so sánh phương thức (cách thức thực hiện) và mức độ tự do hóa thương mại hàng hóa của Cộng đồng kinh tế ASEAN với Tổ chức thương mại thế giới WTO - Pdf 27

Tự do hoá thương mại là việc dỡ bỏ những hàng rào do các nước lập nên, với mục đích là làm
cho luồng hàng hoá di chuyển từ nước này sang nước khác được thuận lợi hơn trên cơ sở cạnh tranh
bình đẳng. Đối với thương mại hàng hóa thì những hàng rào nói trên có thể là thuế quan, giấy phép
xuất nhập khẩu, quy định về tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, yêu cầu kiểm dịch, v.v...
Cả Tổ chức thương mại thế giới WTO và Cộng đồng kinh tế ASEAN hiện nay đều thấy rằng tự
do hóa thương mại là cần thiết và có những nỗ lực hết mình để có thể dỡ bỏ những rào cản giữa các
nước thành viên. Tuy nhiên, về phương thức và mức độ tự do hóa thương mại hàng hóa giữa hai bên lại
có những điểm khác nhau nhất định.
Chính vì vậy, trong bài tập nhóm tháng 2 này, nhóm chúng em sẽ “so sánh phương thức (cách
thức thực hiện) và mức độ tự do hóa thương mại hàng hóa của Cộng đồng kinh tế ASEAN với Tổ
chức thương mại thế giới WTO” để có được một cái nhìn khái quát nhất về tự do hóa thương mại
hàng hóa trong hai tổ chức này.
I. Phương thức tự do hóa thương mại hàng hóa.
1. Giống nhau.
Về cách thức thực hiện tự do hoá thương mại hàng hoá, giữa WTO và AEC đều có những điểm
khá giống nhau.
Thứ nhất, các quy định về tự do hoá thương mại hàng hoá đều được ghi nhận trong các văn bản
chung, thống nhất, áp dụng cho tất cả các thành viên. Các thành viên có nghĩa vụ tuân thủ các quy định
chung nhất này.
Đối với WTO, đó là các văn bản:
- Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994 (GATT);
- Hiệp định về nông nghiệp;
- Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật;
- Hiệp định về hàng dệt và may mặc;
- Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại;
- Hiệp định về việc thực hiện điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT
1994 (Hiệp định chống bán phá giá);
- Hiệp định về việc thực hiện điều VII của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
GATT 1994 (Hiệp định về xác định trị giá hải quan);
- Hiệp định về giám định trước khi gửi hàng;
- Hiệp định về quy tắc xuất xứ;

Thứ hai, dựa trên các quy định chung như trên, các quốc gia thành viên tự xây dựng và thực
hiện theo lộ trình, cam kết riêng của quốc gia mình.
WTO quy định các nước thành viên phải thông qua đàm phán, đưa ra các cam kết với những lộ
trình thực hiện cụ thể. Đối với WTO, việc các nước thành viên thoả thuận mở cửa thị trường hàng hoá
hoặc dịch vụ đồng nghĩa với việc ràng buộc các cam kết về việc thâm nhập thị trường nội địa. Trong
lĩnh vực hàng hoá, sự ràng buộc đó thể hiện ở việc ấn định tổng mức thuế suất thuế quan cam kết trần.
Phương pháp đánh thuế quan của tổ chức WTO cũng hướng tới con số thuế quan xuống đến mức thấp
nhất. Tổ chức WTO cũng phân chia các loại hàng hóa thành những mặt hàng khác để đánh thuế theo
hàng hóa. Tổ chức WTO còn hướng tới mục tiêu khuyến khích cho các nước đang phát triển tham gia
nhập tổ chức này và nhận được những ưu đãi so với những nước có nền kinh tế phát triển. Việc đánh
thuế quan hiện nay là do pháp luật của các nước điều chỉnh về thuế trong quá trình xuất - nhập khẩu sao
cho phù hợp với nội dung về thuế mà tổ chức thương mại thế giới WTO đưa ra. Các thành viên tham
gia tổ chức thương mại thế giới cần phải tuân theo các nguyên tắc của tổ chức thế giới như đối xử quốc
gia, tự do thương mại.
Đối với AEC, trong số danh mục hàng hóa cắt giảm thuế mà Hiệp định CEPT đưa ra, các thành
viên có quyền tự quyết định lựa chọn danh mục hàng hóa cắt giảm thuế của quốc gia mình và đưa ra lộ
trình phù hợp với quy định chung. Việc lựa chọn danh mục hàng hóa của quốc gia phải được Hội đồng
AFTA chấp nhận.
Thứ ba, tuân thủ các cam kết chung đạt được qua các vòng đàm phán. Trong khuôn khổ hợp tác,
các quốc gia thành viên tiến hành các vòng đàm phán nhằm đưa ra các lộ trình mới trong nội dung tự
do hoá thương mại hàng hoá. Trong khuôn khổ WTO đã diễn ra 8 vòng đàm phán gồm các vòng đàm
phán:
- Geneva năm 1947 về cắt giảm thuế quan;
- Annnecy năm 1949 về cắt giảm thuế quan;
- Torquay năm 1951 về cắt giảm thuế quan;
- Geneva năm 1956 về cắt giảm thuế quan;
- Geneva năm 1960 – 1961 (Vòng Dillon) về cắt giảm thuế quan;
- Geneva năm 1964 – 1967 (Vòng Kenedy) về cắt giảm thuế quan và các biện pháp chống bán
phá giá;
- Geneva năm 1973 – 1979 (Vòng Tokyo) về cắt giảm thuế quan, xoá bỏ rào cản phi thuế quan

Mức giảm thuế bình quân chỉ có ý nghĩa so sánh đơn giản và hết sức khái quát. Cạnh tranh là trên từng
mặt hàng cụ thể, tương ứng với từng dòng thuế cụ thể theo mã HS 08 số. Có mặt hàng giảm nhiều, có
mặt hàng giảm ít.
Khoảng hơn 1/3 số dòng của biểu thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên
20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu
xây dựng, ô tô, xe máy... vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định. Những ngành có mức giảm thuế
nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị
điện - điện tử.
Như tất cả các nước mới gia nhập khác, Việt Nam cũng cam kết tham gia một số hiệp định tự
do hoá theo ngành như sản phẩm công nghệ thông tin (ITA), dệt may và thiết bị y tế v.v.. Thời gian để
giảm thuế là từ 03-05 năm. Về hạn ngạch thuế quan, ta bảo lưu quyền áp dụng đối với đường, trứng gia
cầm, lá thuốc lá và muối.
II. Mức độ tự do hóa thương mại hàng hóa.
Nếu như cách giá một cách chung nhất về mức độ tự do hóa thương mại hàng hóa giữa AEC và
WTO thì chúng ta có thể đưa ra nhận xét rằng trong AEC mức độ tự do hóa là sâu và rộng hơn khá
nhiều so với WTO.
Đối với WTO thì các loại hàng hóa đã được cắt giảm thuế chủ yếu vẫn nằm ở nhóm hàng công
nghiệp, còn đối với nhóm hàng nông nghiệp thì vẫn tiếp tục là nhóm hàng cần được cắt giảm thuế dần
dần. Nhưng trong AEC thì việc cắt giảm thuế được thực hiện ở hầu hết các loại hàng hóa – kể cả công
nghiệp lẫn nông nghiệp. Ngoài ra, trong AEC thì mức thuế mà các quốc gia thành viên hướng tới cho
các mặt hàng là giảm xuống còn từ 0% - 5%, trong khi đó đối với các quốc gia thành viên thì mức thuế
hàng hóa thường hướng tới khoảng từ 15% - 20%.
Cụ thể là theo nghị định thư sửa đổi CEPT về xoá bỏ thuế nhập khẩu, ASEAN-6 đã xoá bỏ thuế
quan của 60% tổng số dòng sản phẩm trong Danh mục IL trong năm 2003, đến năm 2007, ASEAN-6
đã xoá bỏ thuế quan 80% số dòng sản phẩm trong IL.
Kể từ khi thông qua kế hoạch thực hiện AEC vào tháng 11/2007 đã có những bước tiến hướng
tới việc xây dựng AEC. Kể từ 1/1/2010, 99,5% các dòng thuế thuộc Danh mục cắt giảm thuế trong
khuôn khổ chương trình ưu đãi thuế quan chung thực hiện khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(CEPT/AFTA) đã giảm xuống mức 0 – 5%, điều này là kết quả có tác động mạnh mẽ và rõ nét tới
ASEAN. Thương mại nội khối ASEAN tăng lên gần gấp 3, đạt 458,1 tỷ USD (2008) so với năm 2000


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status