Khóa luận tốt nghiệp Một số biện pháp rèn kỹ năng viết văn tả người cho học sinh lớp 5 - Pdf 30

1 LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết
quả nghiên cứu ghi trong khóa luận là trung thực, khách quan và chưa từng được công
bố trong bất kì một công trình nào khác.

Đồng Hới, tháng 05 năm 2015
Tác giả

Tô Thu Thành 2
Lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn đến quý thầy cô Trường Đại học Quảng

3. TLV : Tập làm văn 1

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
Lời cảm ơn ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT iii
MỤC LỤC 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3
3. Mục đích nghiên cứu 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5
6. Phương pháp nghiên cứu 5
7. Giả thiết khoa học 6
8. Đóng góp mới của khóa luận 6

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 76
1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Bước vào thế kỷ XXI, cùng với sự phát triển của CNH – HĐH trong thời
đại ngày nay, trên thế giới có biết bao sự thay đổi lớn lao và mạnh mẽ .Với Việt Nam,
thời kỳ CNH - HĐH vừa là cơ hội vừa là thách thức lớn đối với đất nước và con người
thời đại mới. Quá trình này đã dẫn đến những thay đổi quan trọng trong cơ cấu kinh tế,
trình độ phát triển sản xuất, khoa học kỹ thuật và đã tác động vào giáo dục, đòi hỏi
giáo dục phải có những đổi mới tư duy giáo dục, phải thực hiện cải cách giáo dục,
giáo dục phải “đi tắt đón đầu” nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, nhu
cầu đào tạo ra những con người có trình độ, năng động sáng tạo trong thời đại đổi mới.
Nước ta cũng đã và đang tiếp tục đổi mới giáo dục và đổi mới theo tinh thần của
đại hội VI, Nghị quyết Trung ương V (khóa 7), Nghị quyết Hội nghị Trung ương II
(khóa 8), cũng như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX theo phương châm “giáo dục
là quốc sách hàng đầu”. Giáo dục là nhân tố quan trọng nhất, là động lực, mục tiêu cho
sự phát triển bền vững của xã hội.

Khi nói đến phân môn tập làm văn, thì viết văn, hành văn chính là cái đích cuối
cùng, cái đích cao nhất của việc học môn tiếng Việt. Đối với học sinh Tiểu học, biết
nói đúng, viết đúng diễn đạt mạch lạc đã khó, để nói hay, có cảm xúc, giàu hình ảnh lại
càng khó hơn. Cái khó ấy chính là cái đích của phân môn TLV đòi hỏi mỗi học sinh
cần đạt tới.
1.3. Chương trình TLV ở Tiểu học chủ yếu là dạy văn miêu tả bao gồm : văn tả
người, văn tả cảnh, văn tả cây cối ,văn tả đồ vật, văn tả con vật. Trong đó văn tả người
là thể loại khó nhất đối với học sinh . Ở văn tả người, học sinh khó có thể diễn đạt sự
khác biệt rõ giữa mắt, mũi, miệng, tóc của người này và người khác. Vậy nên các em
thường diễn đạt trùng lặp từ ngữ, ý và cả câu. Chính vì thế, tiết học văn tả người
thường thiếu sự sinh động, hấp dẫn học sinh bởi các em thường thụ động nghe thầy cô
cung cấp vốn từ ngữ, ý và cả cách diễn đạt câu sao cho hay, trôi chảy, biểu cảm hơn.
Vì vậy, việc đổi mới trong dạy văn tả người để thu hút học sinh nhằm giúp cho tiết
học sinh động hơn là điều hết sức cần thiết trong giảng dạy.
Từ việc tìm hiểu nội dung chương trình TLV lớp 5 chúng tôi nhận thấy văn tả
người là một dạng văn gần gũi và chiếm khối lượng lớn trong phân phối chương trình
TLV lớp 5, điều này chứng tỏ đây là một dạng bài khá là quen thuộc đối với các em
nhưng không phải vì thế mà tất cả các em đều viết hay. Qua tìm hiểu thực tế cho thấy,
kết quả viết văn tả người ở Tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng còn nhiều vấn đề
3

bất cập so với yêu cầu đặt ra của một bài văn tả người, các em còn nhiều sự lúng túng
trước một đề văn, còn thiếu hiểu biết về đối tượng miêu tả và chưa biết cách để diễn
đạt điều mà mình muốn tả. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là người giáo viên
chưa truyền thụ được cho học sinh những yêu cầu cần thiết, đặc trưng nhất của một bài
văn tả người. Mặt khác một số giáo viên chưa có được cái “tâm” trong cách truyền thụ
bài bởi văn tả người là một dạng văn đòi hỏi phải có tình cảm thì bài viết mới chân
thực được.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “ Một số biện
pháp rèn kỹ năng viết văn tả người cho học sinh lớp 5” làm đề tài nghiên cứu với

học nói chung và văn miêu tả, cũng như văn tả người nói riêng nhưng chưa đi sâu
nghiên cứu việc rèn kỹ năng viết văn tả người ở một khối lớp cụ thể.
Những công trình nghiên cứu trên là những tiền đề quan trọng để chúng tôi lựa
chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn tả người cho học sinh lớp 5”
làm vấn đề nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu
Văn tả người là một dạng bài văn khó nhất trong tất cả các kiểu bài thuộc thể
loại văn miêu tả, đồng thời kiểu bài này trong thực tế ở các trường Tiểu học vẫn
chưa được các em chú trọng nên chất lượng bài viết chưa cao, biểu hiện cụ thể đó
là các em còn thụ thuộc nhiều vào các tài liệu tham khảo, tình trạng viết văn khô
khan, kém hấp dẫn. Nhất là ở trường Tiểu học vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, miền
núi.
Thực hiện đề tài, chúng tôi mong đề xuất được các biện pháp từ đó rèn luyện kỹ
năng viết văn tả người cho học sinh lớp 5.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp rèn kỹ năng viết văn tả người cho học sinh lớp 5.
Phạm vi nghiên cứu:
Các dạng văn tả người ở lớp 5:
+ Tả người thân trong gia đình
+ Tả những người ngoài xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến HS
5

Trong đó tập trung chú ý miêu tả về ngoại hình và tính tình thông qua các hoạt
động của đối tượng được tả.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu các tài liệu liên quan để tìm ra cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của
vấn đề nghiên cứu.
Tìm hiểu và phân tích thực trạng của vấn đề nghiên cứu từ đó để đưa ra các biện
pháp cụ thể, phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay của vấn đề nghiên cứu.

làm văn tả người cho HS lớp 5 nói riêng và góp phần nâng cao hiệu quả dạy học phân
môn TLV nói chung.
8. Đóng góp mới của khóa luận
Những đóng góp mới của khóa luận thể hiện ở mấy điểm cơ bản sau:
- Góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân môn tiếng Việt nói chung, góp
phần làm phong phú thêm lý luận dạy học phân môn TLV và văn tả người trong nhà
trường tiểu học nói riêng, qua việc xây dựng cơ sở khoa học của các biện pháp rèn kỹ
năng viết văn tả người cho học sinh lớp 5.
- Đề xuất các biện pháp rèn kỹ năng viết văn tả người cho học sinh lớp 5 mang
tính chiến lược giúp học sinh có cơ hội luyện tập kỹ năng quan sát, kỹ năng phân tích
đề, tìm hiểu đề, kỹ năng viết câu đoạn, bài văn hoàn chỉnh, kỹ năng truyền tải được
những tình cảm của bản thân dành cho đối tượng vào bài viết của mình, làm cho bài
viết mang đậm tính chân thực, giàu xúc cảm và lôi cuốn trái tim người đọc.
Như vậy những kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần nâng cao chất lượng
dạy học môn tiếng Việt , đặc biệt là văn tả người, đồng thời đề tài có thể dùng làm tài
liệu tham khảo cho sinh viên khoa Sư phạm Tiểu học – Mầm non trong quá trình
nghiên cứu, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Mặt khác giáo viên Tiểu học có thể dùng
làm tài liệu cho bản thân trong quá trình dạy học văn tả người ở Tiểu học.
9. Cấu trúc của đề tài
Đề tài gồm những phần cơ bản sau :
Phần mở đầu: lý do chọn đề tài, lịch sử nghiên cứu đề tài, mục đích nghiên cứu,
đối tượng và phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, giả
thiết khoa học, đóng góp mới của đề tài, bố cục của đề tài.
7

Phần nội dung : gồm 3 chương
+ Chương 1 : Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc dạy học sinh lớp 5 viết văn tả
người
+ Chương 2: Một số biện pháp rèn kỹ năng viết văn tả người cho học sinh lớp 5
+ Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

được cụ thể sự vật, sự việc hoặc thế giới nội tâm của con người.”
Như vậy, miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm
cho người nghe, người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật,
sự việc như nó vốn có trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay không những phải thể
hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng
tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết với đối tượng được miêu tả. Bởi vì trong
thực tế, không ai tả mà để tả, mà thường tả để gửi gắm suy nghĩ, cảm xúc, sự đánh
giá, những tình cảm yêu ghét cụ thể của mình. Các bài văn miêu tả ở Tiểu học chỉ yêu
cầu tả những đối tượng mà học sinh yêu mến, thích thú. Vì vậy, qua bài làm của mình,
các em phải gửi gắm tình yêu thương với những gì mình miêu tả.
b, Khái niệm văn tả người
Tả người là dạng bài TLV yêu cầu học sinh dùng từ ngữ để tái hiện lại hình ảnh,
tính cách của một con người với các trạng thái và tính cách của người đó, nhằm giúp
người đọc, người nghe như đang được tận mắt nhìn thấy đối tượng được tả dần hiện ra
qua từng con chữ.
Vì vậy khi làm văn tả người điều quan trọng là phải biết quan sát và dẫn ra được
những nét tính cách đặc trưng, những hoạt động tiêu biểu nhất của đối tượng được
miêu tả.
Để làm nổi bật đặc điểm của một bài văn tả người, người viết cần:
9

+ Cụ thể hóa (tả ai) : tả người thì phải làm cho người đọc, người nghe hình dung
được đây là một con người sống thực sự.
+ Cá biệt hóa ( tả như thế nào): khi tả người phải làm cho người đọc, người nghe
hình dung ra được một con người cụ thể chứ không phải chung chung.
+ Mục đích hóa ( tả với mục đích gì): tả người phải xác định được mục đích là để
làm gì: ca ngợi, phê phán, châm biếm.
c, Đặc điểm của bài văn tả người
Văn tả người trong văn chương nói chung
Xét trên bình diện của một tác phẩm văn chương thì nhân vật con người trong các

Vũ đã viết: “Chấm không phải là cô con gái đẹp, nhưng là người mà ai đã gặp thì
không thể lẫn lộn với bất cứ một người nào khác.”
“Chấm cứ như một cây xương rồng. Cây xương rồng chặt ngang chặt dọc, chỉ
cần cắm nó xuống đất, đất cằn cũng được, nó sẽ sống và sẽ lớn lên. Chấm thì cần cơm
và lao động để sống .”
“Chấm mộc mạc như hòn đất. Hòn đất ấy bầu bạn với nắng với mưa để cho cây
lúa mọc lên hết vụ này qua vụ khác, hết năm này qua năm khác ”
“ Chấm có một thân thể nở nang rất cân đối, hai cánh tay béo rắn và chắc nịch,
hai vai tròn và cái cổ cao. Chấm ao ước có một mái tóc cho thật dài. Đôi lông mày
Chấm không tỉa bao giờ, nó mọc lòa xòa tự nhiên, chính lại làm cho đôi mắt sắc sảo
của Chấm lại dịu dàng đi”.
Đọc đoạn văn tả người con gái tên Chấm của nhà văn Đào Vũ, người đọc chúng
ta cảm nhận được vẻ đẹp rất riêng, có cái gì đó rất đặc biệt bởi theo nhà văn thì “Chấm
không phải là cô con gái đẹp, nhưng là người mà ai đã gặp thì không thể lẫn lộn với
bất cứ một người nào khác”, rồi người đọc lại bắt gặp cái riêng của cô Chấm từ mái tóc
đỏ quạnh và không bao giờ dài được, từ đôi lông mày không tỉa bao giờ, từ hình ảnh
một cô gái khỏe mạnh, rắn chắc “như một cây xương rồng” , bắt gặp bản chất mộc mạc
của một cô gái nông thôn “Chấm mộc mạc như hòn đất” Đúng là những chi tiết miêu
tả ấy không thể nào dùng được nếu tả như đó là tả vẻ đẹp của người con gái thị thành.
Như vậy để học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của con người qua ngôn ngữ của các
nhà văn trong văn tả người từ các tác phẩm, người giáo viên đóng một vai trò hết sức
quan trọng đó là: Giúp học sinh tiếp cận với những giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật
11

của văn mẫu. Tìm hiểu được ngôn ngữ nghệ thuật qua sự chuyển hoá các lớp nghĩa tinh
tế. Học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn ngữ, vẻ đẹp của hình ảnh, có được những
hiểu biết về con người cũng như cuộc sống xung quanh các em. Từ đó, các em chuyển
kiến thức đã tiếp nhận thành năng lực sử dụng tiếng Việt. Sau đó đưa vốn tiếng Việt áp
dụng vào thực tiễn khi viết văn tả người. Vì kiến thức Tiếng Việt chỉ thực sự có ích với
HS khi nó được vận dụng vào thực tế tiếp nhận và tạo lập văn bản.

nâu sẫm đúng là vóc dáng của một con người quanh năm chân lấm tay bùn quen giầm
mưa dãi nắng. Con trâu mộng to béo, da đen nhánh kéo cày đi trước. Bác Hải nắm dây
thường điều khiển , tay phải cầm đốc cày theo sau. Đường cày thẳng tăm tắp. Bác
nhoai người ra phía trước, đến đầu bờ, bác nhấc cày lên cho trâu quay lại rồi cày tiếp.
Ôi, bác nhấc cày nhẹ nhàng như không. Vừa cày bác vừa cất tiếng "Vắt, diệt, họ" để
"bảo" trâu. Bác chia ruộng thành nhiều luống. Những luống cày úp sát vào nhau
trông thật đẹp. Ôi, bác cày trông thật thiện nghệ, trâu và người mải miết cặm cụi làm
việc. Chẳng mấy chốc những luống cày màu nâu óng ánh dưới nắng tháng mười. Mặt
trời lên cao dần, lưng bác ướt đẫm mồ hôi mà vẫn say sưa làm việc. Không biết mệt
mỏi.
Em thật cảm ơn những người nông dân như bác. Với sự khéo léo và cần mẫn đã
làm nên những mùa màng bội thu, mang lại sự ấm no ,niềm vui hạnh phúc cho con
người”.
Như vậy qua việc miêu tả hình ảnh bác nông dân đang cày ruộng ta các em đã
làm nổi bật được nét tiêu biểu về ngoại hình cũng như tính cần cù, bản chất mộc mạc
của một người nông dân ngày đêm chân lấm tay bùn gắn bó với công việc cày cấy.
1.1.1.2. Kết luận sư phạm
Từ việc tìm hiểu các khái niệm liên quan và việc phân tích các đặc trưng của văn
tả ngưởi có thể thấy việc nắm vững được khái niệm, đặc trưng của một bài văn tả
người là rất cần thiết. Nắm được đặc điểm cơ bản sẽ tránh được việc viết văn lạc đề,
tránh được việc lấy râu ông nọ chắp cằm bà kia. Văn miêu tả trong chương trình lớp 5
gồm nhiều kiểu bài khác nhau, nếu không nắm chắc được từng loại thì sẽ dẫn đến tình
trạng lạc đề. Là một giáo viên Tiểu học, chúng tôi tin rằng không một ai chưa từng một
lần nghe qua bài văn tả ông nội, trong đó có câu: “ nhà em có nuôi một ông nội, ông
nội em có tứ chi” Như vậy học sinh đã không xác định được những chi tiết nào là
dùng để tả người những chi tiết nào là tả con vật, các em dễ bị lẫn lộn giữa các kiểu bài
văn với nhau. Điều này sẽ trở thành một thảm họa cho ngành giáo dục. Yêu cầu đặt ra
13

ở đây là giáo viên phải làm sao để học sinh xác định và nắm chắc được điều đó và vận

Như vậy, theo A.N.Lê-ôn-chép, hoạt động lời nói là một cấu trúc động bao gồm
bốn giai đoạn:định hướng, lập chương trình, hiện thực hóa chương trình và kiểm tra.
Cấu trúc này đã được vận dụng triệt để khi xây dựng hệ thống kỹ năng làm văn. Theo
đó, các kỹ năng làm văn tương ứng được hình thành là :
+ Ứng với giai đoạn định hướng là kỹ năng xác định đề bài, giới hạn đề bài và kỹ
năng xác định tư tưởng cơ bản của bài viết.
+ Ứng với giai đoạn lập chương trình là kỹ năng lập ý, tìm ý, xây dựng dàn ý.
Việc làm này sẽ giúp học sinh trình bày bài nói (viết) một cách đầy đủ, mạch lạc, có
lôgic. Khi lập dàn ý, phải sắp xếp được ý chủ đạo và sắp sếp ý theo một trình tự nhất
định.
+ Ứng với giai đoạn hiện thực hoá chương trình là kỹ năng nói (viết) thành
bài, bao gồm các kỹ năng bộ phận như: dùng từ, đặt câu, viết đoạn, viết bài.
+ Ứng với giai đoạn kiểm tra kết quả là nhóm kỹ năng phát hiện lỗi - lỗi chính
tả, lỗi dùng từ, lỗi dựng câu và kỹ năng chữa lỗi.
Các nhân tố của hoạt động lời nói và dạy học tập làm văn
Các nhân tố của hoạt động lời nói và các dạng lời nói cũng tác động tích cực đến
quá trình tổ chức dạy học các kiểu bài TLV.
Việc chỉ ra các nhân tố tham gia vào hoạt động giao tiếp có ý nghĩa lớn trong
việc dạy học TLV. Hoạt động nói năng không thể có hiệu quả nếu không tính đến
những nhân tố này. Đây là những căn cứ để đánh giá chất lượng một ngôn bản: Có
lựa chọn với vai nói không ? Có lựa chọn đúng phương tiện giao tiếp không ? Có đạt
được mục đích giao tiếp không…?
Sự hiểu biết về hoạt động lời nói đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được các đề
bài gắn với tình huống giao tiếp, tổ chức các giờ học TLV làm sao để cho học sinh có
nhu cầu giao tiếp.
Khi nghiên cứu hoạt động lời nói, người ta thấy rằng cái kích thích hành vi nói là
cái gì đó nằm ngoài ngôn ngữ. Chính vì vậy, xét đến tận cùng, dạy TLV không phải
bắt đầu từ hoạt động ngôn ngữ, từ sự tổ chức hoạt động ngôn ngữ mà phải bắt đầu
15



+ Kỹ năng hiệu chỉnh văn bản
Đồng thời học sinh cũng cần nắm được đặc trưng các phong cách chức năng ngôn
ngữ, vốn hiểu biết của mình về đề tài bài viết.
+ Kỹ năng viết trong phân môn TLV cũng được hình thành và phát triển theo
từng giai đoạn. Lớp 2,3 chủ yếu luyện các kỹ năng bộ phận; lớp 4,5 luyện kỹ năng làm
bài văn theo các thể tài gắn bó và cần thiết trong hoạt động giao tiếp của học sinh,
tương ứng với các mức độ kỹ năng này là các dạng bài tập căn bản:
Bài tập tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý gắn với từng loại văn bản
Bài tập xây dựng đoạn, viết bài theo các loại văn bản.
Ngữ pháp văn bản và việc ứng dụng vào dạy học TLV
Những yếu tố và đặc trưng cơ bản của văn bản ảnh hưởng rất lớn đến dạy học
TLV nói chung và văn tả người nói riêng.
+ Tính thống nhất của văn bản : thể hiện trên hai phương diện là liên kết nội dung
và liên kết hình thức ảnh hưởng rất lớn đến việc tìm hiểu, định hướng và rèn kỹ năng
tìm ý, lập dàn ý
+ Đặc trưng về nghĩa, cấu trúc đoạn văn cũng là yếu tố được khai thác, vận dụng
vào dạy học TLV
+ Trong chương trình tiếng Việt hiện hành, đoạn có thể xem là đơn vị trung tâm
của dạy học TLV. Về chức năng, có các kiểu dạng : đoạn mở bài, đoạn thân bài, đoạn
kết bài. Để tăng cường rèn luyện kỹ năng tạo lập, sản sinh ngôn bản cho học sinh, nội
dung dạy học TLV còn đề cập đến các dạng thức đoạn : mở bài trực tiếp và mở bài
gián tiếp, kết bài mở rộng và kết bài không mở rộng.
Như vậy để có thể dạy tốt các bài văn miêu tả ở Tiểu học nói chung và văn tả
người cho học sinh lớp 5 nói riêng, giáo viên cần vận dụng các tri thức về TLV, trong
đó cần phải nắm chắc các hiểu biết chi tiết về văn tả người về ngôn ngữ, về đề tài, tư
tưởng. Các tri thức này góp phần chỉ ra nội dung luyện tập của các kỹ năng làm văn.
Nói cách khác, có các hiểu biết về loại thể văn học, giáo viên mới hiểu rõ tính đặc thù
của từng kỹ năng trong từng kiểu văn. Để “vẽ được bằng lời” giáo viên phải dạy học
sinh tìm ý trong bài văn tả người bằng cách dạy quan sát và ghi chép các nhận xét.

giáo viên và dẫn đến dạy học không sát, chất lượng còn hạn chế. Do đó đối với người
dạy, trong quá trình dạy học cần phải nắm vững một số đặc điểm chính sau đây :

18

1.1.3.1 Đặc điểm về nhận thức
Học sinh lớp 5 về cơ bản đã thoát ra ngoài môi trường gia đình, nên các em chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố và nhiều mối quan hệ khác nhau, từ đó nhận thức của các
em về trong gia đình, trường học, xã hội và đặc điểm tâm sinh lý cũng có những thay
đổi theo. Các em nhìn nhận một vấn đề nào đó không còn quá máy móc. Chúng tôi đi
sâu tìm hiểu về nhận thức về tri giác, chú ý, tư duy và tưởng tượng.
Về tri giác : Ở lứa tuổi lớp 4,5 tri giác của học sinh có phát triển rõ rệt so với tri
giác của học sinh các lớp 1, 2, 3. Các em đã biết xác định mục đích của việc tri giác –
tri giác có chủ định. Các em đã bước đầu biết phân tích, suy luận, và ở lứa tuổi này tri
giác bắt đầu mang tính xúc cảm, học sinh thích quan sát các sự vật hiện tượng sặc sỡ và
hấp dẫn. Tuy nhiên về cơ bản tri giác của học sinh lớp 5 thiên về tính đại thể, ít đi sâu
vào chi tiết và không chủ động.
Từ đặc điểm này chúng tôi nhận thấy khi dạy học sinh viết văn tả người, cần đặt
các em vào mối quan hệ cụ thể với đối tượng, khi xây dựng các biện pháp phải giúp
các em xác định được mục đích viết văn, phân tích, suy luận những chi tiết đặc trưng
khi tri giác về đối tượng miêu tả, và phải làm sao để các em lồng được cảm xúc của
mình vào việc phân tích đối tượng.
Về mặt chú ý : Ở lứa tuổi cuối của bậc Tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ
chức, điều chỉnh chú ý của mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở
trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một
công thức toán hay một bài hát dài, Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới
hạn của yếu tố thời gian, trẻ đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một
việc nào đó và cố gắng hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy định.
Căn cứ vào đặc điểm chú ý của học sinh, người giáo viên khi dạy học sinh viết
văn cần phát huy một cách tích cực các đặc điểm này của các em, vì khi viết văn nhất

1.1.3.2. Đặc điểm ngôn ngữ
Hầu hết học sinh Tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt đầu
xuất hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo và bắt đầu hoàn
thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm.
Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm tính và lý
tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ phát
triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói và viết của trẻ. Đặc biệt
trong phân môn tập làm văn năng lực ngôn ngữ của trẻ được biểu hiện rõ rệt nhất, từ
20

việc chuyển từ ngôn ngữ nói sang ngôn ngữ viết là cả một quá trình và đòi hỏi khả
năng diễn đạt tốt.
Chính vì ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng như vậy nên trong quá trình dạy
học sinh viết văn tả người giáo viên phải làm sao để các em sử dụng vốn ngôn ngữ của
mình để tạo nên một bài văn hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Muốn vậy giáo viên cần
phải trau dồi vốn ngôn ngữ cho trẻ bằng cách rèn luyện vốn ngôn ngữ không chỉ trong
giờ dạy TLV mà còn trong các phân môn khác của bộ môn tiếng Việt như là phân môn
luyện từ và câu, phân môn chính tả, kể chuyện, hướng hứng thú của trẻ vào các loại
sách báo có lời và không lời, có thể là sách văn học, các tác phẩm văn chương miêu tả
hình tượng con người, truyện tranh, truyện cổ tích, báo nhi đồng, đồng thời cũng có
thể đọc cho trẻ nghe các bài vè về văn tả người mà giáo viên tự biên ví dụ như : “Nghe
vẻ, nghe ve/ Nghe vè miêu tả/ Tả người phải nhớ/ Giới thiệu tả ai?/ Dáng điệu, tóc tai/
Đôi môi, cặp mắt/ Cái mũi, làn da/ Áo quần, giọng nói/ Cử chỉ, ngoại hình/ Hành
động, tính tình/ Có gì tả hết/ Khi đến phần kết/ Cảm xúc dâng trào/ Yêu mến thế nào/
Phải nêu cho rõ/ Nghe vẻ, nghe ve/ Nghe vè để nhớ!”. Chắc chắn chỉ cần đọc “Bài vè
tả người” vài lần, học sinh sẽ thuộc để vận dụng, đồng thời còn gây được hứng thú cho
các em khi bước vào tiết học văn tả người.
Ngoài ra giáo viên có thể trau dồi vốn ngốn ngữ và tạo cơ hội cho các em thể hiện
năng lực hành văn của mình qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp , tổ chức các cuộc thi
kể truyện đọc thơ, viết truyện, cuộc thi viết về người mẹ (cô) trong dịp mừng ngày 8/3.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status