Tư tưởng nhân quả của phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sông người dân quảng trị trong thời đại ngày nay - Pdf 30

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài

TƯ TƯỞNG NHÂN QUẢ CỦA PHẬT GIÁO VÀ ẢNH
HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN
QUẢNG TRỊ TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY

Giảng viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Lớp

: TS.Trần Ngọc Ánh
: Ngô Thị Hiệp
: 09SGC

Đà Nẵng, tháng 05/2013


Trong thời gian vừa qua nhờ sự quan tâm, giúp đỡ tận
tình của quý thầy cô, những người thân trong gia đình và
bạn bè mà tôi đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi xin dành lời cám ơn chân thành đến các Thầy Cô
giáo trong khoa Giáo dục Chính trị - Trường Đại học Sư
phạm Đà Nẵng, đặc biệt là thầy giáo, TS. Trần Ngọc Ánh
– người đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình thực
hiện khóa luận.
Đà Nẵng, ngày 14 tháng 05 năm 2013

nổi bật trong tư tưởng của phật giáo. Một giáo lý đã ăn sâu vào hệ tư tưởng của dân
tộc ta. Nó không chỉ ảnh hưởng qua những trang sách, những bài viết, những trang
kinh của đức phật mà nó ảnh hưởng trực tiếp qua cách sống, qua ý thức tự nhiên, nó
như trở thành bản năng của con người Việt Nam. Ảnh hưởng của giáo lý nhân quả
trong đời sống của người dân Việt Nam nói chung là vô cùng lớn. Và đặc biệt ở
mảnh đất Quảng Trị, mảnh đất của sự linh thiêng lịch sử, mảnh đất của một thời hoa
lửa, của máu và hoa, sự ảnh hưởng của phật giáo cũng rất nổi bật. Sự ác liệt của


chiến tranh trên mảnh đất này, sự hi sinh, mất mát đã hằn sâu vào tâm thức của
người dân nơi đây. Chính vì vậy, đời sống văn hóa của con người Quảng Trị nó
mang đậm một nét riêng, luôn hướng về thời lịch sử anh hùng ấy. Phật giáo đã đến
xoa dụi những nỗi đau, những mất mát mà người dân nơi đây đã hứng chịu. Phật
giáo, nó ảnh hưởng trong mọi phương diện của lối sống người dân Quảng Trị, đặc
biệt là sự ảnh hưởng giáo lý nhân quả của Phật. Với mong muốn được đi sâu vào
khám phá đời sống của người dân quê mình, dưới ánh sáng của phật giáo, bản thân
tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Tư tưởng Nhân Quả của Phật giáo và ảnh hưởng của
nó đối với đời sống người dân Quảng Trị trong thời đại ngày nay” làm đề tài khóa
luận tốt nghiệp của mình.
Trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển của nhân loại, trước sự xâm
nhập của nhiều nền văn hóa, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ
thuật, con người ngày nay như trở nên thực dụng hơn, lối sống chạy theo đồng tiền
và danh lợi mà đánh mất đi nhân phẩm, phẩm chất của mình. Xã hội với biết bao
nhiêu điều đáng phải nói, con người dường như trở nên khó để phân biệt ranh giới
giữa cái thiện và cái ác. Chính vì vậy khi nghiên cứu đề tài này bản thân tôi mong
muốn góp thêm tiếng nói của mình trong hồi chuông thức tỉnh những tâm hồn lạc
lối.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề phật giáo trong lịch sử đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về nó.
Đây là một vấn đề có phương diện nghiên cứu rộng, có nhiều cách để khai thác

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái quát chung về phật giáo và quá trình du nhập và phát triển phật giáo
Việt Nam
- Tư tưởng nhân quả và ảnh hưởng của nó đối với đời sống người dân Quảng
Trị
3.3. Giới hạn của đề tài
Trong khuôn khổ khóa luận tôt nghiệp, đề tài chỉ giớ hạn ở giáo lý Nhân Quả
của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với người dân Quảng Trị trong thời đại ngày
nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1.Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác

7


– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Khi nghiên cứu đề tài này, người viết đã sử
dụng một số phương pháp sau:
* Phương pháp biện chứng duy vật lịch sử
* Phương pháp lôgic và lịch sử
* Phương pháp phân tích và tổng hợp
* Phương pháp diển dịch, quy nạp
* Phương pháp thống kê.
5. Đóng góp mới của đề tài
- Đề tài trình bày có hệ thống về giáo lý Nhân quả của Phật giáo.
- Làm rõ ảnh hưởng của tư tưởng Nhân quả đối với đời sống của người dân
Quảng Trị trong thời đại ngày nay.
6. Ý nghĩa của đề tài.
*Ý nghĩa lý luận:
-Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ thêm tư tưởng của phật giáo

chảy về phía Đông. Vì thế Ấn Độ có những vùng đồng bằng trù phú màu mỡ, có
vùng nóng ẩm mưa nhiều, có vùng lạnh giá quanh năm tuyết phủ, lại có những vùng
xa mạc khô cằn, nóng bức. Những điều kiên tự nhiên đa dạng và khắc nghiệt ấy là
cơ sở để hình thành sớm những tư tưởng tôn giáo triết học.
Về kinh tế – xã hội: Từ thế kỷ VI – I TCN, nền kinh tế – xã hội chiếm hữu nô
lệ Ấn Độ đã phát triển, thổ dân trên bán đảo Nam Á là người Dravidian và
Sumerian đã có nền văn minh khá cao. Đầu thế kỷ II TCN, một nhánh người Aryan
thâm nhập vào bán đảo Ấn Độ, dần dần chuyển sang định cư và sống bằng nghề
nông. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế – xã hội của xã hội Ấn Độ cổ, trung đại là
sự tồn tại rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế – xã hội theo mô hình “công xã
nông thôn”. Mô hình này có đặc trưng là ruộng đất thuộc quyền sở hữu nhà nước,
gắn liền với nó là sự bần cùng hoá của người dân trong công xã, và quan hệ giữa gia
đình thân tộc được coi là quan hệ cơ bản, cùng với xã hội được phân chia thành các
đẳng cấp. Xã hội thời kỳ này được phân chia thành 4 đẳng cấp lớn là: tăng lữ, quý
tộc, bình dân tự do và nô lệ cung đình. Sự phân chia đẳng cấp đó làm cho xã hội
xuất hiện những mâu thuẫn gay gắt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp giữa các đẳng

9


cấp trong xã hội. Trong cuộc đấu tranh ấy, nhiều tôn giáo và trường phái triết học
đã ra đời, trong đó có Phật giáo.
Đặc điểm văn hóa – khoa học: Văn hoá Ấn Độ cổ – trung đại được chia làm ba
giai đoạn. Khoảng thế kỷ XXV-XV TCN gọi là nền văn minh sông Ấn, từ thế kỷ
XV – VII TCN gọi là nền văn minh Vêđa và từ thế kỷ VI – I TCN là thời kỳ hình
thành các trường phái triết học tôn giáo lớn gồm hai hệ thống đối lập nhau là chính
thống và không chính thống. Tiêu chuẩn của chính thống và không chính thống là
có thừa nhận uy thế của kinh Vêđa và đạo Bàlamôn hay không. Về khoa học, ngay
từ thời kỳ cổ đại, người Ấn Độ đã đạt được những thành tựu về khoa học tự nhiên.
Đặc biệt là các lĩnh vực thiên văn, toán học, y học…

ngài dặn cháu trai mình là Nâlaka nhớ rằng về sau phải làm đệ tử của Đức Phật
tương lai này”
Năm bảy tuổi, theo học các đạo sĩ Bàlamôn, Tất Đạt Đa đã tỏ ra là một người
thông minh lạ thường và sức khoẻ tuyệt luân. Một lần theo phụ vương ra ngoài dự
lễ hạ điền, thấy cảnh người nông dân chân lấm tay bùn cực nhọc, trâu bò phải kéo
cày khổ sở, trên luống cày chim chóc tranh nhau sâu bọ, hoàng tử lặng lẽ ngồi trầm
ngâm thiền định dưới góc cây, suy tư về nỗi khổ của chúng sinh. Để tránh Tất Đạt
Đa sẽ xuất gia đi tu như đã được các vị đạo sĩ tiên đoán, nhà vua đã đặt ra các thú
vui, tạo ra cuộc sống xa hoa, lộng lẫy, ngày đêm có các ca công vũ nữ hầu hạ, để
hoàng tử quên đi những suy tư và việc tu hành.
Năm 16 tuổi nhà vua đã cưới cho hoàng tử công chúa Ýaodhara, một người em
cô cậu cho hoàng tử. Trong 13 năm sau ngày hôn lễ, Tất Đạt Đa hoàn toàn sống
cuộc đời vương giả. “Đời sống của ta thật là tế nhị, vô cùng tinh vi. Trong hoàng
cung chỗ đâu ta ở, phụ hoàng đều có đào ao, xây những đầm sen. Khi sen xanh đua
nhau khoe màu ở đây, thì sen đỏ vươn mình khoe sắc phía bên kia, và bên cạnh sen
trắng đau nhau tranh đẹp dưới ánh nắng ban mai. Trầm hương của ta dung đều là
loại thượng hạng từ xứ Kasi đưa về. Khăn và xiêm áo của ta cũng may toàn bằng
hàng lụa bậc nhất từ Kasi chở đến…”
Mặc đầu sống trong giàu sang phú quý với sự yêu chiều của vua cha và người
vợ trẻ đẹp, nhưng như tiền định, hoàng tử vẫn luôn nghĩ về sự khổ của sinh, bệnh,
lão, tử và những phiền não của bụi trần ô trược. Siddhattha suy niệm: “Chính ta
phải chịu sinh, già, bệnh, tử phiền não và ô nhiễm. Tại sao vẫn mê mãi chạy theo

11


những điều mà bản chất cũng còn như vậy. Vì chịu sinh, lão, bệnh, tử phiền não và
ô nhiễm, ta đã nhận thức được sự bất lợi của những điều ấy. Hay ta thử đi tìm cái
chưa thành đạt, cái tối thượng và tuyệt đối chu toàn là Niết Bàn”. Mỗi ngày Thái tử
càng xít lại gần hơn với quyết định xuất gia. Thái tử vẫn thấy lòng nặng trĩu bao nỗi

diệt trừ nỗi khổ cho chúng sinh bằng học thuyết “nhân sinh duyên” và triết lý “tứ
diệt đế”, “ Thập nhị nhân duyên”, “ Bát chánh đạo”. Tất Đạt Đa đã trở thành Phật
Thích Ca Mâu Ni, còn gọi là Đức Phật, lúc này ngài vừa đúng 35 tuổi.
Sau khi đắc đạo Đức Phật bắt đầu cuộc thuyết giáo dài tới 45 năm. Những nơi
có nhân duyên sâu nặng với Đức Thích ca mà Ngài lưu lại thuyết giáo lâu nhất là
thành Vương Xá của nước Ma Kiệt Đà, thành Xá Vệ của nước Kiều Tất La, thành
Bà La Nại của nước Ca Thi. Năm 80 tuổi , Đức Phật nhận thấy cơ duyên giáo hóa
chúng sinh đã viên mãn và quyết định nhập niết bàn dư y. Để ban lời giáo huấn cuối
cùng, chỉ trong một ngày đêm, Đức Phật đã nói xong bộ kinh Đại Bát Niết Bàn. Rồi
Ngài lên tòa thất bảo, nằm nghiên sườn bên trái, đầu gối về phía Bắc, chân duỗi về
phương Nam đi vào đại diệt độ ( Mahàvirvàna), nhằm vào ngày 15 tháng 02. Sau
khi Đức Phật nhập niết bàn, Ngài Ma Ka Diếp và Đại Chúng rước kim quan của
Đức Phật tới giàn thiêu để làm lễ Trà tỳ.
Qua hơn 40 năm hoằng pháp và truyền đạt giáo lý Phật giáo khăp Ấn Độ. Ông
qua đời ở tuổi 80 và để lại cho nhân loại những tư tưởng triết học Phật giáo vô cùng
quý báu. Với mục đích nhằm giải phóng con người khỏi mọi khổ đau bằng chính
cuộc sống đức độ của con người, Phật giáo nhanh chóng chiếm được tình cảm và
niềm tin của đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Nó đã trở thành biểu tượng
của lòng từ bi bác ái trong đạo đức truyền thống của các dân tộc Châu Á. Kinh điển
của phật giáo rất đồ sộ gồm ba bộ phận gọi là “tam tạng kinh” bao gồm Tạng kinh,
Tạng luật và Tạng luận.
1.1.2. Quá trình phát triển của phật giáo
Sự phân phái các hệ thống triết lý tôn giáo lớn trong quá trình phát triển của
mình đã trở thành một hiện tượng mang tính quy luật và đạo Phật cũng không nằm
ngoài quy luật đó.
Sau khi Đức Phật diệt độ, các môn đệ cũng như các tăng sỹ trong hàng ngũ
tăng gia có quan điểm khác nhau về giáo lý và giới luật của Đức Phật cùng với sự
thay đỗi của cuộc sống xã hội lúc bấy giờ đã dẫn đến sự phân phái trong Đạo Phật.

13

trù thời gian, phái “Kinh bộ” xây dựng “lý thuyết về tính chốc lát”. Về sau Tiểu

14


thừa còn có nhiều phái khác như Câu xá tông, Thành thực tông, Luật tông…
Đại thừa có nghĩa là cỗ xe lớn, phái này không chỉ tự giác ngộ cho mình mà
còn giác ngộ cho mọi người. Kinh sách thường viết bằng tiếng Sankrit và phát triển
mạnh về phía Bắc Ấn như Nêpan, Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc, Nhật bản, Việt
Nam nên còn gọi là Bắc tông.
Đại thừa có hai phái lớn: Phái “Trung luận” (Madhymika) do sư Long Thọ lập
ra ở thế kỷ II Scn. Phái này truyền tụng chủ yếu là các kinh Hoa Nghiêm; Phái “Du
già” (Yogacara) do hai anh em Vô Trước (Asangha) và Thế Thân (Vasubhandha)
sáng lập ở thế kỷ IV Scn. Kinh sách truyền tụng của phái này thường là Du già sư
địa luận (duy thức luận), đại thừa luận, kim cương bát nhã luận. Về sau Đại thừa
còn có nhiều tông phái khác như: Pháp tướng tông, Tam luận tông, Hoa Nghiêm
tông, Thiên thai tông, Mật tông (chân ngôn tông), Thiền tông, Tịnh độ tông…
1.1.3. Những tư tưởng cơ bản của Phật giáo
Tư tưởng triết học Phật Giáo ban đầu chỉ là truyền miệng, sau đó được viết
thành văn thể trong một khối kinh điển rất lớn, gọi là “Tam Tạng”, Gồm 3 Tạng
kinh điển là: Tạng Kinh, Tạng Luật, và Tạng Luận. Trong đó thể hiện các quan
điểm về thế giới và con người.
1.1.3.1. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo thể hiện tập trung ở nội dung của 3
phạm trù: vô ngã, vô thường và duyên.
*Vô ngã (không có cái tôi chân thật)
Trái với quan điểm của kinh Vêđa, đạo Bàlamôn và đa số các môn phái triết
học tôn giáo đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên tối cao,
sáng tạo và chi phối vũ trụ, Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con
người không phải do một vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết hợp

điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà
trở thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới. Cứ như
vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật, tuân theo quy luật “NhânQuả”, nhân là cái hạt, quả là cái trái, cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và quả là
hai trạng thái nối tiếp nhau, nương vào nhau mà có. Nếu không có nhân thì không
thể có quả, nếu không có quả thì không thể có nhân, nhân thế nào thì quả thế ấy.
Hạt lúa được gọi là “nhân” khi gặp “duyên” là điều kiện thuận lợi về không khí,

16


nước, ánh sáng, nhiệt độ…thì nhân sẽ phát triển thành “quả” là cây lúa.
Như vậy, thông qua các phạm trù Vô ngã, Vô thường và Duyên, triết học Phật
giáo đã bác bỏ quan điểm duy tâm lúc bấy giờ cho rằng thần Brahman sáng tạo ra
con người và thế giới. Phật giáo cho rằng sự vật và con người được cấu thành từ các
yếu tố vật chất và tinh thần. Các sự vật hiện tượng thế giới nằm trong quá trình liên
hệ, vận động, biến đồi không ngừng. Nguyên nhân của sự vận động, biến đổi nằm
trong các sự vật. Đó là quan điểm biện chứng về thế giới tuy còn mọc mạc chất phát
nhưng rất đáng trân trọng. Và đó cũng là quan điểm duy vật biện chứng về thế giới.
1.1.3.2. Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan
Nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết
“Tứ Diệu Đế” (Tứ thánh đế – Catvary Arya Satya) tức là 4 chân lý tuyệt diệu đòi
hỏi mọi người phải nhận thức được. Tứ diệu đế là:
* Khổ đế:
Chân lí về sự khổ, cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não,
không trọn vẹn, cuộc đời con người là một bể khổ. Phật xác nhận đặc tướng của
cuộc đời là vô thường, vô ngã và vì vậy mà con người phải chịu khổ. Có 8 nỗi khổ
là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương nhau phải xa
nhau), oán tăng hội (ghét nhau phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà
không đạt được) và ngũ thụ uẩn (do 5 yếu tố tạo nên con người).
Như vây, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của

5. Duyên lục nhập: là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác
quan cảm giác, lúc đó thân sẽ sinh ra sáu cửa là: nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân để thiêu
hủy, đón nhận.
6. Duyên xúc: là sự tiếp xúc của thế giới xung quanh sinh ra cảm giác. Đó là
sắc, thính, hương vị, xúc và pháp khi tiếp xúc, đụng chạm vào.
7. Duyên thụ: là sự cảm thụ, sự nhận thức khi thế giới bên ngoài tiếp xúc với
lục căn sinh ra cảm giác.
8. Duyên ái: là yêu thích mà nảy sinh ham muốn, dục vọng trước sự tác động
của thế giới bên ngoài.
9. Duyên thủ: do yêu thích quyến luyến, không chịu xa lìa, rồi muốn chiếm
lấy, giữ lấy không chịu buông ra.
10. Duyên hữu: cố để dành, tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.

18


11. Duyên sinh: sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
12. Duyên lão tử: khi đã sinh thì xác thân phải tiêu hoại mỏi mòn, trẻ rồi già,
ốm đau rồi chết.
Thập nhị nhân duyên có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung
đều cho rằng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm duyên cho
cái kia, cái này là quả của cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau. Cũng có lời giải
thích là 12 yếu tố tích luỹ đưa đến cái khổ sinh tử hiện tại mà yếu tố căn đế là ái và
thủ, nghĩa là tham lam, ích kỷ, còn gọi là ngã chấp. Mười hai nguyên nhân và kết
quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nổi khổ đau nhân loại.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không
thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô
thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng.
Chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng mình. Hay
nói cách khác, tùy theo cách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay

chân chính để đạt sự diệt khổ dẫn đến niết bàn gọi là “Bát chính đạo”. Bát chính đạo
bao gồm:
1. Chính kiến: hiểu biết đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ
diệu đế và giáo lí vô ngã.
2. Chính tư duy: suy nghĩ luôn có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa
của bốn chân lí một cách không sai lầm.
3. Chính ngữ: nói năng phải đúng đắn, không nói dối hay nói phù phiếm.
4. Chính nghiệp: giữ nghiệp đúng đắn, tránh phạm giới luật, không làm việc
xấu, nên làm việc thiện.
5. Chính mệnh: giữ ngăn dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên quan
đến sát sinh.
6. Chính tinh tiến: cố gắng nổ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để phát
triển nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.
7. Chính niệm: tâm niệm luôn tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát, luôn tỉnh
giác trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý.
8. Chính định: kiên định, tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về tứ điệu đế, vô
ngã, vô thường, tâm ý đạt bốn định xuất thế gian.
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vô minh, đạt

20


tới sự giải thoát, nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt, chấm
dứt sinh tử luân hồi.
Ngoài ra Phật giáo còn đưa ra 5 đều nhằm răn đe đem lại lợi ích cho con người
và xã hội. Chúng bao gồm: bất sát (không sát sinh), bất dâm (không dâm dục), bất
vọng ngữ (không nói năng thô tục, bậy bạ), bất âm tửu (không rượu trà) và bất đạo
(không trộm cướp).
Như vậy, Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, có yếu tố duy vật và tư
tưởng biện chứng của thế giới. Phật giáo khuyên con người suy nghĩ thiện và làm

đoàn và các vị tăng này nhờ đó mà đến truyền bá Đạo Phật vào các dân tộc ở Đông
Nam Á.
Ấn Độ là một bán đảo, cũng như bán đảo Đông Dương nhưng là một bán đảo
khổng lồ, cả một tiểu lục địa. Từ xa xưa trước công nguyên, thương nhân Ấn Độ đã
giao thương với các nước Ả rập, các nước ven biển Địa Trung Hải và nhất là với đế
quốc La Mã, tiêu thụ rất nhiều vàng ngọc, châu báu, hương liệu, lụa là, trầm quế…
Để có đủ hàng cung cấp cho thị trường phương Tây, thương nhân Ấn Độ đống
thuyền theo gió mùa Tây Nam đi về phía Đông Nam Á, đến Mã Lai, quần đảo Nam
Dương, vượt eo biển Malacca vào biển Đông, đến Việt Nam, rồi đến Trung Hoa,
Nhật Bản. Khi đi thì lựa theo gió mùa Tây Nam, khi về thì phải chờ tới sang năm,
theo mùa gió Đông Bắc. Ròng rã một năm ở lại, đủ thời giờ cho họ buôn bán, và
ảnh hưởng dần dần, sâu đậm đến các dân tộc địa phương trên mặt sản xuất, văn hóa,
sinh hoạt tôn giáo. Lịch sử chính thức xác nhận năm 240 trước Tây lịch, Mahodacon vua A dục (Asoka) đã đưa Đạo Phật vào Việt Nam.
Dưới thời vua A-dục trị vì tại Ấn Độ (273 – 232 TCN), nhờ sự ủng hộ của nhà
vua nên đạo Phật đã được truyền đi nhiều xứ sở bên ngoài Ấn Độ. Các thương nhân
người Ấn theo đường biển đã đến Giao Chỉ buôn bán và mang theo đạo Phật mới
mẻ đến xứ này. Sau đó đến lượt các tăng sĩ người Ấn tới đây truyền đạo, góp phần
lập ra trung tâm đạo Phật tại Luy Lâu (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh, Việt Nam), một trong những trung tâm lớn nhất của đạo Phật tại phương
Đông đầu Công nguyên cùng với hai trung tâm Lạc Dương và Bành Thành (nay
thuộc Trung Quốc).
Tư liệu trong Lĩnh Nam Chính Quái cho biết một dữ kiện chứng tỏ sự có mặt
của đạo Phật vào đời Hùng Vương thứ 3 (triều đại thứ 18 Vua Hùng kể từ trước

22


công nguyên 2879-258). Đó là truyện “Nhất Dạ Trạch”, chuyện kể Tiên Dung, con
gái vua Hùng Vương thứ 3 lấy Đồng Tử. Đồng Tử và Tiên Dung lập phố xá buôn
bán giao thiệp với người nước ngoài. Một hôm Đồng Tử theo một khách buôn ngoại

Nam qua con đường bộ hay còn gọi là con đường tơ lụa con đường này nối liền
Đông Tây, phát xuất từ vùng Đông Bắc Ấn Độ, Assam hoặc phía Trung Á, một
nhánh của đường tơ lụa đi từ Châu Âu qua các vùng thảo nguyên và vùng sa mạc ở
Trung Á tới Lạc Dương bằng phương tiện lạc đà. Các con đường bộ không thiếu
nhưng vất vả và khó nhọc hơn. Trước hết là có những con đường vừa thủy vừa bộ
khá tiện lợi. Thay vì đi vòng xuống eo biển Malacca, xa về phía Nam, thương nhân
Ấn Độ có thể chuyển hàng hóa qua eo biển Kra và bán đảo Mã Lai, theo những
tuyến đường bộ tiện lợi, có thể vượt vài giờ, nối liền biển nọ đến biển kia.Từ Nam
Ấn, thương nhân Ấn Độ có thể dùng thuyền không lớn vượt thủy đạo hẹp giữa
Andaman và Nicobar, hoặc là quá xuống phía Nam, thủy đạo giữa Nicobar và
Achin. Tuyến đường thứ hai dẫn tới điểm Kadah. Tại hai điểm này, các nhà khảo cổ
học đã khai quật được nhiều đồ vật cổ thuộc nền văn minh Ấn Độ thời xưa.
Cũng có thể các thương nhân và tăng sĩ qua vùng Tây Tạng và các triền sông
Mekong, sông Hồng, sông Đà mà vào Việt Nam. “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” (Hà
Nội, 1988) có nói rõ: “Các thương nhân xuất phát từ Trung Ấn có thể dùng tuyến
đường bộ ngang qua đèo Ba Chùa và theo sông Kanburi mà xuống Châu Thổ
Mênam, bằng tuyến đường hiện nay vẫn nối liền cảng Moulmein với thành phố
Raheng, nằm trên một nhánh của con sông Mênam (…) chính tuyến đường này dẫn
tới vùng Bassak ở trung lưu sông Mekong, địa bàn của vương quốc Kambijan.
Vương quốc này có thể là do những di dân Ấn Độ thành lập trước công nguyên. Rất
có thể các tăng sĩ Ấn Độ vào đầu công nguyên đã theo con đường này mà đến đất
Lào, rồi từ đây vượt Trường Sơn sang Thanh Hóa hay Nghệ An”. Xa về phía bắc,
thì con đường nối Ấn Độ với Nam Trung Quốc ngang qua Assam, thượng Miến
Điện, và Vân Nam. Tuyến đường này hình như đã được sử dụng từ thế kỷ II và
thậm chí trước đó nữa.
Những dữ kiện về con đường biển và con đường bộ có liên quan đến sự giao
lưu của Việt Nam tuy chưa nhiều chứng minh có những chứng tích mà lịch sử còn
để lại, dù lịch sử truyền miệng hay thành văn, theo lịch sử Phật giáo Việt Nam thì
vào thế kỷ thứ II trước Tây lịch, vua Ấn Độ Asoka sau cuộc đại hội kết tập kinh


Nam. Đạo Phật thời này cũng không là ngoại lệ, đã phát triển đến đỉnh cao và tham
dự vào nhiều sự kiện hệ trọng của đất nước. Khởi đầu là Đinh Tiên Hoàng với việc

25


lập ra chức tăng thống – người đứng đầu phật giáo của đất nước trong lịch sử.
Như ta đã thấy, Phật Giáo Việt Nam của thế kỷ thứ V chỉ còn ghi lại hai thiền
sư là Đạt Ma Đề Bà và Huệ Thắng. Thế kỷ thứ VI ghi lại hai thiền sư Việt Nam:
Quán Duyên và Pháp Thiền. Chính trong thế kỷ này mà thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi
đến Việt Nam. Ba thế kỷ tiếp theo, thế kỷ VII, VIII và IX là ba thế kỷ thuộc nhà
Đường cai trị, đến thế kỷ X thì Việt Nam mới bắt đầu giành được quyền tự chủ.
Chính trong thế kỷ này Đạo Phật mới thực sự hưng thịnh và có những đóng góp tích
cực cho đất nước. Năm 971 vua Đinh Tiên Hoàng định giai cấp cho tăng sĩ và ban
chức tăng thống cho Thiền sư Ngô Chân Lưu thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông, và
ngài Khuông Việt Thái Sư, chính thức tiếp nhận Phật Giáo làm nguyên tắc chỉ đạo
tâm linh cho chính sự. Cũng chính trong thế kỷ này vua Lê Đại Hành đã mời thiền
sư Pháp Thuận và thiền sư Vạn Hạnh của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi làm cố vấn
chính sự. Các thiền sư Khuông Việt, Pháp Thuận và Vạn Hạnh cũng đã tiếp tục trợ
giúp vua Lý Thái Tổ trong thế kỷ kế tiếp.
Nhà Lý ra đời đã đưa đạo Phật lên hàng quốc đạo, nhiều triều vua nối tiếp
nhau đã thực hiện rất nhiều Phật sự, không chỉ góp phần phát triển việc tu học mà
còn qua đó phát triển một nền văn hóa riêng của Đại Việt khác biệt với Trung Hoa.
Một dấu ấn quan trọng thời này là việc khai sinh Thiền phái Thảo Đường. Tuy
nhiên, vì khuynh hướng thiên trí thức và văn chương, thiền phái Thảo Ðường không
cắm rễ được trong quần chúng mà chỉ ảnh hưởng đến một số trí thức có khuynh
hướng văn học. Thiền Uyển Tập Anh tuy có ghi lại tên họ 19 vị thuộc thiền phái
Thảo Ðường. Đạo Phật thời nhà Lý có nhiều ảnh hưởng không chỉ với dân thường
mà cả vua quan. Có chín trên 19 vị của Thiền phái Thảo Đường là cư sĩ mà phần
lớn là vua quan, trong đó có ba vị vua là Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông, và Lý Cao


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status