Nghiên cứu sự đánh giá bản thân của sinh viên trường Đại học Công Nghiệp Quảng Ninh - Pdf 25

Luận văn Thạc sĩ Cao Hải An

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
- - - - - - - - - - - - - CAO HẢI AN
NGHIÊN CỨU SỰ ĐÁNH GIÁ BẢN THÂN CỦA
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP
QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH TÂM LÝ HỌC
Mã số: 60 31 80

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thu Hương

1.2.3.3. Hành vi - khuynh hướng ứng xử của bản thân 26
1.2.4. Cái Tôi và mối quan hệ giữa cái Tôi và ĐGBT 25
1.2.5. Tự ý thức và mối quan hệ giữa ĐGBT với tự ý thức 26
1.2.6. Khái niệm Sinh viên 27
1.3. Các đặc điểm tâm lý cơ bản của sinh viên 27
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới ĐGBT 32
1.4.1. Yếu tố khách quan 32
1.4.2.1. Gia đình 32
1.4.2.2. Nhà trường 33
1.4.2.3. Nhóm bạn cùng lứa tuổi 34
1.4.2.4. Phương tiện truyền thông đại chúng 36
1.4.2. Yếu tố chủ quan 36
Luận văn Thạc sĩ Cao Hải An

Chương 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Tổ chức nghiên cứu 38
2.2. Mẫu nghiên cứu 38
2.3. Địa bàn nghiên cứu 40
2.4. Phương pháp nghiên cứu 42
2.4.1. Phương pháp phân tích tài liệu 42
2.4.2. Phương pháp trắc nghiệm 42
2.4.3. Phương pháp quan sát 44
2.4.4. Phương pháp phỏng vấn sâu 44
2.4.5. Phương pháp xử lý kết quả bằng thống kê toán học 44
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng đánh giá bản thân của SV trường ĐHCNQN 45
3.1.1. Đánh giá tổng thể về bản thân 45
3.1.2. Đánh giá bản thân theo các khía cạnh cụ thể 47
3.1.2.1. “Cái Tôi gia đình” trong ĐGBT của SV 47
3.1.2.2. “Cái Tôi xã hội” trong ĐGBT của SV 54


Luận văn Thạc sĩ Cao Hải An DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. ĐGBT Đánh giá bản thân
2. ĐHCNQN Đại học Công nghiệp Quảng Ninh
3. SV Sinh viên
4. HS-SV Học sinh - Sinh viên
5. TB Trung bình

PDF Merger
Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF
Merger! To remove this page, please
register your program!
Go to Purchase Now>>
 Merge multiple PDF files into one
 Select page range of PDF to merge
 Select specific page(s) to merge
 Extract page(s) from different PDF
files and merge into one
AnyBizSoft
Luận văn Thạc sĩ Cao Hải An

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con người nói chung, giới trẻ nói riêng thường có khát vọng tự khẳng định
mình trong cuộc sống, trong sự phát triển và hoàn thiện nhân cách. Sự tự khẳng định
này một phần được thể hiện ở khả năng tự đánh giá về bản thân.
Đánh giá bản thân chính là sự nhìn nhận tổng thể về giá trị bản thân với tư cách
là con người và chúng ta theo đó mà hành động. Sự đánh giá này không có sẵn khi con
người sinh ra mà được hình thành trong mối quan hệ, giao lưu với người khác, trong
sự phát triển và từ những trải nghiệm thành công hay thất bại của cá nhân trong cuộc
sống… Nếu chúng ta có sự tự đánh giá phù hợp với năng lực thực tế của mình thì

sao cho thật sự phù hợp và hiệu quả Có thể nói, nếu “cái Tôi” được nhận thức đúng
đắn sẽ giúp cho thanh niên - sinh viên nói chung và sinh viên trường Đại học Công
nghiệp Quảng Ninh nói riêng đánh giá chính xác thực lực của mình để phấn đấu nhiều
hơn nữa trong học tập cũng như trong cuộc sống…
Thực tế cho thấy, đến nay, những nghiên cứu về đánh giá bản thân vẫn còn
chưa nhiều, đặc biệt là nghiên cứu về sự đánh giá bản thân của sinh viên. Trong khi
đó, đây lại là vấn đề không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà còn có giá trị quan trọng về
mặt thực tiễn. Chính bởi vậy, việc nghiên cứu về sự đánh giá bản thân của sinh viên là
điều cần thiết. Đó là những lý do thúc đẩy chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu với
tên gọi “Nghiên cứu sự đánh giá bản thân của sinh viên trường Đại học Công
nghiệp Quảng Ninh”.
2. Đối tượng nghiên cứu
Sự đánh giá bản thân (ĐGBT) của sinh viên trường Đại học Công nghiệp
Quảng Ninh (ĐHCNQN).
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu mức độ đánh giá bản thân của sinh viên trường ĐHCNQN, tìm hiểu
mối tương quan giữa tự đánh giá bản thân và kết quả học tập của họ trong nhà trường;
từ đó đưa ra một số biện pháp giúp sinh viên nâng cao khả năng đánh giá bản thân
trong môi trường học đường.
Luận văn Thạc sĩ Cao Hải An

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài
- Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề.
- Làm rõ các khái niệm cơ bản của đề tài.
- Chỉ ra những đặc điểm của khách thể nghiên cứu.
4.2. Khảo sát thực trạng đánh giá bản thân của sinh viên trường ĐHCNQN
- Mức độ đánh giá bản thân của sinh viên trường ĐHCNQN.
- Tương quan giữa kết quả học tập và sự đánh giá bản thân của sinh viên
trường ĐHCNQN.


Luận văn Thạc sĩ Cao Hải An

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Những nghiên cứu về đánh giá bản thân trên thế giới
Trong bài viết “Về khái niệm tự đánh giá bản thân” đăng trên Tạp chí Tâm lý
học, Tiến sĩ Đỗ Ngọc Khanh (2004a) đã có những tổng hợp và đánh giá về lý thuyết
Tự đánh giá của các hòn đá tảng trong lĩnh vực này.
Nhìn chung, có một vài lý thuyết về nhân cách đưa sự ĐGBT như một biến số có
ý nghĩa nhưng chỉ có thuyết của Alder coi biến này đóng một vai trò chính. Alder nhìn
nhận một cách rõ ràng sự quan trọng của tự đánh giá nhưng ông quan tâm đến nó trong
việc áp dụng vào trị liệu hơn là giải thích lý thuyết.
Trường phái Phân tâm mới (với đại diện là Sullivan, Horney và Fromm) đã đánh
giá tầm quan trọng của sự ĐGBT nhưng cũng chỉ coi nó như một chủ đề riêng lẻ chứ
không đặt nó vào trung tâm học thuyết của mình.
Một vài nhà tâm lý học khác như Hartmann, Erikson và Jacobson có liên hệ đến
sự tự đánh giá nhưng lại chỉ liên hệ gián tiếp. Rogers cũng quan tâm tới sự ĐGBT
nhưng chủ yếu là ở bản chất chung của các trải nghiệm của các khách thể và sự chấp
nhận thể nghiệm của cá nhân.

* Tính phân biệt và tính khái quát của đánh giá bản thân
Một số tác giả nghiên cứu về tính phân biệt và tính khái quát của ĐGBT ở các
lứa tuổi khác nhau cho thấy: Ở học sinh lớp 7, sự ĐGBT đã thể hiện cả hai xu hướng,
cả phân biệt lẫn khái quát (Safin, 1975). Và cùng với sự phát triển của nhân cách, trẻ
có khả năng ĐGBT về nhiều mặt hơn, mức độ độc lập tăng dần lên (Boivin, 1992).
Nhìn chung, giữa tính phân biệt và tính khái quát của tự đánh giá luôn có sự
thống nhất chặt chẽ với nhau. Đối với mỗi cá nhân, trong các lĩnh vực hoạt động khác
nhau, mức độ biểu hiện của các phẩm chất, năng lực… của cá nhân có sự khác nhau.
Luận văn Thạc sĩ Cao Hải An

Nói cách khác, cá nhân có sự tự đánh giá bản thân trong các dạng hoạt động khác
nhau. Khi đó, tự đánh giá có tính phân biệt.
Từ sự đánh giá, nhận xét từng mặt về bản thân trong các dạng hoạt động khác
nhau, cá nhân có sự đánh giá chung về những phẩm chất, năng lực, những thuộc
tính… nhân cách của bản thân. Khi đó, tự đánh giá có tính khái quát…
* Độ cao, thấp của đánh giá bản thân
Khi nói tới độ cao, thấp của tự đánh giá có nghĩa là đề cập đến tiêu chuẩn đánh
giá ở mỗi người. Tiêu chuẩn ấy được xây dựng trên các chuẩn mực, quy tắc xã hội của
tập thể. Nói cách khác, một tiêu chuẩn đánh giá được xã hội thừa nhận thông qua lăng
kính chủ quan của mỗi người; cá nhân tiếp nhận nó, đối chiếu mình với nó để nhận
biết được những biểu hiện riêng của mình vào vị trí nào đó trong hệ thống các chuẩn
mực định sẵn. Thông qua đó, ta biết được độ cao, thấp của tự đánh giá…
Nếu như một số nhà nghiên cứu khác cho rằng, độ cao thấp của ĐGBT phụ thuộc
vào lứa tuổi, sự định hướng của cá nhân và hình ảnh bản thân, hình ảnh bên ngoài hay
hình ảnh lý tưởng thì Harter (1999) lại cho rằng, trẻ em không có sự ĐGBT tổng quát
cao hay thấp mà một đứa trẻ chỉ có thể nhận thấy bản thân có năng lực ở lĩnh vực này
nhưng không có năng lực ở lĩnh vực khác…
* Tính bền vững của đánh giá bản thân
Tính bền vững của tự đánh giá được xác định trong mối liên hệ với những yêu
cầu khác nhau và những khoảng thời gian khác nhau, nó liên quan tới một số đặc điểm

đánh giá của những người xung quanh sẽ giúp chúng ta hiểu về bản thân mình. Theo
Ananhiep (1980), chính trong quá trình giao tiếp mà con người hiểu được người khác
và nhận biết được thái độ của người khác về mình. Sự đánh giá, chấp nhận của những
người xung quanh cũng là yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng tới sự đánh giá của
chúng ta về bản thân (Adler, 1927; Mead, 1934; Rogers, 1951; Hoge, Smith và
Hanson, 1990).
Luận văn Thạc sĩ Cao Hải An

Mối quan hệ liên nhân cách với bố mẹ và những người thân trong gia đình cũng
không nằm ngoài mối liên hệ đó. Sự quan tâm, chăm sóc và đánh giá của gia đình ít
nhiều làm cho cá nhân thấy mình có giá trị hoặc ít giá trị hơn (Adler, 1927; Rubinstein,
1974; Rosenberg, 1979; Bowlby, 1982). Những trải nghiệm trong gia đình cũng là yếu
tố được Wallerstein và Kelly (1980), Felson và Zielinski (1989) đánh giá là yếu tố có
ảnh hưởng tới sự ĐGBT.
Đặc điểm của nhóm xã hội mà cá nhân tham gia, năng lực của những người trong
nhóm cũng như vị trí của cá nhân trong nhóm là yếu tố cũng cần phải tính đến khi
muốn làm tăng tính tích cực hay tiêu cực của quá trình tự đánh giá (Mendelson và
White, 1985; Kail, 1998).
Sự chấp nhận, sự đánh giá, mối quan hệ liên nhân cách, vị trí của cá nhân trong
nhóm xã hội, năng lực nhận thức của cá nhân, sự thống nhất giữa cái Tôi và các lĩnh
vực mà cá nhân quan tâm đều có sự ảnh hưởng nhất định đến tự ĐGBT (James, 1890;
Coopersmith,1967; Rosenberg, 1979; Harter, 1984-1990; Tessers, 1988; McKay và
Fanning, 2000).
* Ảnh hưởng của yếu tố tự nhiên tới sự đánh giá bản thân
Nhìn chung, mọi hiện tượng tâm lý của cá nhân (xu hướng nhân cách, động cơ,
nhu cầu, khả năng nhận thức của cá nhân ) đều có liên quan đến tự đánh giá. Trình độ
phát triển của nhân cách cũng ảnh hưởng tới sự ĐGBT. Thời điểm dậy thì (dậy thì sớm
hay muộn) được xem như một nhân tố ảnh hưởng tới sự ĐGBT (Steinberg, 1993).
Tính thống nhất giữa “cái tôi thực tế” và “cái tôi lý tưởng” cao thì sẽ có sự
ĐGBT cao (Higgins, 1991; Showers, 1992; Steinberg, 1993). Sự ĐGBT phụ thuộc vào

tốt đẹp hơn?”. Thông qua việc tổng hợp từ một số kết quả nghiên cứu thực nghiệm, tác
giả bài viết đã chỉ ra rằng: Nhìn chung, con người thích những nhận xét thống nhất với
nhận xét của họ về bản thân hơn là những nhận xét trái ngược. Những người ĐGBT tốt
thường tìm cách để người khác cũng đánh giá tốt về họ.
Tác giả Đỗ Long, Phan Thị Mai Hương và đồng nghiệp (2002) đã có những kết
luận khá thú vị về tính cộng đồng - tính cá nhân và cái Tôi của người Việt Nam từ góc
Luận văn Thạc sĩ Cao Hải An

độ tâm lý học qua nghiên cứu về “Tính cộng đồng - tính cá nhân và “cái Tôi” của
người Việt hiện nay”:
- Từ góc độ lý luận, các tác giả thấy rằng: tính cộng đồng - tính cá nhân trở thành
một cặp phạm trù đi liền nhau, có thể chuyển hoá cho nhau trong một số điều
kiện xã hội nhất định, chứ chúng hoàn toàn không đối nghịch, loại trừ nhau.
- Từ góc độ nghiên cứu thực tiễn, các số liệu cho thấy, trong điều kiện được tự do
liên tưởng và lựa chọn thì nhìn chung thanh niên trước hết nghiêng về việc mô
tả bản thân mình như một cá nhân độc lập, có những cá tính, sở thích và quan
điểm rất riêng. Đứng ở vị trí thứ hai là những nét mô tả mang tính cưỡng bức.
Thanh niên thấy nét riêng của cá nhân mình trong tập thể, trong cộng đồng.
Thanh niên có xu hướng thể hiện tính cộng đồng chỉ ở những nơi mà họ được
biết đến, nơi mà họ có mối quan hệ gần gũi, thân thiết với những người khác
trong cộng đồng. Còn ở những nơi họ không có một vị trí cụ thể, rõ ràng trong
nhóm, không có mối quan hệ quen biết hay người khác không biết đến họ thì họ
sẽ không biểu hiện những đặc điểm mang tính cộng đồng của mình. Và sự thể
hiện tính cá nhân hay tính cộng đồng rất phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Đây
cũng là một đặc điểm đáng chú ý của người Việt Nam nói chung: xu hướng ứng
xử phù hợp với hoàn cảnh.
Trong một nghiên cứu về vấn đề ĐGBT đăng trên Tạp chí Tâm lý học với tựa
đề “Tự đánh giá của học sinh trung học cơ sở ở Hà Nội”, (số 7, 7/2005, tr. 30-36),
tác giả Đỗ Ngọc Khanh đã đưa ra kết luận:
Học sinh trung học cơ sở ở Hà Nội có mức độ tự đánh giá tổng thể ở mức trung

mạnh thể chất hơn các em sống trong gia đình bình thường.
- Về mặt giới tính, trẻ nam hay nữ trong gia đình có bố mẹ ly hôn cùng cảm thấy
phải chịu thiệt thòi như nhau. Tuy nhiên, các em nữ trong gia đình có bố mẹ ly
hôn đánh giá ứng xử và năng lực trong cuộc sống học đường cũng như năng lực
xây dựng và duy trì các mối quan hệ với các thành viên trong gia đình, bạn bè
hay cảm giác được thừa nhận về mặt xã hội thấp hơn một cách có ý nghĩa so
Luận văn Thạc sĩ Cao Hải An

với các em nữ sống trong gia đình có đầy đủ cả bố mẹ. Bên cạnh đó, với trẻ
nam, việc ở với ai sau khi bố mẹ ly hôn ảnh hưởng một cách có ý nghĩa tới sự
đánh giá năng lực và ứng xử trong cuộc sống học đường của trẻ. Với trẻ nữ, khả
năng thể hiện hay kiềm chế cảm xúc của các em bị ảnh hưởng sâu sắc bởi việc
em sẽ ở với ai sau khi bố mẹ chia tay.
- Về phương diện lứa tuổi, trẻ dưới 13 tuổi bộc lộ cảm xúc tiêu cực và có xu
hướng phô trương “sức mạnh cơ bắp” cao hơn trẻ cùng lứa tuổi ở gia đình bình
thường.
Qua nghiên cứu thực tiễn trên 60 trẻ trai và 60 trẻ gái ở một số trường phổ
thông cơ sở tại Hà Nội, PGS.TS Văn Thị Kim Cúc (2004) đã có những kết luận ban
đầu về “Mối tương quan giữa biểu tượng về gia đình và sự đánh giá bản thân của
trẻ”. Theo tác giả, những biểu tượng trẻ có được về gia đình mình, về người bố, người
mẹ có mối tương quan rất chặt chẽ tới hình ảnh mà trẻ có về bản thân mình. Điều này
hoàn toàn phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả nước ngoài như Perron
(1971), Berger và Luckman (1986), Bouissou (1996). Sự hình thành biểu tượng về gia
đình nói chung, về giá trị của người cha, người mẹ nói riêng không có con đường nào
khác ngoài những gì trẻ nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy thông qua những hoạt động
của gia đình, của người bố và người mẹ. Chính qua tổng thể các hoạt động này mà trẻ
xác định được vị trí của mình trong gia đình: mình được tôn trọng như thế nào? bố mẹ
có thật lòng yêu thương mình không? Những gì mà trẻ cảm nhận được sẽ là cơ sở để
trẻ thiết lập nên những giá trị về bản thân mình.
Tổng hợp kết quả nghiên cứu “Ảnh hưởng của sự tự đánh giá bản thân đến

Khái niệm bản thân có thể thay đổi theo thời gian nếu có sự thay đổi trong cách
ứng xử của những người xung quanh và trải nghiệm của bản thân trong cuộc sống.
* Khái niệm bản thân mang nhiều hình thức khác nhau
- Cái Tôi thể chất: Là sự ý thức của cá nhân về cơ thể, vóc dáng của chính bản
thân mình (đẹp hay xấu, cao hay thấp, có cân đối, hài hòa hay không, có hãnh diện về
Luận văn Thạc sĩ Cao Hải An

cơ thể của mình hay không ). Cá nhân hành động tích cực hay tiêu cực cũng do cách
cá nhân tự đánh giá hay sự đánh giá của người khác về vóc dáng của mình… Ví dụ:
những người có khiếm khuyết về cơ thể thường hay bị trêu chọc và điều đó khiến họ
luôn mặc cảm, tự ti, ít chịu giao tiếp với người khác.
- Cái Tôi chủ quan: Là cách một cá nhân nghĩ về chính mình (tôi nghĩ tôi là…)
và những gì mà người khác đánh giá về mình (có khi đúng, có khi sai). Ví dụ: Tự đánh
giá mình là người khó ưa đối với người khác.
- Cái Tôi lý tưởng: Là cái “tôi” mà một cá nhân muốn trở thành (về các mặt như
ước vọng, giá trị, lý tưởng, đạo đức, nguyên tắc sống…), thường dựa theo một mẫu
người được ngưỡng mộ hay ước muốn đi theo một lĩnh vực hoạt động có ích cho xã
hội.
- Và những cái Tôi khác: theo từng vai trò xã hội mà cá nhân đang đảm nhận
theo từng thời điểm của cuộc sống, theo nghề nghiệp, theo môi trường sống…
* Khuynh hướng hướng tới của bản thân: có 3 khuynh hướng chính:
- Khuynh hướng sàng lọc: con người thường tiếp nhận những gì mình thích theo
một khung giá trị, hệ thống giá trị sẵn có với xu hướng loại bỏ những cái không phù
hợp và giữ lại cái gì được coi là phù hợp với hình ảnh của mình. Ví dụ: môn học nào
chúng ta không thích thì chúng ta cảm thấy khó khăn trong học tập; khi mở xem một
tạp chí, chúng ta thường hay có khuynh hướng chọn xem trước những mục mà mình
thích nhất…
- Khuynh hướng hành động theo sự mong đợi của người khác (hiệu quả
Pygmalion). Đó là những nỗ lực đáp trả lại sự quan tâm và mong đợi của người khác
đối với bản thân mình như cha mẹ ở gia đình, thầy cô giáo ở trường học, bạn bè ở

rằng mình là người học giỏi nữa. Chúng ta thất vọng và buông xuôi. Vấn đề quan
trọng là chúng ta biết đánh giá đúng mức các phản ứng khác nhau của những người
khác để có thể hiểu rõ hơn về mình và tự biết điều chỉnh. Đó là một quá trình phát
triển và hoàn thiện nhân cách.
Luận văn Thạc sĩ Cao Hải An

- Mức độ mong đợi nơi chính mình trong hành vi (biết quyết định, tránh cái sai,
dám làm cái đúng…). Sự mong đợi cao nơi chính mình sẽ giúp chúng ta có kỹ năng
sống tốt hơn, tạo sức đề kháng vững chắc hơn trước cái xấu, sự cám dỗ và những việc
làm sai trái trong cuộc sống.
Chúng ta tự nghĩ về chúng ta đúng hay không đúng, phù hợp hay không phù hợp
tùy thuộc vào mối tương tác giao tiếp với những người xung quanh. Vậy, chúng ta bộc
lộ con người mình như thế nào và chúng ta nhận được sự phản hồi của người khác ra
sao? Sự tương tác này được giải thích qua cửa sổ Johari.
Cửa sổ Johari được xây dựng bởi Joseph Luft và Harry Ingham, cho biết ở mỗi
cá nhân khi tương tác với người khác có bốn ô tâm lý như sau:
Ô 1: Phần công khai (ô mở): Phần công khai bao gồm các dữ kiện mà chính
bản thân mình và người khác đều dễ dàng nhận biết về nhau khi tiếp xúc lần đầu tiên
(như màu tóc, vóc dáng, trang phục, giới tính ). Đó là ô ta biết về ta và người khác
cũng biết về ta.
Ô 2: Phần mù: Phần mù bao gồm các dữ kiện mà người khác biết về mình,
nhưng chính bản thân mình lại không nhận biết được. Ví dụ như những thói quen (nói
nhanh, nói nhiều…), cố tật (nhìn lên trên hoặc nhìn xuống dưới khi giao tiếp ), tính
khí bất thường… Chúng ta chỉ có thể phát hiện được những dữ kiện này về mình khi
được người khác phản hồi cho chúng ta biết và chúng ta chỉ nhận được những thông
tin phản hồi này trong giao tiếp (nhất là khi có tương tác trong quá trình sinh hoạt
trong nhóm nhỏ). Đây là ô ta không biết về ta, nhưng người khác lại biết về ta.
Ô 3: Phần che giấu: Đó là các dữ kiện mà bản thân biết rõ nhưng còn che giấu
chưa muốn bộc lộ cho ai biết và tất nhiên người khác không biết được (như kinh
nghiệm cá nhân, quan điểm, niềm tin, giá trị, tâm sự riêng tư…). Những vấn đề này

trước hết không phải là cái chúng ta nói về bản thân mình mà là về hành vi của chúng
ta. Bộc lộ chỉ thích hợp khi nó có liên quan đến hoạt động của chúng ta vì nếu cái gì

Do tự bộc lộ
Do sự phản hồi của người khác
Phần công
khai
Phần mù

Phần che
giấu Phần không
biết

Trích đoạn Tớch cực xõy dựng cỏc mối quan hệ xó hội Cảm nhận tớch cực về ngoại hỡnh bản thõn Cải thiện khả năng tập trung của bản thõn Rốn luyện kỹ năng nhận thức cảm xỳc bản thõn Định hướng ước mơ cho bản thõn
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status