Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái, thể lực và trí tuệ của học sinh tuổi 16 - 18 người kinh và người nùng ở trường THPT Lục Ngạn Số 4 Huyện Lục Ngạn, Tỉnh Bắc Giang - Pdf 29



1

PHẦN I. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Qua 25 năm thực hiện công cuộc Đổi Mới, chúng ta đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã có thay đổi cơ bản và toàn
diện, tạo ra thế và lực mới với những triển vọng tốt đẹp. Cùng với khoa học,
công nghệ, vốn đầu tư, thì nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đến sự phát
triển của mỗi quốc gia, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện tái
cấu trúc nền kinh tế để có đủ năng lực hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Nước ta bước vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có nhiều thuận lợi
nhưng cũng gặp không ít khó khăn. Để vượt qua những khó khăn đó, con
người Việt Nam phát triển toàn diện và nguồn nhân lực được đào tạo với chất
lượng cao sẽ là nhân tố quyết định cho thắng lợi. Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ IX đã định hướng cho sự phát triển nguồn nhân lực Việt Nam là: Người
lao động có trí tuệ, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào
tạo, bồi dưỡng và phát triển bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn với một nền
khoa học, công nghệ hiện đại.
Khi nói đến nguồn nhân lực, người ta thường tập trung nhấn mạnh đến
vốn con người. Đó là những người đang và sẽ bổ sung vào lực lượng lao động
xã hội, bao gồm các thế hệ trẻ đang được học tập tại các cơ sở giáo dục phổ
thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học. Phát triển nguồn nhân
lực được hiểu về cơ bản là làm tăng giá trị của con người về mặt trí tuệ, đạo
đức, thể lực và thẩm mĩ, làm cho con người trở thành những người lao động
có năng lực và phẩm chất mới. Như vậy, nguồn nhân lực có vai trò đặc biệt
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và là nhân tố cơ
bản quyết định sự phát triển. Đặc biệt đối với vùng dân tộc thiểu số (DTTS),


3
- Xác định một số đặc trưng về hình thái, thể lực như: chiều cao đứng,
cân nặng, vòng ngực bình thường (VNBT), vòng ngực hít vào hết sức
(VNHVHS), vòng ngực thở ra hết sức (VNTRHS), vòng đùi phải, vòng cánh
tay phải co; các chỉ số thể lực như Pignet, BMI; tuổi có kinh lần đầu ở nữ, v.v.
trên đối tượng học sinh tuổi 16-18 người Kinh và người Nùng ở trường THPT
Lục Ngạn số 4, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.
- Xác định một số chỉ số về trí tuệ (chỉ số IQ, trí nhớ) của học sinh tuổi
16-18 người Kinh và người Nùng ở trường THPT Lục Ngạn số 4, huyện Lục
Ngạn, tỉnh Bắc Giang.
- Tìm hiểu mối quan hệ giữa một số chỉ số nghiên cứu.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đề xuất các biện pháp nhằm góp phần
phát triển thể chất và trí tuệ học sinh ở địa bàn nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài khảo sát có chủ định đối tượng học sinh THPT (nam và nữ) độ
tuổi 16-18 người Kinh và người Nùng đang theo học ở trường THPT Lục
Ngạn số 4, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang (trường có chủ yếu là học sinh
người Kinh và người Nùng).
- Học sinh được lựa chọn không bao gồm những em bị dị tật về hình
thái, bị mắc bệnh mãn tính, hoặc không bình thường về tâm thần.
- Tuổi học sinh tính theo nguyên tắc tuổi tròn của Tổ chức Y tế thế giới
(WHO), ví dụ: học sinh 16 tuổi bao gồm những em đã được tròn 15 năm (180
tháng tuổi) và + thêm 1 ngày cho đến khi được tròn 16 năm (192 tháng tuổi).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu thứ cấp để xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài. 4
- Phương pháp nhân trắc để nghiên cứu một số đặc điểm hình thái, thể
lực và tuổi dậy thì (nữ).

học sinh, nhất là học sinh ở các tỉnh miền núi như Bắc Giang, đồng thời góp
phần xây dựng các chỉ số sinh học con người Việt Nam thế kỷ XXI. 6
PHẦN II. NỘI DUNG
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu về hình thái, thể lực và tuổi dậy thì trên thế
giới và ở nước ta
1.1.1. Tình hình nghiên cứu hình thái:
Người đặt nền móng cho nhân trắc học hiện đại là nhà nhân trắc học
người Đức Rudolf Martin, tác giả của hai cuốn sách nổi tiếng: “Giáo trình về
nhân học” và “Chỉ nam đo đạc của cơ thể và xử lý thống kê”. Từ đó đến nay,
nhân trắc học đã tiến những bước khá dài vì số người nghiên cứu về vấn đề
này tương đối nhiều. Các công trình nghiên cứu đều dựa vào phương pháp
Martin mà bổ sung và hoàn thiện về mặt lý luận cũng như thực tiễn tuỳ theo
điều kiện mỗi nước.
Những nghiên cứu về tăng trưởng và phát triển của trẻ em được bắt đầu
vào giữa thế kỷ XVIII. Năm 1729, cuốn sách đầu tiên về sự tăng trưởng chiều
cao ở người của A.Stoeller được xuất bản. Tuy nhiên, trong cuốn sách này
chưa có những số liệu đo đạc cụ thể. Năm 1754, các số liệu đo đạc về cân
nặng, chiều cao và các đại lượng khác của một loạt trẻ trai, trẻ gái và thanh
niên (1-25 tuổi) tại các trại trẻ mồ côi Hoàng gia ở Berlin và một số nơi khác
trên nước Đức đã được Christian Friedrich Jumpert trình bày trong luận án
tiến sĩ của mình. Công trình này được xem là nghiên cứu cắt ngang đầu tiên
về tăng trưởng ở trẻ em.
Nghiên cứu dọc đầu tiên về chiều cao được thực hiện bởi Philibert
Guénneaude Monbeilard trên con trai của mình từ năm 1759 đến năm 1777.
Đây là nghiên cứu tốt nhất đã được tiến hành cho đến nay và được trích dẫn
trong các nghiên cứu về tăng trưởng trong suốt thế kỷ XIX [44].

nhóm tuổi từ 6 đến 16 tuổi ở thị xã Thái Bình. Các tác giả nhận thấy từ 11 đến 8
14 tuổi, trẻ nữ vượt trội hơn trẻ nam về các kích thước nghiên cứu, còn từ 15
đến 16 tuổi trẻ nam lại phát triển vượt trội so với trẻ nữ.
Năm 2002, Trần Thị Loan [30] nghiên cứu một số chỉ số thể lực của
3.023 học sinh từ 6 đến 17 tuổi tại một số trường phổ thông thành phố Hà Nội
đã cho thấy chiều cao đứng của học sinh nam tăng nhanh ở giai đoạn 11-15
tuổi, của học sinh nữ ở giai đoạn 10-13 tuổi. Cân nặng của học sinh nam tăng
nhanh lúc 14-16 tuổi và của học sinh nữ lúc 11-14 tuổi. Vòng ngực trung
bình của học sinh nam tăng nhanh lúc 13-16 tuổi, ở học sinh nữ lúc 12-14
tuổi. Chỉ số pignet của học sinh cả hai giới tăng ở giai đoạn đầu khi tốc độ
tăng chiều cao nhanh hơn so với tốc độ tăng cân nặng và vòng ngực. Còn
BMI ở học sinh nam và học sinh nữ tăng dần theo tuổi do trong quá trình phát
triển cá thể (6-17 tuổi), mức tăng cân nặng của học sinh lớn hơn so với mức
tăng chiều cao đứng.
Năm 2006, Trung tâm Tâm lý học và sinh lí lứa tuổi thuộc Viện Chiến
lược và Chương trình giáo dục [40] đã nghiên cứu các chỉ số cơ bản về sinh lí
và tâm lý của 12.824 học sinh phổ thông 8-20 tuổi. Kết quả nghiên cứu cho
thấy chiều cao đứng của học sinh nam lứa tuổi 11-15 và học sinh nữ ở mọi
lứa tuổi (trừ 16 và 18 tuổi) đã thoát khỏi trạng thái còi cọc. Về cân nặng,
trong nhóm trẻ cùng độ tuổi có sự phân hóa sâu sắc, bên cạnh những trẻ nhẹ
cân đã xuất hiện những trẻ có dấu hiệu béo phì, đặc biệt là các trẻ ở thành phố
lớn.
Năm 2008, Đỗ Hồng Cường [7] nghiên cứu một số chỉ số sinh học của
học sinh THCS các dân tộc ở tỉnh Hoà Bình đã cho thấy các chỉ số chiều cao,
cân nặng và các vòng của học sinh tăng dần theo tuổi, tốc độ tăng các chỉ số
không đều. Chỉ số pignet của học sinh nằm trong nhóm trung bình và yếu,
còn BMI thuộc nhóm gầy.

10
Theo Nguyễn Văn Hoài và cs [14] tầm vóc và thể lực là những khái
niệm phản ánh cấu trúc tổng hợp của cơ thể có liên quan chặt chẽ đến khả
năng, sức lao động và thẩm mỹ của con người.
Chiều cao đứng là một đặc điểm nhân trắc quan trọng, là dấu hiệu được
nhận xét sớm nhất trong hầu hết các lĩnh vực ứng dụng của nhân trắc học.
Tuy nhiên, không chỉ có sự khác biệt về chiều cao đứng theo giới tính, mà
giữa các dân tộc, vùng miền cũng có sự khác biệt về chỉ số này. Nguyên nhân
của những khác biệt này có thể do tác động của môi trường sống đến sự tăng
trưởng và phát triển của con người trong các giai đoạn phát triển khác nhau
[6], [20], [30].
Trọng lượng cơ thể cũng thay đổi theo quy luật giống như chiều cao
đứng. Người Miền Nam Việt Nam thường có trọng lượng cơ thể lớn hơn
người Miền Bắc. Từ thế kỷ XVIII đã có công trình của Tenon về cách tính
trọng lượng cơ thể bằng kg. Đến thế kỷ XIX, cân nặng được coi là một tiêu
chuẩn để đánh giá thể lực của con người [16].
Từ những năm 20 của thế kỉ XIX, những người đầu tiên nghiên cứu số
đo vòng ngực là các bác sĩ lâm sàng. Cuối thế kỉ XIX, vòng ngực trở thành
chỉ tiêu thứ ba không thể thiếu được sau chiều cao đứng và cân nặng. Hiện
nay tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tổ chức Nông lương Thế giới (FAO) đã
công nhận chỉ số khối cơ thể (Body mass index = BMI) là chỉ số được dùng
để đánh giá mức độ gầy hay béo của một người.
Nhìn chung, các chỉ số thể lực được xây dựng trên quan điểm chủ đạo
là: đối với một chiều cao đứng nhất định, thể lực được coi là tốt nếu có kích
thước vòng ngực, cân nặng lớn. Điều này có nghĩa là thể lực của một người
không chỉ phụ thuộc vào kích thước hình thái mà còn phụ thuộc vào các yếu
tố chức năng và sự rèn luyện. Mặt khác, các kích thước hình thái thay đổi theo 11

hành vi sinh dục. Trung khu này được nhiều nhà nghiên cứu xác nhận trên
nhiều loài động vật khác nhau. Sự biệt hóa hành vi sinh dục đã được
Dautchakoff nghiên cứu đầu tiên vào năm 1930, sau đó công trình này được
Phoennix và cs xác nhận vào năm 1959. Đến trước năm 1970, các nhà khoa
học chỉ nói tới vai trò các chất nội tiết trong điều hòa chức năng sinh sản
nhưng đến nay người ta nhận thấy có cả cơ chế thần kinh và nội tiết tham gia
vào điều hòa chức năng sinh sản, cơ chế của quá trình này được thực hiện
theo nhiều cung bậc và có sự tham gia của vỏ não.
Mốc quan trọng trong giai đoạn dậy thì của nam là lần xuất tinh đầu
tiên và với nữ là lần kinh nguyệt đầu tiên.
Trong những năm 60 và nửa đầu thập kỉ 70 của thế kỉ trước, nhiều tác
giả đã nghiên cứu về tuổi có kinh lần đầu cũng như chu kỳ kinh nguyệt của
công nhân, nông dân, học sinh nông thôn và thành thị. Những kết quả này đã
được thống kê trong “Hằng số sinh học người Việt Nam năm 1975”, trong đó
tuổi dậy thì hoàn toàn ở các em gái khoảng 13-14 tuổi và ở các em trai
khoảng 15-16 tuổi.
Năm 1970, Vũ Thục Nga đã nghiên cứu kích dục tố tuyến yên toàn
phần trong vòng kinh bình thường của phụ nữ Việt Nam.
Từ 1976 đến 1988, nhiều tác giả như: Đinh Kỷ, Lương Bích Hồng, Cao
Quốc Việt, Nguyễn Nguyệt Nga, Nguyễn Thu Nhạn, v.v. đã nghiên cứu
những biến đổi của cơ thể tuổi dậy thì trên một số lượng lớn học sinh tiểu học
và THCS trên nhiều địa bàn tỉnh, thành như: TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh,
Thái Bình, Hà Nam Ninh, v.v. với các chỉ số nghiên cứu như tuổi có kinh lần
đầu, kích thước tinh hoàn, tuổi phát triển tuyến vú, lông mu, lông nách, xuất
tinh lần đầu, v.v. 13
Cũng theo hướng nghiên cứu trên, năm 1989 nhóm tác giả Đào Huy
Khuê, Nguyễn Thị Tân, Nguyễn Chế Nghĩa [18] đã tiến hành nghiên cứu trên

sớm hơn trẻ trai, trẻ có cân nặng thấp dậy thì muộn, trẻ ở miền núi, nông thôn
dậy thì muộn hơn so với trẻ ở thành phố.
Trong cuốn sách “Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường
thập kỉ 90 - thế kỉ XX”, các tác giả đã đưa ra một số kết quả nghiên cứu giá trị
sinh học về chức năng sinh dục, sinh sản ở nữ, qua đó cho thấy tuổi có kinh
nguyệt lần đầu ở trẻ gái thay đổi theo vùng miền, ở nội thành Hà Nội là 13
năm 2 tháng, nông thôn là 14 năm, ở nội thành Huế là 13 năm 7 tháng, ở miền
núi Thừa Thiên Huế là 14 năm 7 tháng, ở thị xã Đắk Lắk là 13 năm 5 tháng, ở
miền núi Đắk Lắk là 13 năm 9 tháng, v.v. Độ dài chu kì kinh nguyệt ở phụ nữ
tuổi sinh đẻ ở các khu vực khác nhau dao động từ 30 đến 30,3 ngày; số ngày
chảy máu từ 4,0 đến 4,3 ngày.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu về tuổi dậy thì, về tuổi mãn kinh đã và
đang được nhiều tác giả tiến hành trên nhiều đối tượng khác nhau nhằm rút ra
quy luật phát triển của con người Việt Nam trong những giai đoạn khác nhau,
ở những vùng miền khác nhau, v.v. đều có chung nhận định: Dậy thì là giai
đoạn không chỉ thay đổi các yếu tố bên trong cơ thể mà còn chịu ảnh hưởng
của rất nhiều các yếu tố khác như: giới tính, chủng tộc, môi trường sống, v.v.
Ở lứa tuổi dậy thì, cơ thể trẻ diễn ra hàng loạt những biến đổi về hình thể, sinh
lí và tâm lí.

1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÍ TUỆ
1.2.1. Khái niệm trí tuệ:
Trí tuệ, tiếng Latinh là Intellectus, có nghĩa là hiểu biết, thông tuệ. Theo
từ điển tiếng Việt, trí tuệ là khả năng nhận thức lý tính đạt đến một trình độ
nhất định. Trí tuệ là khả năng hoạt động trí óc đặc trưng của người. 15
Theo quan điểm cũ, trí tuệ được xem là khả năng hoạt động lao động và
học tập của cá nhân hay trí tuệ là kết quả hoạt động của tư duy.

trong những hoàn cảnh nhất định.
Trí khôn là khả năng suy nghĩ và hiểu biết. Trí khôn cũng là khả năng
hành động thích nghi với những biến động của hoàn cảnh thiên về hành động.
Khi nghiên cứu về cơ cấu của trí khôn, H. Gardner đưa ra học thuyết về nhiều
dạng của trí khôn.
Trí lực thuộc bình diện năng lực hoạt động trí tuệ của cá nhân, bao gồm
các nhân tố như: óc quan sát, trí nhớ, óc tưởng tượng, tư duy, v.v. Đặng
Phương Kiệt [19] cho rằng, trí lực là khả năng phức hợp biết vận dụng trải
nghiệm - biết vượt ra khỏi điều được tri giác và hình dung ra những khả năng
biểu tượng.
Trí thông minh có 2 nghĩa: Một là, có trí lực tốt, hiểu nhanh, tiếp thu
nhanh; hai là, nhanh trí và khôn khéo, tài tình trong cách ứng đáp, đối phó.
Như vậy trí thông minh có thể là một sản phẩm tổng hợp của trí tuệ nói riêng
và là một phẩm chất của nhân cách nói chung; cốt lõi của trí thông minh là
phẩm chất tư duy tích cực, độc lập, linh hoạt, sáng tạo trước những vấn đề
thực tiễn và lý luận. Theo Phạm Hoàng Gia [11], bản chất của trí thông minh
là một phẩm chất cao của tư duy sáng tạo đưa đến sự giải quyết vấn đề một
cách mau lẹ và thích hợp trong tình hình mới, cho nên nó không chỉ thể hiện ở
nhận thức mà còn cả trong hành động.
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trí tuệ. Wechsler D. cho
rằng, trí tuệ là khả năng hoạt động có suy nghĩ, tư duy hợp lý, chế ngự được
môi trường xung quanh [52]. Trí tuệ là khả năng xử lý thông tin để giải quyết
vấn đề và nhanh chóng thích nghi với tình huống mới. Theo Gardner H., trí
tuệ bao gồm nhiều năng lực thích ứng khác nhau [10]. 17
1.2.2. Sự phát triển của trí tuệ:
Sự phát triển của trí tuệ là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm
và mỗi tác giả thường có quan điểm riêng.

người khác hay trí tuệ xã hội [41].
Nhà tâm lí học người Anh, H.J.Eysenck đã tổng hợp các kết quả nghiên
cứu lý thuyết cũng như phương pháp đo đạc trí tuệ truyền thống và đưa ra mô
hình trí tuệ 3 tầng bậc:
+ Trí tuệ sinh học biểu hiện mặt sinh học của năng lực trí tuệ, là nguồn
gốc của những khác biệt về trí tuệ cá nhân.
+ Trí tuệ tâm trắc hay trí tuệ hàn lâm đo được bằng các trắc nghiệm IQ
truyền thống, được xây dựng trong tình huống giả định, có tính hàn lâm, chưa
phải là tình huống thực trong cuộc sống, nó bao gồm trí thông minh và trí
sáng tạo.
+ Trí tuệ xã hội (Social intelligence) thể hiện khi cần phải giải quyết
các nhiệm vụ trong cuộc sống thực tế của những chủ thể hoạt động có nhận
thức rõ ràng về bản thân, có nhận thức về xã hội và mối quan hệ giữa bản thân
với xã hội.
Theo Phạm Minh Hạc [13], đề cập tới trí tuệ theo quan điểm mới, phải
xét đến tất cả các bình diện cá thể, cá nhân và nhân cách của nó.
Như vậy, các nhà nghiên cứu có quan điểm riêng về sự phát triển trí
tuệ nhưng đều thống nhất cho rằng, sự phát triển trí tuệ là quá trình tạo lập ra
cấu trúc trí tuệ mới theo khuynh hướng kế thừa [48].
Sự phát triển trí tuệ của trẻ em trải qua các giai đoạn khác nhau, từ trẻ
sơ sinh đến tuổi trưởng thành. Quá trình này diễn ra không đều đặn, không ổn
định, mà thay đổi thường xuyên về nhịp độ và tốc độ. 19
Khả năng hoạt động trí tuệ của con người qua các giai đoạn phát triển
có liên quan đến sự phát triển, trưởng thành và lão hóa của hệ thần kinh. Các
chức năng của não bộ trưởng thành vào thời kỳ thanh thiếu niên [34]. Quá
trình phát triển cũng như tốc độ lão hóa của hệ thần kinh phụ thuộc vào chế
độ luyện tập và hoạt động của nó [49].

MA
IQ
CA
 
(1)
Trong đó: MA (Mental Age) - Tuổi trí khôn được tính theo kết quả bài
trắc nghiệm; CA (Chrorological Age) - Tuổi thời gian tính theo ngày tháng
năm sinh.
Như vậy, hệ số IQ chỉ ra sự vượt lên trước hay chậm lại của tuổi trí
khôn (MA) so với tuổi thời gian (CA). Giữa tuổi trí khôn và tuổi thời gian có
mối tương quan tuyến tính.
D.Wechsler không đồng ý với khái niệm IQ của W.Stern. Ông cho
rằng, sự phát triển trí tuệ diễn ra trong suốt đời người một cách không đồng
đều nên một đại lượng như vậy không thể đánh giá được sự phát triển của trí
tuệ và không phải là một chỉ số thông minh. Ông đưa ra khái niệm IQ bằng
công thức sau:
IQ =
15 100
X X
SD

 
(2)
Trong đó: X là điểm trắc nghiệm cá nhân;
X
là điểm trắc nghiệm trung
bình trong cùng một độ tuổi; SD là độ lệch chuẩn.
Mỗi điểm trắc nghiệm ở đây sẽ có một giá trị IQ tương đương. Dựa trên
chỉ số IQ, người ta chia ra 7 mức trí tuệ khác nhau (Bảng 1.1) [42].
Để tính được chỉ số IQ người ta thường sử dụng các loại test khác nhau,
22
hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác như: quan sát, thực nghiệm, v.v. Tuy
nhiên, với những ưu điểm nổi bật, test Raven vẫn được sử dụng rộng rãi để
đánh giá trí tuệ học sinh trên thế giới và ở Việt Nam.
1.2.4. Tình hình nghiên cứu trí tuệ ở Việt Nam
Người đầu tiên sử dụng test Raven để nghiên cứu sự phát triển trí tuệ của
học sinh Việt Nam là Trần Trọng Thuỷ [42]. Ông đã nghiên cứu chiều hướng,
cường độ, trình độ và chất lượng phát triển trí tuệ của học sinh bằng test
Raven, đồng thời đề cập tới mối tương quan giữa trí tuệ và thể lực của học
sinh. Kết quả cho thấy, so với học sinh nước ngoài thì trình độ phát triển trí
tuệ của học sinh Việt Nam không thua kém.
Trần Thị Loan nghiên cứu trí tuệ của học sinh nông thôn và thành phố
Hà Nội bằng test Raven. Kết quả cho thấy, điểm trí tuệ của học sinh tăng dần
theo tuổi nhưng tốc độ tăng không đồng đều, năng lực trí tuệ của học sinh
nông thôn thấp hơn so với học sinh Hà Nội. Giữa học sinh nam và học sinh
nữ không có sự khác biệt về năng lực trí tuệ. Điều này cho thấy, năng lực trí
tuệ của học sinh không phụ thuộc vào giới tính.
Tạ Thuý Lan, Mai Văn Hưng [16] nghiên cứu trí tuệ của học sinh
Thanh Hoá cũng nhận thấy năng lực trí tuệ của học sinh tăng dần theo tuổi và
năng lực trí tuệ của học sinh có mối tương quan thuận với học lực.
Mai Văn Hưng đã nghiên cứu một số chỉ số thể lực và năng lực trí tuệ
của sinh viên ở một số trường đại học phía Bắc Việt Nam. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, năng lực trí tuệ và khả năng tập trung chú ý có mối tương quan
thuận khá chặt chẽ. Còn mối tương quan giữa năng lực trí tuệ và thời gian
phản xạ cảm giác - vận động là tương quan nghịch.
Mối liên quan giữa yếu tố di truyền và sự phát triển trí tuệ của học sinh
được Trịnh Văn Bảo [4] nghiên cứu vào năm 1993-1994. Kết quả cho thấy



24
1.3. Những vấn đề chung về trí nhớ
1.3.1. Khái niệm về trí nhớ:
Hiện có rất nhiều quan điểm khác nhau về trí nhớ và các nghiên cứu về trí
nhớ đã thu hút được rất nhiều nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khác nhau, tuy
nhiên đa số đều coi trí nhớ là sự vận dụng một khái niệm đã biết trước, là kết
quả của những thay đổi xảy ra trong hệ thần kinh. Như vậy, trí nhớ là quá
trình nhận thức thế giới bằng cách ghi lại, giữ lại, làm xuất hiện lại những gì
cá nhân thu nhận được trong đời sống. Trí nhớ của con người là một quá trình
hoạt động phức tạp, có bản chất là việc hình thành các đường liên hệ thần
kinh tạm thời, lưu giữ và tái hiện chúng [24].
Trí nhớ là hoạt động liên quan đến toàn bộ đời sống tinh thần của con
người và là thành phần quan trọng của trí tuệ [26], [27].
Trí nhớ của con người là một trong số những chức năng tâm, sinh lý cao
cấp của não bộ [12], hoạt động của não bộ cho phép nó ghi nhận tất cả những
gì tác động lên cơ thể từ lúc mới sinh đến lúc chết. Trong cuộc sống hàng
ngày, dù chúng ta không quan tâm đến nhưng các tác động vẫn được các phân
tích quan vẫn tiếp nhận nó và lưu giữ trong não bộ [26]. Không có trí nhớ thì
con người sẽ không có quá khứ, không có tương lai mà chỉ có hiện tại tức
thời.
Trong quá trình nhớ, não thực hiện việc khái quát hoá các hình ảnh đã
cảm giác, tri giác trước đây thành các biểu tượng. Bởi vậy, trí nhớ được xem
như là một bước chuyển tiếp từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lí tính [26].
Trí nhớ của con người là một hoạt động phức tạp, có bản chất là việc hình
thành các đường liên hệ thần kinh tạm thời, lưu giữ và tái hiện chúng [28].
Theo L.Vưgotxki, “Bản chất trí nhớ ở con người là con người dùng các dấu
hiệu để nhớ một cách tích cực” [5].


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status