốn chục năm mới rời được
làng đi đến cái thị xã lèo tèo, bề bộn. Tôi bùi ngùi, muốn quên đi cái khổ truyền kiếp”.
Lác đác lại có đứa bỏ làng. “Chiều nay, tôi lại có khách. Thằng cháu họ”. Sau một hồi
tâm sự, nó khóc lên hu hu: “Bác ạ, dù có phải mang tiếng là đứa bỏ làng, cháu cũng ra
đi thôi”. Quyết định “bỏ làng” chính là quyết định về tư tưởng, là sự thay đổi tư tưởng
thâm căn cố đế, đã trở thành máu thịt, tâm hồn, phong tục, lối sống của người nông
dân nơi đây. Sự thay đổi ấy khó khăn và đau đớn đến nỗi, vì nó người ta đánh đổi cả
sinh mạng. Đến đây, khái niệm “bỏ làng” đồng nghĩa với sự đổi thay, kẻ dám bỏ làng
là kẻ dám thay đổi. Và trong số những kẻ dám “bỏ làng” để học hành, để làm ăn xa ấy
đã trở về để thay đổi quê hương.
Truyện ngắn “Đứa bỏ làng” vừa thể hiện cái khó, vừa thể hiện tính tất yếu của
công cuộc đổi mới. Đối với người nông dân xứ Thanh, vùng đất cực khổ đến nghiệt
ngã, nhưng hình như, chính sự nghiệt ngã đó sẽ là tiền đề thôi thúc sự đổi thay.
Sự đổi thay bắt đầu từ những cá nhân, nhưng đổi thay có ý nghĩa nhất là sự đổi
thay của quê hương, làng xã. Từ Nguyên Tĩnh thầm thán phục những cá nhân đã góp

Mơ anh biết chứ ?”. Cuối truyện, ta biết thêm một nét đẹp nữa ở con người này: “Mơ
không đồng ý cho tôi viết. Nàng nói, cái chuyện làm ruộng ai chả biết”.

21
Nếu Nợ làng quê là câu chuyện về “người anh hùng làm ruộng” của làng Bàn
Thạch thì Thằng K-X lại là viết về “người anh hùng V.A.C”. Đến truyện ngắn này, sự
thay đổi của làng “tôi” đã rõ nét hơn. “Quê tôi vốn là vùng tự do( ) chuyện học hành
lại ít ai nghĩ đến” chỉ “giỏi cày bừa cấy gặt”. Vì vậy việc chú Bân có “bằng cử nhân sử
học, lại được phân công về dạy ngay ở trường cấp III huyện nhà” là một niềm vinh dự
cho cả “họ tôi” thậm chí “cả hàng xã” bởi “người có học đỗ đạt ở quê tôi thật hiếm
hoi”. Tuy nhiên bấy giờ, khó khăn là tình trạng chung của xã hội và ông giáo trường
làng uyên thâm đến đâu cũng không ngoại lệ. “Gian nhà của trường giành cho chú tím
thật chật hẹp. Ngoài giường chiếu từ thời chú thím lấy nhau đóng bằng gỗ xoan ra,
chẳng có gì đáng kể. Chỉ có giá sách là đồ sộ”. Cái tâm lí của ông giáo với một kho
kiến thức như vậy luôn háo hức được truyền thụ cho những học trò nghèo quê hương.
Vừa dạy học vừa viết báo, chú Bân rất có uy tín trong làng và được bạn văn kính nể.
Nhưng cuộc sống khốn khó của những năm bao cấp khiến chú khó chú tâm vào công
việc dạy học. Tiền nhuận bút chỉ “một vài đồng bạc”, còn thím phải “nấu rượu rải cho
các quán và nuôi lợn nái”. Cái “vất vả của cuộc đời đã làm thím không còn bóng dáng
của cô gái Hà Nội năm nào”. Là người có trình độ và niềm tin vững chắc ông giáo đi
đến quyết định táo bạo “sang năm chú về hưu non. Không thể để cho thím và các em
khổ mãi được” và dũng cảm “bán một cặp lợn tạ để mua ba-bet-ta làm nghề V.A.C.
Chú tự đi lấy phân ở các cơ quan về chăm cho cá của mình. Chú thường đi rất sớm và
về khi chưa có người đi làm”. Bằng sự cần cù dám nghĩ, dám làm mà năm ấy trời
thương “đổ của cho nhà chú. Lợn nhiều lấy phân cho cá ăn nên bán cá có bạc triệu”
[33; 413] gia đình chú thực sự đổi đời. Chú “xây nhà hai tầng ngay đầu phố huyện”,
thím thì “béo ra, trẻ lại ( ) Mái tóc uốn kiểu làn sóng càng tôn thêm vẻ đẹp duyên
dáng” còn chú “mang cặp kính trắng nom trí thức hơn thời kì chú dạy học”. Hai đứa
con gái “mặc minidíp, không cần thoa phấn mà vẫn hồng hào ”. Đặc biệt là trong nhà
của chú “điệu nhạc Lăm-ba-đa từ chiếc viđiô chảy tràn ra phố” gợi nên không khí

Làng Bàn Thạch đã thực sự thay đổi với nếp sống mới. Xưa kia người dân vốn
“đi ngủ kịp cùng gà vịt” nhưng nay điện đã về làng thì “hôm nào có bóng đá quốc tế là
tụ tập ngồi xem thấu sáng rồi ra đồng luôn”. Người nông thôn giờ đây không chỉ lo
cơm ăn áo mặc mà đã biết chú ý đến nâng cao đời sống tinh thần. Cái vất vả của nhà
nông không còn là gánh nặng số mệnh mà đã có cách nhìn lạc quan hơn “dễ dàng chấp
nhận mất mát, lo âu, thanh thản” của mùa cấy cày, coi “niềm vui và mệt mỏi” của đời
người nông dân là một phần của cuộc sống. Cái mới ở làng Bàn Thạch còn thể hiện
ngay trong việc cưới xin của người dân. Đám cưới giờ đây được phục vụ bởi “mấy gã

23
dịch vụ đám cưới” với tiếng “loa đài” rộn ràng vui vẻ. Cái bầu không khí vốn thanh
bình, yên tĩnh của làng quê nay đã nhộn lên bởi những giai điệu sôi nổi, hiện đại của
cuộc sống mới. Chỉ có những con người yêu quê, có tâm hồn nhạy cảm như Từ
Nguyên Tĩnh mới lắng nghe được âm thanh diệu kì của cuộc sống nơi đây.
Đặc biệt làm chủ làng xã bây giờ không còn là những con người như ông Thầu,
chú Ngữ nữa mà là một thế hệ mới với cách sống và tư duy hết sức mới mẻ - anh
chàng Thốn. Thốn vốn là anh chàng sinh ra và lớn lên ở làng Bàn Thạch nhưng đã có
cơ hội để “đi ra” trong mấy năm thực hiện chính sách nghĩa vụ. Rời quân ngũ anh lại
trở về làng quê làm một người nông dân với bao điều mới mẻ. Có thể nói, Thốn là
mẫu người nông dân mới ở làng quê: tự tin, cởi mở, nồng nhiệt và cả pha chút ngang
tàng. Chàng nông dân Thốn tự tin trước hết ở quyết định không cưới vợ trong làng mà
ở rất xa, xa lắc xa lơ, mãi tận trong Nam, mà cưới một cách nhẹ nhàng “đành cưới
thôi, người ta giàu cưới xin linh đình, còn mình nghèo cưới xin cũng cỗ bàn”. Mặt
khác người xưa vốn quan niệm “trâu ta ăn cỏ đồng ta” khi chọn vợ thì chàng nông dân
đặc sệt ấy lại mò vào tận Quảng Nam rước người đẹp về làm vợ. Thốn nói với người
chú ruột “cháu hồn nhiên chơi chơi lại vớ được con vợ như tiên”. Đấy là một sự dũng
cảm, liều lĩnh và cũng là cách Thốn đang cố gắng cởi trói, phá bỏ những trật tự quan
niệm cũ.
Quyết định của Thốn khiến người chú phăi băn khoăn “chết thiệt con gái nhà ai
đẹp mà lại lấy cháu tôi. Làm sao dám chui đầu vào cảnh thiếu thốn này ( ) rồi ra ai

yếm vợ mình một cách “sắc bẻm”: “Diệu Linh nàng ơi!”, “Đừng cưng”.v.v. Đó là
ngôn ngữ của một anh chàng nông dân vừa mới “đi ra” mang chút “bụi bặm”, mới mẻ
của thành thị nhưng vẫn chưa thoát khỏi chất mộc mạc, chân chất thôn quê. Ngôn ngữ
của Thốn bớt rườm rà mà ngắn gọn tự nhiên, khách quan hơn, phù hợp với nhịp sống
mới chứ không phải là sự pha trộn từ ngữ nước ngoài tạo ra một giọng điệu lai căng,
kệch cỡm.
Tuy nhiên trong những cái mới ở làng quê ấy còn có những cái tiêu cực, cái tiêu
cực thể hiện ở dấu hiệu học đòi, hãnh tiến; ở lối sống hưởng thụ, ăn chơi đàng điếm.
Đó là những “tay bợm đánh tiết canh lòng lợn nhìn đã tưng bừng no nê, đó là lối ăn
mặc không còn “hương đồng gió nội” của hai cô con gái chú Bân với chiếc “minidíp”
cũn cỡn và cách nhảy “Lăm-ba-đa” của những anh chàng nông dân - dấu hiệu manh
nha của những trò Karaôke trá hình (Thằng K-X). Đặc biệt cái tiêu cực rõ nét nhất
“làng tôi” là có nguy cơ bị “bỏ không” bởi sự mưu sinh làm giàu của con người. Làng

25
đã có tới “hàng trăm đứa bỏ làng ra đi”, “trút lại cái đói”, cái khổ cho người già. Văn
Từ Nguyên Tĩnh rõ ràng có tính dự báo nhiều hơn là miêu tả.
Như vậy, qua những trang văn của Từ Nguyên Tĩnh, qua hình ảnh “Làng tôi”,
người đọc đã thấy được sự am hiểu và tình yêu của ông đối với làng quê xứ Thanh. ở
làng quê ấy mọi cung bậc tình cảm, mọi số phận con người vui và buồn, may mắn và
bất hạnh đều “châu tuần” về đây tạo nên một nông thôn xứ Thanh thu nhỏ với đầy sự
ngổn ngang, bộn bề, phức tạp. Độc giả cũng nhận ra làng Bàn Thạch nói riêng hay xứ
Thanh nói chung đang có những bước chuyển mình, làng quê thuần nông ấy đã và
đang du nhập những ảnh hưởng của văn minh đô thị hay có, dở có. Sự chuyển mình
lột xác tuy còn có những vật vã, đau đớn song đó là hệ quả tất yếu của lịch sử. Đó
chính là xu thế chung của dân tộc, thời đại.
1.2. Một xứ Thanh kiên cƣờng, bất khuất qua hình ảnh Hàm Rồng
Những năm tháng mảnh đất Xứ Thanh trở thành mục tiêu hủy diệt nằm cắt đứt
con đường giao thông huyết mạch tiếp viện cho chiến trường miền Nam của đế quốc
Mỹ cũng là những năm tháng Từ Nguyên Tĩnh trở thành lính pháo thủ Hàm Rồng. Đó

Hàm Rồng chỉ với diện tích chưa đầy một kilômet vuông nhưng biến thành một túi
bom “ Một vùng đỏ lòm từ chân cầu tới Nam Ngạn. Từ Nam Ngạn đến nhà máy điện,
đồi Cô Tiên Đâu đâu cũng có hố bom, chết chóc”. Những chiếc B52 “vào ném bom
rồi lao ra biến mất” như tia chớp đầy sự ma quái và bí hiểm, nếu những người lính
không tinh nhanh thì thị xã Thanh Hoá có thể bị san phẳng trong chốc lát. Đêm máy
bay B52 rải thảm, cả một vùng náo động bởi “tiếng nổ rền rền kéo dài tưởng là vô
tận” và “khoảng cách các hố bom cách nhau rất đều”. Chi tiết này cho thấy để huỷ diệt
Hàm Rồng, đế quốc Mỹ đã lên kế hoạch ném bom một cách chính xác, chi li đến từng
centimet, một con kiến cũng khó sống sót huống hồ là con người. Chỉ cần một sự bất
cẩn của những người lính cao xạ thì B52 sẽ “xoá sổ toàn bộ các đơn vị”. Sự ác liệt thể
hiện ở những tổn thất mà quân và dân Hàm Rồng phải gánh chịu: “Tuy những người
pháo thủ vẫn kịp bắn chặn máy bay cường kích và bắn phá Hàm Rồng” nhưng bộ đội
vẫn hy sinh nhiều. Chùa Nam Ngạn nằm sát trận địa Hàm Rồng phải mở cửa để đón
bộ đội vào cấp cứu và dưỡng thương. Sư Đàm, trụ trì chùa Nam Ngạn thường phải “bí
mật cầu siêu cho hương hồn người lính” siêu thoát trở về đất Mẹ.
Cùng bị bắn phá với cầu Hàm Rồng là cây cầu Đò Lèn (Cô gái Đò Lèn). Ở đây,
“bom dội như rây bột”, đoạn đường từ cầu Lèn về đến Hàm Rồng có xa xôi gì cho
cam nhưng mất hai ngày xe chi viện và chàng pháo thủ San vẫn chưa đến được.
Những trạm gác phòng không được dựng lên liên tiếp, các cô thanh niên xung phong

27
trở thành cọc tiêu sống đứng canh chừng bom nổ chậm, chỉ đường, dẫn đường cho xe.
Ngày “Mỹ trở mặt đánh lại Miền Bắc. Lèn và Hàm Rồng chúng đánh ác liệt hơn”.
Chúng “cho thí nghiệm tất cả các loại vũ khí hiện đại nhất và cũng man rợ nhất: bom
laze, bom tinh khôn khiến bộ đội, dân quân và thanh niên xung phong hy sinh nhiều”.
Hàm Rồng càng chịu nhiều trận mưa bom của máy bay B52. “Hố bom, san sát là hố
bom. Mấy toa xe lửa hất lên nằm chỏng chơ đổ nát, vắng bóng người”. Cảnh vật đầy
chết chóc, hoang liêu. Con mương nép mình vào sườn đồi nhuốm “một màu đỏ quạch”
như máu của những con người đã ngã xuống, bờ sông Lèn “khô kiệt, bờ bị vỡ nát”.
Với sức tàn phá như vậy, sự sống tưởng như không còn có thể hiện diện ở đây.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status