Các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt theo bộ luật hình sự năm 1999 (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn xét xử c - Pdf 33

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THÚY HỒNG

CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH
CHIẾM ĐOẠT
THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
(TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA NGÀNH TÕA ÁN HÀ NỘI GIAI
ĐOẠN 2007 - 2012)

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN


HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ minh hoa và các trích dẫn trong luận
văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Thúy Hồng

1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 ................................... 23
1.3.

QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ
TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC.... 34


1.3.1. Bộ luật hình sự của Trung Quốc ........................................................ 34
1.3.2. Bộ luật hình sự của Liên bang Nga .................................................... 39
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH
CHIẾM ĐOẠT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ................................ 46
2.1.

CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ ĐẶC TRƢNG CHUNG CỦA CÁC
TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT ... 46

2.1.1. Khách thể của tội phạm ...................................................................... 47
2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm ............................................................ 50
2.1.3. Mặt chủ quan của tội phạm ................................................................ 54
2.1.4. Chủ thể của tội phạm.......................................................................... 56
2.2.

PHÂN BIỆT CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM
ĐOẠT VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH
CHIẾM ĐOẠT THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 ................... 56

2.3.


3.2.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT ..................... 93

3.3.

NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ
HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...................................................................... 96

3.3.1. Nhóm giải pháp về tổ chức cán bộ và chuyên môn nghiệp vụ .......... 96
3.3.2. Nhóm giải pháp về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ............ 98
KẾT LUẬN .................................................................................................. 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 101


DANH MỤC CÁC BẢNG
Stt
1

Số hiệu
bảng
Bảng 2.1.

Tên bảng
Tổng kết tình hình xét xử các loại án của ngành Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội giai đoạn 2007 – 2012

của công dân, đƣợc ghi nhận tại Điều 32 Hiến pháp năm 2013 – Đạo luật có
giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Quyền đó còn
đƣợc ghi nhận cụ thể hơn trong các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp
luật trên mọi lĩnh vực nhƣ: hình sự, dân sự, kinh tế…
Trong pháp luật dân sự, tài sản và quyền sở hữu tài sản là một trong số
những vấn đề quan trọng, đƣợc quy định cụ thể tại Phần thứ hai “Tài sản và
quyền sở hữu” với 7 Chƣơng và 118 điều của Bộ luật dân sự năm 2005.
Trong pháp luật hình sự, quyền sở hữu đƣợc bảo hộ thông qua 13 điều
luật (từ Điều 133 đến Điều 145) thuộc Chƣơng XIV “Các tội phạm xâm
phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự, là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ
quyền sở hữu hợp pháp của Nhà nƣớc, tổ chức và công dân. Cùng với tiến
trình xây dựng đất nƣớc và trƣởng thành, pháp luật hình sự về vấn đề sở hữu
từng bƣớc đƣợc thiết lập và ngày càng hoàn thiện, đi vào cuộc sống và phát
huy tác dụng của nó. Tuy nhiên, sự phát triển của nó không thể tách rời với
sự phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa và chịu sự chi phối bởi đặc điểm lịch
sử của đất nƣớc và thế giới. Bởi vì pháp luật của mỗi nƣớc phản ánh sự phát
triển của đất nƣớc đó.
Trong bối cảnh hiện tại, đất nƣớc ta đang tiến hành công cuộc đổi mới
và hội nhập quốc tế bƣớc đầu có những chuyển biến và đạt đƣợc những
thành tựu về kinh tế, văn hóa, xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của

1


ngƣời dân từng bƣớc đƣợc nâng cao. Bên cạnh đó, mặt trái của nền kinh thị
trƣờng mang lại, đó là tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp,
nhiều loại tội phạm mới xuất hiện nhƣ tội phạm công nghệ cao, một số loại
tội phạm có chiều hƣớng gia tăng nhƣ tội phạm về ma túy; tội phạm về môi
trƣờng, tội phạm xâm phạm sở hữu… gây thiệt hại lớn về ngƣời, tài sản cho
Nhà nƣớc, tổ chức và công dân.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về các tội xâm phạm sở hữu không có
tính chất chiếm đoạt theo Luật hình sự Việt Nam Nhƣ: Khái niệm, đặc điểm
của các tội phạm xâm phạm sở hữu; Đặc điểm các tội xâm phạm sở hữu
không có tính chất chiếm đoạt; Cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm sở
hữu không có tính chiếm đoạt.
- Phân tích, đánh giá sâu sắc thực trạng xét xử các tội xâm phạm sở hữu
không có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Chỉ ra đƣợc những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả xét xử với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, cũng nhƣ các quan điểm của
Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, về chính sách hình
sự, vấn đề cải cách tƣ pháp theo Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày
26/5/2005 và Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 của Bộ chính trị.
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể và
đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: Phƣơng pháp thống kê; phƣơng pháp
phân tích và tổng hợp các số liệu dƣa trên bản án, quyết định và số liệu thống

4


kê hàng năm của các cấp Tòa án; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu các quy
định của pháp luật nhằm tìm ra những điểm mới trong quá trình nghiên cứu.
5. Những điểm mới của luận văn và đóng góp của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề chung về các tội xâm phạm sở hữu không có
tính chất chiếm đoạt trong Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm
phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện các quy định các tội xâm phạm sở
hữu không có tính chiếm đoạt trong Bộ luật hình sự năm 1999 và nâng cao
hiệu quả áp dụng.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu không
có tính chiếm đoạt
Ở bất kỳ xã hội nào cũng tồn tại những cách thức nhất định để chiếm
giữ, làm chủ của cải vật chất và trong quá trình thực hiện những cách thức đó
xuất hiện quan hệ giữa ngƣời với ngƣời đối với những của cải vật chất đó.
Mối quan hệ đó là quan hệ sở hữu.
Quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội xuất hiện, tồn tại và phát triển nhƣ
một tất yếu khách quan trong đời sống xã hội loại ngƣời, là hình thức xã hội
của sự chiếm hữu của cải vật chất. Nó đƣợc luật hoá hành quyền sở hữu.
Theo Điều 164 Bộ Luật dân sự năm 2005 thì “quyền sở hữu bao gồm

dân sự, hình sự, kinh doanh thƣơng mại...
Trong pháp luật hình sự, quyền sở hữu tài sản đƣợc bảo hộ thông qua
các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam tại chƣơng “Các tội phạm xâm
phạm sở hữu”. Và quyền sở hữu ở đây là quyền sở hữu về tài sản mà không
phải quyền sở hữu công nghiệp hay sở hữu trí tuệ. Vì vậy mọi hành vi gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu là những hành vi
xâm phạm các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của chủ sở hữu.
Tuy nhiên, hành vi phạm tội về sở hữu có thể xâm phạm cả ba quyền năng
thuộc quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu nhƣ tội cƣớp tài sản, trộm cắp
tài sản… nhƣng cũng có tội phạm chỉ xâm hại một trong các quyền năng

8


thuộc quyền sở hữu nhƣ tội chiếm giữ trái phép tài sản, tội sử dụng trái
phép tài sản…
Đối với một số tội, tuy có hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhƣng
không phải là tội xâm phạm sở hữu và không đƣợc các nhà làm luật quy định
ở chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu”. Điều này xuất phát từ bản chất của
hành vi phạm tội là ngoài việc xâm phạm quan hệ sở hữu, hành vi này còn
đồng thời xâm phạm quan hệ xã hội khác và sự xâm phạm này mới thể hiện
đƣợc đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thì trong trƣờng
hợp đó khách thể của tội phạm không phải là quan hệ sở hữu. Ví dụ nhƣ hành
vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức qua đó xâm phạm
quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức đó.
Nhƣ vậy, hành vi nhƣ thế nào bị coi là tội phạm xâm phạm sở hữu?
Hiện có rất nhiều quan điểm xung quanh vấn đề này nhƣ:
Theo PGS. TS. Nguyễn Văn Huyên: Các tội xâm phạm sở hữu là hành
vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định tại Chƣơng XIV Bộ luật hình sự, do
ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm

hay không. Đặc điểm “tuổi chịu trách nhiệm hình sự” có mối quan hệ chặt chẽ
với năng lực trách nhiệm hình sự và lỗi. Bởi lẽ, một ngƣời đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự thì thông thƣờng sẽ có năng lực trách nhiệm hình sự (trừ
trƣờng hợp bị bệnh tâm thần hoặc bệnh lý khác làm mất khả năng nhận thức
và điều khiển hành vi), nghĩa là ngƣời đó có khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi theo quy định của pháp luật hình sự, và khi ngƣời đó thực hiện
tội phạm thì mới có lỗi. Nếu tại thời điểm chủ thể của hành vi thực hiện hành
vi ngây thiệt hại về tài sản cho ngƣời khác mà ngƣời đó chƣa đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự hoặc không có năng lực trách nhiệm hình sự thì chủ thể
của hành vi không có lỗi, vì thế không phải là tội phạm. Vì vậy không thể
thiếu đặc điểm này trong khái niệm tội phạm nói chung cũng nhƣ trong khái
niệm các tội xâm phạm sở hữu nói riêng.

10


Từ những phân tích nêu trên, có thể đƣa ra khái niệm về các tội xâm
phạm sở hữu nhƣ sau:
Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội đƣợc
quy định trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự và
đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi, xâm phạm đến
quyền sở hữu tài sản của Nhà nƣớc, cơ quan, tổ chức và của công dân.
Căn cứ vào tính chất của hành vi khách quan xâm hại đến các quyền
năng trong quyền sở hữu đối với tài sản, các tội xâm phạm sở hữu đƣợc chia
làm 2 nhóm:
+ Các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt đƣợc quy định từ Điều
133 đến Điều 140.
+ Các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt đƣợc quy định từ
Điều 141 đến Điều 145.
Theo đó, các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt là những tội xâm

tính chiếm đoạt nhƣng dù thuộc nhóm tội nào thì hành vi phạm tội đối với các
tội này đều có chung bản chất đó là xâm phạm sở hữu nên đều đƣợc quy định
trong chƣơng “Các tội xâm phạm sở hữu”. Do đó, các tội xâm phạm sở hữu
không có tính chiếm đoạt cũng có các đặc điểm chung của các tội xâm phạm
sở hữu và có đặc điểm đặc trƣng riêng của nhóm tội này. Cụ thể nhƣ sau:
Một là , khách thể của các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm
đoạt là quan hệ sở hữu tài sản (chỉ xâm phạm quan hệ sở hữu tài sản mà
không xâm phạm đến quan hệ nhân thân nhƣ một số tội xâm phạm sở hữu có
tính chiếm đoạt là tội cƣớp tài sản, cƣớp giật tài sản hay bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản…).
Theo quy định của Bộ Luật dân sự năm 2005 thì quyền sở hữu tài sản
đƣợc hợp thành bởi quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Trong khi
các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt có hành vi xâm phạm cả ba
quyền năng đối với tài sản của chủ sở hữu tài sản gồm quyền sử dụng, quyền

12


chiếm hữu và quyền định đoạt tài sản nhƣ tội cƣớp tài sản, tôi trộm cắp tài sản
… thì đối với các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, có ba tội là
tội hủy hoại hoặc cố ý làm hƣ hỏng tài sản, tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nƣớc và tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng
đến tài sản là hành vi phạm tội xâm phạm cả ba quyền năng của chủ sở hữu,
còn lại hai tội là tội chiếm giữ trái phép tài sản và tội sử dụng trái phép tài
sản, hanh vi phạm tội chỉ xâm phạm quyền chiếm hữu hay quyền sử dụng là
một trong ba quyền năng đối với tài sản của chủ sở hữu.
Hai là, đối tƣợng tác động của các tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung
và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt nói riêng là tài sản.
Tài sản, theo Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005, bao gồm: Vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản. Nhƣng trong các điều luật của Bộ luật hình sự

ngoài dấu hiệu hành vi thì dấu hiệu hậu quả cũng nhƣ mối quan hệ nhân quả
là những dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của các tội này. Bởi lẽ,
nếu ngƣời thực hiện hành vi gây ra thiệt hại chƣa đến mức Bộ luật hình sự
quy định đối với tội phạm cụ thể thì hành vi đó chƣa bị coi là tội phạm. Mặt
khác, ngƣời có hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự về những thiệt hại về tài sản do chính hành vi của mình
gây ra. Nếu ngƣời có hành vi không gây thiệt hại về tài sản, nghĩa là giữa
hành vi và hậu quả không có mối quan hệ nhân quả thì ngƣời thực hiện hành
vi không phải chịu trách nhiệm hình sự về thiệt hại đó. Vì vậy việc xác định
quan hệ nhân quả là rất cần thiết, là cơ sở để quy trách nhiệm hình sự đối với
ngƣời phạm tội.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định các tội phạm xâm phạm sở hữu
không có tính chiếm đoạt
Cũng nhƣ các chế định tội phạm khác, việc quy định các tội xâm phạm
sở hữu không có tính chiếm đoạt trong Bộ luật hình sự Việt Nam là cần thiết
và có ý nghĩa quan trọng, nhất là trong giai đoạn xây dựng Nhà nƣớc pháp
quyền hiện nay. Ý nghĩa của nó đƣợc thể hiện dƣới các khía cạnh sau:

14


Thứ nhất, quyền sở hữu tài sản đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp, thể hiện
rõ đƣờng lối quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta luôn tôn trọng và bảo vệ
cũng nhƣ không phân biệt các hình thức sở hữu. Việc quy định các tội phạm
xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt trong bộ luật hình sự là sự cụ thể
hóa quy định của Hiến pháp trong pháp luật hình sự, là cơ sở pháp lý quan
trọng để bảo vệ quyền sở hữu về tài sản của Nhà nƣớc, của cơ quan, của tổ
chức và công dân khỏi sự xâm hại của tội phạm. Do đó, tất cả các hành vi
xâm phạm một trong ba quyền năng hoặc xâm phạm đồng thời ba quyền năng
hợp thành quyền sở hữu tài sản gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và

phạm này còn có ý nghĩa trong việc giáo dụng ý thức tôn trọng và tuân thủ
pháp luật về quyền sở hữu tài sản nhằm nâng cao ý thức pháp luật và ý thức
chống và phòng ngừa tội phạm nói trên. Để làm đƣợc điều này, cần phải
tăng cƣờng phổ biến, giao dục pháp luật một cách sâu rộng về loại tội phạm
này để ngƣời dân hiểu, tự giác tuân thủ pháp luật và có ý thức trong việc đấu
tranh chống tội phạm.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
NĂM 1945 ĐẾN TRƢỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM
1999 QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU KHÔNG CÓ TÍNH
CHIẾM ĐOẠT
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
Trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945, nƣớc ta là một nƣớc thuộc địa
nửa phong kiến với ách đô hộ của thực dân Pháp và triều đình Nhà Nguyễn
theo chính thể quân chủ chuyên chế - bộ máy tay sai của thực dân Pháp. Bởi
vậy, nƣớc ta là một thuộc địa không có hiến pháp.
Sau khi đất nƣớc đƣợc thành lập, trong phiên họp Chính phủ ngày
3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Trước ta đã bị chế độ quân chủ
chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên

16


nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân
chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ”. Tuy nhiên, trong tình thế nhà
nƣớc cộng hoà vừa mới đƣợc thành lập lại phải đối mặt với thù trong giặc
ngoài, nền kinh tế kiệt quệ, trong khi đó kinh nghiệm lập pháp còn non kém,
các chuyên gia pháp luật hầu nhƣ không có, việc duy trì áp dụng pháp luật
của chế độ cũ là giải pháp hợp lý và tối ƣu nhất, đảm bảo cho mọi hoạt động
của chính quyền và ngƣời dân trong khuôn khổ của pháp luật, không phải áp

của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại Điều 12 - Hiến pháp năm 1946 đã
ghi nhận: “Quyền tƣ hữu tài sản của công dân Việt Nam đƣợc bảo đảm”. Việc
qui định nhƣ vậy, đã tạo nên cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền sở hữu tài sản của
công dân, là điều kiện ổn định sinh hoạt vật chất của mỗi con ngƣời.
Năm 1955, Thủ tƣớng chính phủ ban hành Thông tƣ 442/TTg ngày
19/01/1955 hƣớng dẫn các Tòa án trừng trị một số tội xâm phạm sở hữu nhƣ
trộm cắp, cƣớp của, lừa đảo, bội tín... Tuy nhiên, ở đó, các tội phạm xâm
phạm xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt (tội hủy hoại tài sản, tội
chiếm giữ trái phép tài sản, tội sử dụng trái phép tài sản …) chƣa đƣợc quy
định thành từng điều luật cụ thể.
Cũng trong giai đoạn này, Nhà nƣớc cũng còn ban hành Sắc lệnh số
267/SL ngày 15-6-1958 trừng trị những âm mƣu và hành động phá hoại tài
sản của Nhà nƣớc, của hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện
chính sách kế hoạch của Nhà nƣớc về xây dựng kinh tế và văn hoá. Điều 2
Sắc lệnh 267 quy định: “Người phạm các tội trộm cắp, lãng phí, làm hỏng,
huỷ hoại, cướp bóc tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã, của nhân dân với
mục đích phá hoại sẽ bị xử phạt từ 5 năm đến 20 năm tù” [14, Điều 2].
Bên cạnh đó, Điều 10 Sắc lệnh 267 cũng quy định:
Kẻ nào vì thiếu tinh thần trách nhiệm mà trong công tác
mình phụ trách đã để lãng phí, để hƣ hỏng máy móc, dụng cụ,
nguyên vật liệu, để lộ bí mật nhà nƣớc, để xảy ra tai nạn, v. v...

18



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status