SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT Mường Lát - Pdf 27

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiều năm nay, cả nước ta đã và đang tiến hành công cuộc đổi mới giáo dục.
Chương trình học và sách giáo khoa được thay đổi theo hướng tích cực cả nội dung
lẫn hình thức nhằm theo kịp với xu thế phát triển của nền giáo dục thế giới. Thực
trạng giáo dục nước ta qua nghiên cứu cho thấy việc giảng dạy kiến thức nói chung
và kiến thức môn Ngữ văn nói riêng chỉ được tiến hành theo lối “thông báo - tái
hiện”. Giáo viên chủ yếu chú trọng vào việc hoàn thành bài giảng, phương pháp
dạy học theo lối truyền thụ một chiều, học sinh tiếp thu một cách thụ động, ít phát
huy được khả năng chủ động, tư duy sáng tạo của người học.
Những năm gần đây, vấn đề nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn
trong trường phổ thông đã được giới nghiên cứu và dư luận xã hội chú trọng. Từ
nhiều góc độ, cấp độ, phạm vi khác nhau, nhiều giải pháp, phương pháp đã được đề
xuất, trong đó đáng chú ý là vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng sâu vùng
xa, vùng đặc biệt khó khăn. Có thể nói, đây là địa bàn cư trú của cư dân dân tộc
thiểu số, trình độ dân trí thấp, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn, chưa ổn định.
Do đó, con em họ chưa được đến trường thường xuyên, đúng độ tuổi làm ảnh
hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy và học của các trường phổ thông đóng ở địa
bàn đó.
“Văn học là nhân học”, văn học là cuộc sống. Thông qua ngôn từ và hình
tượng nghệ thuật sinh động, nó cung cấp cho người đọc kiến thức về cuộc sống
cũng như khám phá cái đẹp trong tâm hồn con người. Đến với Văn học, chúng ta
tìm thấy vẻ đẹp nhân văn qua mỗi sự vật, hình tượng trong tác phẩm. Từ đó, nó tác
động tới tâm tư, tình cảm, góp phần quan trọng để hình thành và phát triển nhân
cách, hướng con người đến giá trị chân - thiện - mĩ. Vì thế, môn văn là môn không
khô khan như các môn khoa học tự nhiên khác trong chương trình phổ thông. Mặt
khác, thầy cô giáo dạy Văn là những nghệ sĩ bởi ngoài việc giảng dạy tri thức, họ
còn mang thiên chức bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, cảm xúc và những rung động
thẩm mĩ cho học sinh.
Vì những lí do trên và qua thực tế giảng dạy môn Ngữ văn ở trường sở tại,
tôi muốn chia sẻ với bạn bè, đồng nghiệp Một số biện pháp nâng cao chất lượng
dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT Mường Lát.

tạo lập các dạng văn bản phục vụ cho quá trình giao tiếp trên mọi lĩnh vực của con
người trong cuộc sống, công việc. Vì vậy, chúng ta cần phải có biện pháp cụ thể
giúp cho học sinh có hứng thú học môn Văn trở lại.
2
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
Mặc dầu có vai trò, vị trí quan trọng đặc biệt như vậy nhưng hiện nay đang
xuất hiện tình trạng nhiều học sinh không thích học môn Ngữ văn. Vị trí của môn
học này ngày càng mờ nhạt trong tâm thức học sinh. Đa số học sinh THPT tỏ ra
không có hứng thú với những giờ học Văn trong nhà trường, mà thường xác định là
chỉ cần học để đối phó với các kì thi mà thôi. Học sinh thờ ơ với những vấn đề đặt
ra trong tác phẩm. Số phận nhân vật, tiếng nói tâm tình của tác giả ít gây được sự
đồng cảm với chúng. Các em không cảm nhận được hết cái hay, cái đẹp mà tác
phẩm mang lại.
Trường THPT Mường Lát đóng trên địa bàn miền núi xa xôi, tách biệt (cách
thành phố Thanh Hóa 250 km), đường đi khó khăn, trắc trở, ba mặt tiếp giáp với
nước bạn Lào. Mọi điều kiện sống về vật chất và tinh thần đều thiếu thốn, nghèo
nàn. Nơi đây sáu dân tộc: Kinh, H’Mông, Thái, Dao, Mường, Khơmú tạo thành
một cộng đồng dân cư với những nét văn hóa, phong tục tập quán nhiều khác biệt.
Trình độ dân trí thấp, công tác xã hội hóa Giáo dục chưa phát triển, kinh tế trì trệ,
phương thức canh tác lạc hậu. Học sinh đa số là con em đồng bào dân tộc thiểu số,
chất lượng đầu vào thấp và còn tồn tại tình trạng học sinh ngồi sai lớp (15%). Các
em ít có điều kiện đọc sách báo, thông tin xã hội ít tiếp xúc, lập gia đình sớm, nạn
tảo hôn khá phổ biến trong lứa tuổi học sinh… Một số hộ gia đình bỏ mặc con em
ở nhà để đi làm ăn xa, học sinh phải nghỉ học lên nương rẫy thay bố mẹ. Điều này
đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học hành của con em họ. Nhiều em chưa có đủ
sách vở, đồ dùng học tập, chưa có thời gian cho việc học tập ở nhà, vì thế rất khó
khăn cho học sinh khi tiếp thu bài giảng của giáo viên.
Mặt khác, kiến thức văn học tương đối nhiều mà khả năng ghi nhớ của học
sinh còn hạn chế, bên cạnh đó, các em gần như bị thiếu hụt kiến thức cơ bản từ các
lớp dưới nên việc dạy và học Ngữ văn ở các khối lớp trong trường gặp không ít khó

phương pháp, phải linh hoạt qua các khâu lên lớp, phải tùy cơ ứng biến trước
những đối tượng học sinh khác nhau thì mới có thể tạo ra sức hấp dẫn, lôi cuốn
trong giờ dạy.
1. Giáo viên tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ
Từ người giáo viên luôn tồn tại kênh thông tin hai chiều: vừa truyền đạt kiến
thức đồng thời vừa thu nhận kiến thức. Cuộc sống xã hội là kho tri thức vô cùng
phong phú nên dù giáo viên giảng dạy môn Ngữ Văn đều được đào tạo chuẩn về
chuyên môn nghiệp vụ từ trong trường Đại học nhưng cần phải tích cực, thường
xuyên tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân. Năm học 2008 - 2009 là
năm mà Bộ Giáo dục chọn là năm ứng dụng công nghệ thông tin vào việc dạy học.
Vì thế, tất cả các trường trong cả nước đều được hỗ trợ lắp đặt mạng Internet.
4
Trường THPT Mường Lát cũng không ngoại lệ. Phòng Internet do Đoàn Thanh
niên quản lí luôn mở cửa phục vụ cán bộ, giáo viên và học sinh tìm kiếm, khai thác
thông tin. Việc lắp đặt mạng sẽ giúp các thầy cô giáo tự bồi dưỡng kiến thức và có
thể học hỏi kinh nghiệm từ bạn bè, đồng nghiệp để nâng cao năng lực chuyên môn.
Nắm vững kiến thức chung cho chương trình cấp học để có cái nhìn bao quát
về nội dung ở từng khối lớp.
Soạn - giảng theo đúng chương trình mà Bộ GD&ĐT đã quy định trong
khung phân phối chương trình.
Khi giảng dạy cần chú ý đến từng loại đối tượng học sinh trong lớp học để có
phương pháp giảng dạy phù hợp. Tôi cũng đã phân loại học sinh bởi dù là lớp chọn,
lớp đại trà hay lớp yếu kém thì mức độ tiếp thu, học tập của học sinh có sự khác
nhau. Từ đó xác định học sinh yếu kiến thức, kĩ năng nào để tìm nguyên nhân, biện
pháp khắc phục còn đối với học sinh giỏi bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kĩ năng đã
học để tạo hứng thú trong việc học tập bộ môn.
2. Hướng dẫn học sinh cách học bài
Trong chương trình THPT, môn Ngữ văn bao gồm ba phân môn: Phân môn
Đọc văn, Tiếng việt và Làm văn. Vì vậy, tôi hướng dẫn học sinh xác định nội dung
học tập cả trên lớp và ở nhà cho từng phân môn cụ thể.

từ đó trong hoàn cảnh sử dụng và thực hành thành thạo các bài tập trong sách giáo
khoa, sách bài tập.
Ví dụ: Tìm biện pháp tu từ trong hai câu thơ sau và nêu tác dụng?
“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao”.
Biết viết câu, viết đoạn (mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn) với nhiều chủ đề và
yêu cầu khác nhau (Diễn dịch, quy nạp…)
+ Đối với phân môn Làm văn, học sinh cần:
Nắm được khái niệm, đặc trưng các thể loại: Tự sự, Nghị luận (nghị luận văn
học, nghị luận xã hội), Thuyết minh,…
Sau khi đọc đề bài, phải biết tìm hiểu đề, tìm ý; biết cách lập dàn ý; biết viết
các đoạn để hoàn chỉnh bài viết. Phần đa học sinh trong trường chưa nhận biết
được yêu cầu của đề ra nên không biết tìm luận điểm cho phần lập dàn ý. Chính vì
thế, các em lúng túng khi tiến hành viết bài văn. Nắm được yếu điểm của đa số học
sinh trong trường, tôi đã hướng dẫn học sinh cách làm bài văn nghị luận, đặc biệt là
kĩ năng viết phần mở bài cho bài văn nghị luận.
Từ lớp 8 đến lớp 12, học sinh phổ thông làm quen với một thể loại làm văn
mới đó là Làm văn nghị luận. Không ít học sinh tỏ ra ngại ngần và lo lắng thậm chí
còn sợ sệt mỗi khi làm văn thuộc thể loại này. Dù đề bài thuộc về lĩnh vực nghị
6
luận văn học hay nghị luận xã hội. Do đó, trước khi làm bài, các em cần đọc kỹ đề
bài, phải chú ý từ ngữ, hiểu ý nghĩa của từng từ, từng câu; thậm chí chú ý cả dấu
chấm hay ngắt câu trong đề bài để nắm rõ yêu cầu của đề ra. Đối với đề bài văn
nghị luận xã hội lấy kiến thức, thông tin và cả những kinh nghiệm có trong cuộc
sống để minh chứng cho lý lẽ của mình. Do vậy, đòi hỏi học sinh cần có một kiến
thức sống khá phong phú; có sự tinh tế và nhạy bén trong nhận định một vấn đề.
Mường Lát là một huyện miền núi xa xôi, đường đi khó khăn trắc trở nên học sinh
ít có điều kiện giao lưu với cư dân bên ngoài. Hơn nữa, hiểu biết xã hội của các em
còn khuyết nhiều ảnh hưởng đến kiến thức làm văn nghị luận xã hội. Đối với đề bài
văn nghị luận văn học, dạng đề này đòi hỏi người viết phải lấy kiến thức đã được

Sở giáo dục Thanh Hóa đưa ra Quy định về việc kiểm tra, đánh giá kiến thức
của học sinh trong năm học 2012-2013 thông qua hai hình thức: kiểm tra thường
xuyên và kiểm tra định kì. Việc kiểm tra định kì đã được cố định thời gian cụ thể
nên giáo viên cần nhắc nhở trước từ một đến hai ngày để các em chuẩn bị kiến
thức. Đối với việc kiểm tra thường xuyên, giáo viên cần đa dạng hoá để học sinh
phải tự giác học tập bằng nhiều cách khác nhau. Mỗi thầy cô giáo có nhiều cách
thức kiểm tra kiến thức của học sinh khác nhau. Về phần mình, tôi lần lượt thực
hiện các bước sau:
Kiểm tra sách giáo khoa vào đầu tiết dạy: Sách giáo khoa vừa là phương tiện,
vừa là công cụ giúp học sinh thu nhận, tìm kiếm tri thức. Vì vậy, học sinh khi đi
học phải mang đầy đủ các loại sách giáo khoa nói chung và sách Ngữ văn nói riêng.
Nhưng, do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn mà học sinh ở Mường Lát khi đến
trường không có tiền để mua sách giáo khoa. Nhà trường đã tạo điều kiện bằng
cách mở thư viện cho các em mượn sách học trong cả năm. Tuy nhiên, số lượng
sách có hạn nên chưa thể đáp ứng đủ cho tất cả học sinh. Vào đầu năm học, công
việc đầu tiên của tôi là kiểm tra sách giáo khoa ở các lớp được phân công giảng
dạy: 11B, 11D, 11G, 10B và 10C. Kết quả là mỗi lớp có từ 5 đến 7 em thiếu sách,
chủ yếu rơi vào những em có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Tôi khuyến khích các
em đi photo lại sách để học hoặc mượn thêm sách bổ sung tại thư viện; đồng thời
thông qua giáo viên chủ nhiệm kêu gọi sự ủng hộ từ học sinh trong lớp.
Ngoài ra, tôi giới thiệu một số sách tham khảo có trong thư viện trường cho
học sinh sưu tầm để học tập.
Kiểm tra vở ghi: Trong quá trình gọi học sinh lên trả bài cũ, tôi kết hợp kiểm
tra vở ghi của các em. Tôi kiểm tra chữ viết, kiểm tra nội dung ghi chép có đầy đủ
không và nhắc nhở, nhận xét về cách ghi chép, chữ viết. Lần kiểm tra tiếp theo, tôi
tiến hành vào tiết Tự chọn.
8
Kiểm tra vở soạn của học sinh: Đối với môn Văn, học sinh phải soạn nội
dung của bài học mới trước khi tới lớp bằng cách trả lời các câu hỏi trong sách.
Việc soạn bài giúp học sinh nắm trước nội dung bài học để việc truyền đạt, mở

có thể cho phép các em lựa chọn nội dung trả bài. Đồng thời, giáo viên nên lập một
danh sách riêng để chú ý kiểm tra nhiều hơn.
Tùy vào tính chất từng buổi học, lớp học giáo viên có thể phân chia thời
gian cho việc kiểm tra bài cũ khác nhau. Có những hôm, nhiều học sinh yếu xung
phong lên trả bài, tôi mạnh bạo kéo dài thời gian kiểm tra đến 15 phút/tiết học. Đối
với một số em thường xuyên không thuộc bài hoặc trả bài chỉ đạt điểm 4, 5 có thể
gọi 5 hoặc 6 lần/ học kỳ, điểm nào lớn nhất thì lấy. Thỉnh thoảng tôi nhắc các em :
“Một, hai tuần nữa sẽ có kiểm tra 15 phút” nhưng không quy định cụ thể ngày nào.
Việc này tạo cho học sinh tâm thế sẽ bị giáo viên kiểm tra bất cứ lúc nào khi đến
lớp, buộc các em phải học bài trước ở nhà, nếu không muốn bị điểm kém.
Có thể nói, học sinh trong trường không chỉ ngại học, lười học mà còn yếu kĩ
năng giao tiếp và xử lí tình huống. Vì thế, khi giáo viên đặt câu hỏi kiểm tra bài cũ
chỉ cần thay đổi vài từ thì học sinh không trả lời được. Có những em biết câu trả lời
lại không dám xung phong vì tính quá nhát. Có em dù ở nhà đã thuộc bài nhưng khi
lên bảng trả bài lại quên vì “run quá”. Do vậy, thầy cô giáo phải đặt câu hỏi dễ, chỉ
dùng hình thức đánh đố hoặc đưa câu hỏi phụ đối với học sinh khá giỏi. Câu hỏi
cũng cần chia nhỏ để các em dễ lấy điểm và đặc biệt, tạo không khí tự nhiên, thoải
mái về mặt tâm lí cho các em khi kiểm tra miệng.
4. Bao quát học sinh trong giờ dạy
Do tâm lí ngại học, lực học kém nên học sinh thường làm việc riêng hoặc
ngủ gật trong lớp. Việc này làm ảnh hưởng đến chất lượng giờ dạy và kiến thức của
học sinh nên giáo viên phải bao quát lớp trong tiết dạy để nhắc nhở kịp thời.
Trước khi cho học sinh đọc bài, tôi nhắc nhở cả lớp theo dõi để sau đó tóm
tắt văn bản, chia bố cục và nêu nội dung… bắt buộc các em phải chú ý bài. Khi cho
học sinh đọc, tôi quan sát xem các em có dò bài theo không. Thông thường các em
hay lợi dụng thầy cô giáo chú tâm vào bài đọc mà làm việc riêng, nói chuyện riêng,
sử dụng điện thoại hoặc gục xuống bàn ngủ… nên sau khi học sinh đọc xong, tôi
đặt câu hỏi và gọi nhiều đối tượng trả lời hoặc nhận xét, bổ sung câu trả lời, chú
trọng nhiều đến những em yếu kém.
Ví dụ:

5 Kém 0 %
Số học sinh xếp loại học lực trung bình và yếu chiếm tỉ lệ cao (73%), đa số
tập trung vào lớp cơ bản khả năng tiếp thu chậm, ghi bài chậm, thậm chí có em
không ghi được nội dung bài học (như Giàng A Say, Hơ Văn Hua lớp 10B, Giàng
A Trư, Lý A Dó lớp 10C,…), không có khả năng diễn đạt, không biết phân tích
những ý chính mà giáo viên tổng hợp thì cũng cần phải đọc-chép. Điều này cần sự
linh hoạt từ phía giáo viên, phần nào cần và phần nào không cần đọc để bảo đảm
thời lượng của tiết học theo phân phối chương trình.
11
Trong tiến trình đổi mới, người giáo viên đang dần đi đến vận dụng mọi
phương pháp với thế mạnh riêng của nó. Ngoài các phương pháp truyền thống thì
phương pháp dạy học tích cực được chú ý quan tâm, đặc biệt là phương pháp dạy
học theo nhóm. Việc sử dụng giáo án điện tử là điều cần thiết và đang được khuyến
khích. Tuy nhiên, không phải bất cứ trường phổ thông nào cũng có điều kiện thuận
lợi để làm được điều đó, nhất là ở những trường đóng trên địa bàn miền núi như
Mường Lát. Nơi đây cơ sở vật chất (máy móc, trang thiết bị, phòng máy…) phục
vụ công tác dạy học đang còn thiếu thốn nhiều. Vì vậy, tổ chức thảo luận nhóm sẽ
khắc phục được những thiếu thốn về cơ sở vật chất đồng thời mang lại hiệu quả
cao. Trong quá trình tiến hành, tôi nhận thấy học sinh rất hứng thú với phương
pháp dạy học theo nhóm bởi nó giúp các em phát huy được tính chủ động, sáng tạo
vốn có. Để tiết dạy đạt hiệu quả cao thì học sinh phải có sự chuẩn bị trước ở nhà
với hệ thống câu hỏi thảo luận được đưa ra từ tiết trước. Tùy theo nội dung của
từng bài học để chia nhóm. Có thể chia lớp thành 3 hoặc 4 nhóm và giao nhiệm vụ
cụ thể cho mỗi nhóm.
Hoạt động nhóm của học sinh trường THPT Mường Lát
Ví dụ trước khi dạy bài “Vội vàng” của Xuân Diệu, tôi yêu cầu mỗi nhóm
chuẩn bị những vấn đề sau:
Nhóm 1: Những yếu tố về cuộc đời ảnh hưởng đến hồn thơ Xuân Diệu.
Nhóm 2: Cảm thức thời gian trong thơ Xuân Diệu là nguyên nhân dẫn đến
cách sống vội vàng. Ý kiến của em về vấn đề này?

giáo có thể bổ sung những kiến thức mà họ chưa kịp truyền đạt cho các em trong
tiết dạy, hoặc cung cấp thêm kiến thức bên ngoài cho học sinh theo chủ đề, dạy kĩ
năng đọc văn, làm văn, kĩ năng sống, kiểm tra vở soạn văn… Và đặc biệt, tôi tổ
chức luyện viết chính tả, luyện đọc cho các em yếu kém. Đây chính là nhiệm vụ đi
kèm, không kém phần quan trọng của tôi cũng như giáo viên trong tổ Văn-Sử-Giáo
dục công dân trường THPT Mường Lát.
13
Mường Lát là 1 trong 7 huyện miền núi nghèo của tỉnh Thanh Hóa, có nhiều
đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống (Mường, Thái, H’Mông, Dao, Khơ mú…).
Trình độ dân trí, nhận thức cũng như sự hiểu biết của người dân còn rất hạn chế.
Ngôn ngữ bất đồng gây khó khăn trong công tác đọc, viết đúng tiếng Việt. Hơn
nữa, đồng bào dân tộc H’Mông chiếm gần 90% số đồng bào dân tộc Mông trên
toàn Tỉnh mà đa số học sinh người dân tộc này phát âm tiếng Việt chưa chuẩn, dẫn
đến tình trạng viết sai nhiều lỗi chính tả, đọc văn bản chưa thành thạo. Thực trạng
này do nhiều nguyên nhân, trong đó có thể do thói quen sử dụng ngôn ngữ bản địa,
do kết quả đào tạo từ các cấp học dưới để lại và do ít giao tiếp với người Kinh nên
ảnh hưởng đến việc đọc và viết của các em.
Theo thống kê của tổ Văn - Sử, năm học 2012-2013, chỉ tính riêng khối lớp
10 có khoảng từ 9 đến 10 học sinh trong một lớp viết chữ quá xấu và thường xuyên
sai lỗi chính tả. Tính tổng toàn khối 10 (7 lớp học) có gần 100 em. Tuy con số
không lớn nhưng nó lại là vấn đề khiến cho các thầy cô dạy môn Ngữ văn trong
trường lo ngại, nhất là đối với học sinh lớp 11, 12. Trong số lớp tôi trực tiếp giảng
dạy còn nhiều học sinh chưa đọc thông viết thạo, cụ thể như sau:
Lớp Tên học sinh Đọc kém
viết sai
chính tả
11B
- Lâu Văn Chống
- Giàng A Dế
- Hơ Cá Dính

- Lý A Sợ
x
x
x
x
x
x
x
x
14
10B
- Thào A Nhà
- Hơ Thị Pa
- Phàng A Pháo
- Thào A Phứ
- Giàng A Say
- Lương Văn Sậm
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
x
10C

hành vào tiết tự chọn và khi về nhà.
Mỗi tiết luyện tập, tôi đưa ra một đoạn văn bản cho học sinh đọc nhiều lần,
sau đó đọc cho các em tự chép lại và sửa lỗi. Hoặc tôi đưa ra một đoạn thơ khuyến
khích các em học thuộc sau đó chép lại theo trí nhớ.
Phân công các em khác đọc tốt và viết chính tả đúng, chuẩn ở trong lớp
luyện đọc, viết cùng bạn.
Cuối mỗi tiết luyện tập, tôi giao bài cho các em luyện đọc và viết ở nhà, giờ
sau kiểm tra và nhận xét, đánh giá.
15
Với sự kiên trì của tôi cùng với sự nỗ lực, cố gắng của các em đã mang lại
kết quả khả quan: Học kì II số lượng học sinh viết chữ xấu, sai lỗi chính tả và đọc
chưa thành thạo giảm đi đáng kể, mỗi lớp chỉ còn lại 3-4 em.
IV. Kết quả đạt được
1. Kết quả
Từ sự cố gắng của thầy và trò trường THPT Mường Lát, năm học 2012-
2013, chúng tôi đã thu nhận được kết quả học tập của học sinh như sau:
Lớp Tổng số
học sinh
Giỏi Khá Trung bình Yếu
Hk1 Hk2 Hk1 Hk2 Hk1 Hk2 Hk1 Hk2
11B 46 1 2 8 15 31 29 6 0
11D 42 1 4 10 20 27 18 4 0
11G 46 1 3 10 18 30 25 5 0
10B 41 1 4 12 17 24 20 4 0
10C 44 1 3 10 15 31 26 2 0
2. Nhận xét chung
a. Ưu điểm
Ở học kì I (2012-2013), một số học sinh còn đọc kém, cuối năm đã đọc thành
thạo văn bản và hạn chế được lỗi chính tả khi viết bài văn.
Học sinh chăm chỉ học bài cũ hơn và mạnh dạn xung phong lên trả bài, nhất

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
Mường Lát, ngày 20 tháng 4 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người thực hiện
Nguyễn Thị Linh
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Trọng Luận, Phương pháp dạy học văn, NXB Giáo dục, 1991.
2. Nguyễn Đăng Mạnh, Muốn viết được bài văn hay, NXB Giáo dục, 2001.
3. Phạm Toàn, Công nghệ dạy văn, ĐHQG Hà Nội, 2000.
4. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục PTTH phục vụ cải cách
giáo dục.
MỤC LỤC
Trang
A. ĐẶT VẤN ĐỀ………………………………………………………………… 1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ………………………………………………………. 2
I. Cơ sở lí luận………………………………………………………………… 2
1. Quá trình dạy học…………………………………………………………… 2
2. Vai trò của môn Ngữ văn và việc dạy học văn……………………………….2
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu………………………………………….3
III. Giải pháp và cách thức tổ chức thực hiện…………………………………4
1. Giáo viên tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ…………………………… 4
2. Hướng dẫn học sinh cách học bài………………………………………… 5
3. Đa dạng, linh hoạt trong kiểm tra và đánh giá………………………………8
4. Bao quát học sinh trong giờ dạy…………………………………………. 10
5. Sử dụng phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh………… 11
6. Giữ mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò……………………………… 13


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status