Luận văn tốt nghiệp thực trạng xóa đói giảm nghèo ở huyện sóc sơn, TP hà nội kinh nghiệm và giải pháp - Pdf 33

LUẬN VĂN:

Thực trạng xóa đói giảm nghèo ở
huyện Sóc Sơn, TP. Hà Nội - Kinh
nghiệm và giải pháp


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đói nghèo là một phạm trù lịch sử có tính tương đối ở từng thời kỳ và ở mọi quốc gia.
Hiện nay, trên thế giới có khoảng 1,3 tỷ người đang sống trong cảnh đói nghèo, kể cả nước
có thu nhập cao nhất thế giới vẫn có một tỷ lệ dân số sống trong tình trạng nghèo nàn cả về
vật chất và tinh thần. Tỷ lệ người nghèo ở mỗi nước cũng khác nhau, đối với nước giàu thì
tỷ lệ đói nghèo nhỏ hơn các nước kém phát triển song khoảng cách giàu nghèo lại lớn hơn
rất nhiều. Trong xu thế hợp tác và toàn cầu hoá hiện nay thì vấn đề xoá đói giảm nghèo
(XĐGN) không còn là trách nhiệm của một quốc gia mà đã trở thành mối quan tâm của cả
động đồng Quốc tế. Việt Nam là một trong những nước có thu nhập thấp nhất thế giới, do
đó chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN là một chiến lược lâu dài cần được sự quan tâm
giúp đỡ của cộng đồng quốc tế kết hợp chặt chẽ với tinh thần tự lực, tự cường, đoàn kết của
cả dân tộc để đẩy lùi đói nghèo tiến kịp trình độ phát triển kinh tế của các nước tiên tiến.
Chúng ta đều biết đòi nghèo là lực cản trên con đường tăng trưởng và phát triển của Quốc
gia, nghèo khổ luôn đi liền với trình độ dân trí thấp, tệ nạn xã hội, bệnh tật phát triển, trật tự
an ninh chính trị không ổn định…
Trong thời kỳ nước ta đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá
(CNH-HĐH), phát triển kinh tế thị trường như hiện nay, vấn đề XĐGN càng khoá khăn và
phức tạp hơn so với thời kỳ trước. Muốn đạt được hiệu quả thiết thực nhằm giảm nhanh tỷ
lệ đói nghèo, nâng cao mức sống cho người dân thì mỗi địa phương, mỗi vùng phải có
chương trình XĐGN riêng phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của mình nhằm thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Sóc Sơn là huyện ngoại thành có diện tích tự nhiên bàng 1/3 diện tích của Hà Nội,

trình XĐGN của huyện.
4.2.3. Phương pháp xử lý số liệu thống kê
Việc xây dựng hệ thống bảng biểu, hệ thống chỉ tiêu, tính toán số liệu được thực hiện
trên chương trình phần mềm Excel làm cơ sở cho những kết luận phục vụ mục tiêu nghiên
cứu của đề tài.
4.2.4. Phương pháp dự báo
Dùng phương pháp dự báo để có thể đưa ra một phương án có tính khả thi trong tương
lai gần cho một đơn vị sản xuất là điều cần thiết. Phương pháp dự báo phải dựa vào xu
hướng phát triển của xã hội hiện tại và tương lai, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương nghiên cứu nhằm nâng cao mức sống cho người dân hay dự báo một tỷ lệ đói
nghèo cho địa bàn.
4.2.5. Phương pháp phân tích kinh tế


- Để phân tích thực trạng đói nghèo của huyện chúng tôi sử dụng các phương pháp:
thống kê mô tả để mô tả thực trạng, thống kê so sánh để so sánh mức sống trung bình của
các hộ nghèo với các loại hộ khác mức đầu tư cho sản xuất giữa các loại hộ và phân tích số
bình quân để đánh giá khả năng thoát nghèo của các hộ trong tương lai.
- Căn cứ vào thực trạng đói nghèo của huyện, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội huyện Sóc Sơn đến năm 2010 để đưa ra những định hướng và giải pháp XĐGN đến
năm 2010-2015 cho huyện Sóc Sơn.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, Luận văn được chia thành 3 chương:
- Chương 1: Một số vần đề lý luận và thực tiễn về xóa đói giảm nghèo
- Chương 2: Thực trạng xóa đói giảm nghèo ở huyện Sóc Sơn
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp xóa đói giảm nghèo ở huyện Sóc Sơn
Chương 1
Một số vần đề lý luận và thực tiễn
về xóa đói giảm nghèo

1.1. Khái niệm và tiêu chí đánh giá đói nghèo

1.1.1.2. Chỉ tiêu và chuẩn nghèo
Khi đánh giá nước giàu, nghèo trên thế giới, giới hạn đói nghèo được biểu hiện bằng
chỉ tiêu chính là thu nhập quốc dân bình quân đầu người (GDP). Tuy nhiên, một số nhà
nghiên cứu cho rằng chỉ căn cứ vào thu nhập thì chưa đủ căn cứ để đánh giá, vì vậy bên
cạnh chỉ tiêu này tổ chức hội đồng phát triển Hải ngoại (ODC) đưa ra chỉ số chất lượng cuộc
sống (PQLI) để đánh giá, bao gồm 3 chỉ tiêu cơ bản sau:
- Tuổi thọ
- Tỷ lệ xoá mù chữ
- Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh
Gần đây tổ chức UNDP đưa thêm chỉ số phát triển con người (HDI) bao gồm 3 chỉ
tiêu:
- Tuổi thọ
- Thu nhập
- Tình trạng biết chữ của ngườu lớn.
Như vậy chỉ tiêu đánh giá nước giàu, nước nghèo của các quốc gia vẫn căn cứ vào chỉ
tiêu thu nhập quốc dân bình quân đầu người là chính. khi kết hợp với các chỉ số PQLI hay
HDI thì chỉ bổ sung cho việc nhìn nhận các nước giàu, nước nghèo chính xác hơn, khách
quan hơn.


Quan niệm của nhiều nước cho rằng hộ nghèo có mức thu nhập bình quân dưới 1/3
mức thu nhập bình quân của toàn xã hội. Với quan niệm này, hiện nay trên thế giới có 1,3 tỷ
người đang sống trong tình trạng nghèo khổ, tức là sống dưới 420USD/người/năm mà Ngân
hàng thế giới đã ấn định.
1.1.2. Quan niệm của Việt Nam
ở Việt Nam có rất nhiều quan điểm đưa ra xung quanh vấn đề khái niệm, chỉ tiêu và
chuẩn mực nghèo đói. Tuy nhiên, các quan điểm tập trung nhất vào khái niệm, chỉ tiêu và
chuẩn mực đói nghèo do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (Bộ LĐTB&XH) ban hành.
1.1.2.1. Khái niệm
Khái niệm về đói nghèo được Bộ LĐTB&XH tách riêng đói và nghèo không khái

1.1.2.3. Xác định chuẩn đói nghèo của Việt Nam
ở Việt Nam để đo tình trạng nghèo đói nhiều địa phương lấy tiêu chuẩn thu nhập bình
quân một khẩu trong 1 năm. Một số nhà kinh tế lấy tiêu thức lương thực bình quân nhân
khẩu, gia đình nào có thu nhập bình quân dưới 30 kg gạo/khẩu/tháng được coi là nghèo.
Một khung hướng khác lại lấy mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định làm chuẩn, người
có mức sống nghèo khổ là người có thu nhập bình quân thấp hơn mức lương tối thiểu. Các
chuẩn mực trên có thể đúng với từng địa bàn cụ thể song không thể áp dụng cho mọi đối
tượng, mọi vùng trên phạm vi cả nước. Vì vậy, để chọn và phân loại hộ nghèo ở Việt Nam
phải xem xét các đặc trưng cơ bản của nó như: Thiếu ăn từ 3 tháng trở lên trong năm, nợ sản
lượng khoán triền miên, vay nặng lãi, con em không có điều kiện đến trường (mù chữ hoặc
bỏ học), thậm chí phải cho con hoặc bản thân đi làm thuê để kiếm sống qua ngày. Nếu đưa
chuẩn mực này ra để xác định thì rất dễ phân biệt hộ nghèo đói ở nông thôn.
Đối với hộ đói: Theo Bộ LĐTB&XH, trong giai đoạn hiện nay nếu thu nhập bình
quân trong hộ đạt dưới 15kg gạo/người/tháng tương ứng với 75.000 đồng/người/tháng là
đói. Mấy năm trước đây ở niềm Bắc, đói thường đi đôi với thiếu cân đối lương thực trên địa
bàn, nhưng hiện nay hiện tượng đói ở một số vùng không phải do thiếu cân đối lương thực trên
địa bàn. Như vậy, người đói là người không có lương thực dự trữ trong nhà và không có tiền để
mua lương thực để sử dụng hàng ngày, mặc dù trên thị trường không thiếu lương thực.
a. Chuẩn đói nghèo chung của cả nước
* Giai đoạn 2001-2005:
Mức chuẩn xác định nghèo đói chung cho các vùng trong cả nước tại Quyết định số:
1143/2000/QĐ-LĐTB&XH ngày 01/11/2000 của Bộ LĐTB&XH quy định theo mức thu
nhập bình quân đầu người thấp hơn mức dưới đây là nghèo.
- Vùng nông thôn, miền núi, hải đảo
- Vùng nông thôn đồng bằng

: 80.000.000đồng/người/tháng

: 100.000.000đồng/người/tháng


chung giai đoạn 2001-2005 được xác định ở hai mức.
- Đối với khu vực thành thị (bào gồm cả thị xã, thị trấn): 170.000 đồng
- Đối với khu vực nông thôn: 130.000 đồng
* Giai đoạn 2006-2010:
Trên cơ sở Quyết định số: 6673/QĐ-UB ngày 28/9/2005 của UBND thành phố Hà Nội
phê duyệt chuẩn nghèo, chuẩn cận nghèo giai đoạn 2006-2010 được xác định:


- Chuẩn nghèo
Đối với khu vực thành thị: thu nhập bình quân từ 350.000 đồng/người/ tháng trở
xuống là hộ nghèo
Đối với khu vực nông thôn: thu nhập bình quân từ 270.000 đồng/người/ tháng trở
xuống là hộ nghèo
- Chuẩn cận nghèo
Đối với khu vực thành thị: thu nhập bình quân từ 350.000 đồng/người/ tháng đến
500.000 đồng/người/tháng là hộ cận nghèo
Đối với khu vực nông thôn: thu nhập bình quân từ 270.000 đồng/người/ tháng đến
400.000 đồng/người/tháng là hộ cận nghèo.
1.2. Sự cần thiết của công tác xoá đói giảm nghèo ở Niệt Nam
1.2.1. Chủ trương chính sách của nhà nước về xoá đói giảm nghèo
1.2.1.1. Chủ trương của nhà nước
Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định chủ trương cơ bản về
XĐGN là: "Thực hiện chương trình XĐGN thông qua những biện pháp cụ thể, sát với tình
hình địa phương, xoá nhanh các hộ đói, giảm mạnh các hộ nghèo. Tiếp tục tăng tổng nguồn
vốn XĐGN, mở rộng các hình thức tín dụng phục vụ người nghèo sản xuất, kinh doanh. Có
chính sách trợ giá nông sản, phát triển việc làm và nghề phụ nhằm tăng thu nhập của các
hộ nông dân. Thực hiện các chính sách xã hội đảm bảo an toàn cuộc sống mọi thành viên
cộng đồng, bao gồm bảo hiểm xã hội đối với người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế,
cứu trợ xã hội những người gặp rủi ro, bất hạnh".
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 đã cụ thể hoá chủ trương trên thành

Việt Nam giảm trung bình hàng năm từ 2-3%. Năm 1992 số người thuộc diện đói nghèo là
20 triệu người chiếm 30% thì đến cuối năm 1998 con số này còn khoảng 12 triệu người
bằng 15,7%. Thực tế cho thấy, trong những năm qua công cuộc XĐGN của Việt Nam đã đạt
được những thành tựu nhất định, tuy nhiên tỷ lệ đói nghèo ở nông thôn Việt Nam, đặc biệt
là các vùng sâu, vùng xa còn khá cao.
Để giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo, tháng 7/1998 Chính phủ chính thức phê duyệt chương
trình mục tiêu quốc gia về XĐGN cho giai đoạn 1998-2000. Không những vậy, để đạt được
mục tiêu giảm tỷ lệ đói nghèo của cả nước xuống còn 10% vào năm 2000 Nhà nước đã triển
khai hàng loạt chương trình: định canh, địng cư và kinh tế mới, phát triển sản xuất nông
nghiệp và phi nông nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng ở các xã khó khăn, khuyến nông-lâmngư, trợ giúp đồng bào dân tộc khó khăn, tín dụng và tiết kiệm cho người nghèo.
Cùng với việc phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN, tháng 7/1998
Chính phủ phê duyệt chương trình 135 hỗ trợ phát triển 1715 xã nghèo đặc biệt khó khăn ở


miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đây là chương trình lớn tác động mạnh mẽ đến công tác
XĐGN. Sau hơn một năm thực hiện hai chương trình 133 và 135 đã tạo ra được kết quả
bước đầu tích cực, cả nước đã định canh định cư cho gần 5.000 hộ, khai hoang mở rộng
diện tích được hơn 1.000 ha, trồng thêm được 2.300 ha rừng mới và 1.738 ha cây ăn quả và
cây công nghiệp. Về tín dụng đã có 1.010 ngàn hộ được vay vốn phát triển sản xuất với tổng
doanh số đạt trên 2.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, hàng loạt công trình cơ sở hạ tầng nông thôn,
đặc biệt ở miền núi, vùng sâu, vùng xa được xây dựng phục vụ sản xuất kinh doanh của
nhân dân.
1.2.2. Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo
1.2.2.1. Thực trạng đói nghèo
Việt Nam được xếp vào nhóm các nước nghèo nhất của thế giới với tỷ lệ hộ đói nghèo
còn khá cao. Theo kết quả điều tra về mức sống dân cư thì tỷ lệ đói nghèo trong giai đoạn
1992-1993 là 58% và trong năm 1998 là trên 37% nếu tính theo tiêu chuẩn nghèo chung của
Ngân hàng thế giới. Theo tiêu chuẩn xác định đói nghèo của Việt Nam thì năm 1992-1993
là 30%, năm 1999 là 13% và trong năm 2000 dự kiến còn khoảng 11%.
Đói nghèo chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn, theo các kết quả khảo sát thì có tới

(NN&CNTP) về tình trạng giàu nghèo trong nông thôn cho thấy: "Nhà ở của hộ nghèo còn
đơn sơ, chỉ có 15,70% số hộ có nhà ngói, 72% số hộ còn ở nhà tranh vách đất, 11,7% số hộ
còn ở lều tạm. Đồ dùng trong sinh hoạt còn qúa thiếu thốn, bình quân mỗi hộ có 1 chiếc
giường gỗ hoặc tre, 0,3 chiếc xe đạp. Tại thời điểm này các hộ nghèo trong số hộ điều tra không
có ti vi, xe máy. Về tư liệu sản xuất, bình quân 10 hộ mới có 01 con trâu hoặc bò, ngay cả cày,
bừa còn thiếu". Kết quả điều tra năm 1998 của Tổng cục Thống kê cho thấy nhóm nghèo đã có
cải thiện về mặt nhà ở rất đáng kể so với năm 1993, nhưng tỷ lệ hộ nghèo ở nhà bán kiên cố
vẫn còn cao (17,75) và (33,51%), nhà tạm. Tuyệt đại các hộ nghèo ở nông thôn hiện còn đang
ở nhà bán kiên cố và nhà tạm.
d. Người nghèo thường dễ bị tổn thương:
Nguy cơ dễ bị tổn thương của người nghèo thể hiện ở chỗ: những khó khăn đột biến,
rủi ro đến với gia đình, những cuộc khủng khoảng xảy ra đối với cộng đồng… thường gây
thiệt hại rất lớn đối với những người đói nghèo, đó là nét đặc trưng rất cơ bản của các xã hội
khác nhau. Những hộ gia đình nghèo chỉ có khả năng trang trải ở mức độ hạn chế, tối thiểu
các chi phí lương thực và nhu cầu thiết yếu khác, họ rất dễ bị tổn thương trước các yếu tố
khác xảy ra, họ thường phải bỏ thêm chi phí không đáng có hoặc bị giảm thu nhập vì khó
tiếp cận các cơ hội của tăng trưởng kinh tế. Đối với hộ nghèo khi có một thành viên của gia
đình bị ốm đau thì đó là một sự cố nghiêm trọng, mà các hộ nghèo thường có người đau yếu
do mức sinh hoạt thấp, vì vậy cuộc sống của các hộ nghèo thường gặp rất nhiều khó khăn.


1.2.2.3. Những ảnh hưởng của nghèo đói đến sự phát triển kinh tế - xã hội
Qua nghiên cứu thực tế và tổng kết các công trình nghiên cứu của các tác giả về XĐGN
chúng ta thấy đói nghèo là một lực cản trên con đường phát triển kinh tế của mỗi vùng cũng
như của các quốc gia. Trên góc độ cá nhân và gia đình thì tình trạng nghèo đói tạo thành một
vòng luẩn quẩn là: Nghèo đói -> trình độ văn hoá thấp -> thu nhập thấp -> ăn uống không đầy
đủ -> sức khoẻ kém -> năng suất lao động thấp -> làm không đủ ăn -> vay mượn, nợ nần chồng
chất -> nghèo đói; cứ quấn lấy những người nghèo mà họ không biết phá vỡ mắt xích nào để
thoát ra được. Trên góc độ vùng hay quốc gia thì vòng luẩn quẩn là:


1,2-1,3 triệu lao động, trong đó kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác và hợp tác xã đã thu hút
90% lao động. Trong điều kiện kinh tế bị giảm sút, Việt Nam đã thực hiện mạnh mẽ hơn các
chính sách bảo đảm xã hội nhất là vấn đề XĐGN, lao động, việc làm, giáo dục đào tạo,
chăm sóc sức khoẻ nhân dân, người tàn tật, trẻ em lang thang cơ nhỡ góp phần ổn định đời
sống cho các đối tượng xã hội.
Tuy nhiên, những thành tựu XĐGN còn thiếu tính bền vững; trong khi đó sự chỉ đạo
và điều hành về công tác XĐGN còn lúng túng, sự phối hợp liên ngành chưa đồng bộ.
1.3. Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo của một số nước, tổ chức quốc tế trên thế
giới và một số địa phương của Việt Nam
1.3.1. Kinh nghiệm của một số tổ chức quốc tế
Cuộc đấu tranh tấn công nghèo đói đang là vấn đề toàn cầu rất cấp bách của xã hội
loài người, là nhiệm vụ quan trọng của tất cả các quốc gia trên thế giới hiện nay. Chính vì
thế, XĐGN trước tiên là thuộc về trách nhiệm của Chính phủ các nước, bên cạnh đó các tổ
chức quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Hiệp hội phát triển
quốc tế (IDA), chương trình phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP) giữ những vai trò quan
trọng hỗ trợ, giúp các quốc gia giảm bớt gánh nặng nghèo đói.
Biện pháp quan trọng được các tổ chức quốc tế thường dùng là chu cấp các khoản vay
có gắn với các điều kiện giải ngân theo các chương trình XĐGN. Đây là một biện pháp trực


tiếp và có nhiều yếu tố tích cực nên hạn chế được lãng phí và tham nhũng của các quan
chức trung gian.
Tiếp theo là những nỗ lực của các quốc gia công nghiệp phát triển, Hội nghị thượng
đỉnh RIO năm 1992 đã đề ra một công ước chung, theo đó viện trợ phát triển cho các quốc
gia nghèo thuộc thế giới thứ 3 cần phải chiếm ít nhất 0,7% tổng sản phẩm xã hội của các
quốc gia công nghiệp phát triển với một mục tiêu đóng góp vào việc giảm số người nghèo
trên thế giới.
Một biện pháp nữa là tập trung vào các giải pháp giãn nợ, giảm nợ đối với những quốc
gia rơi vào cảnh nghèo đói đến nỗi mất khả năng trả nợ. Trong số các sự kiện liên quan đến
việc này, trước hết phải kể đến các hội nghị thường niên của WB và IMF về xử lý nợ cho

9%/năm trong suốt thời kỳ 1962-1988, bình quân GDP/người của Hàn Quốc năm 1988 là
4.127USD. Riêng lĩnh vực nông nghiệp trong thời kỳ đó cũng có tốc độ tăng trưởng khá cao
khoảng 5,3%/năm. Và nếu căn cứ chuẩn nghèo tuyệt đối của Hàn Quốc cho các hộ dân là
525 USD/năm thì tỷ lệ hộ nghèo đói năm đó đã giảm xuống còn 6,5% so với 33,7% năm
1967.
* Thái Lan: Từ những năm 80 đến nay, Thái Lan áp dụng mô hình phát triển chính
sách quốc gia gắn liền với chính sách phát triển nông thôn thông qua việc hình thành và
phát triển xí nghiệp ở làng quê nghèo, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, mở rộng trung
tâm dạy nghề ở nông thôn để giảm bớt nghèo khổ với sự hoạt động của: Ban phát triển nông
thôn (IBIRD), Tổ chức hiệp hội dân số và phát triển cộng đồng (CDA). Theo báo cáo trình
Chính phủ tháng 6/2003 của Uỷ ban quốc gia phát triển kinh tế - xã hội (NESDP) năm 2001
Thái Lan vẫn còn 8,2 triệu người nghèo, 80% số này sống ở nông thôn. Tháng 11/2003
Chính phủ Thái Lan công bố kế hoạch 6 năm xoá đói nghèo, theo đó Thái Lan hướng quan
tâm vào nông nghiệp, nông thôn và thị trường nội địa. Thực hiện chương trình "Mỗi làng
một sản phẩm" Chính phủ đang tìm kênh phân phối, lưu thông hàng hoá giúp nông dân tiệu
thụ sản phẩm. Theo kế hoạch này, bước đầu 8 trong 76 tỉnh được chọn để thí điểm, người
dân tại đó được yêu cầu đăng ký và trình bày hoàn cảnh để các cơ quan chức năng xem xét,
hỗ trợ. Tạm thời, việc giải quyết dự kiến phân theo bảy nhóm: nông dân không có đất,
người không có nhà ở, người làm ăn bất chính, nạn nhân từ những vụ bị lừa đi lao động
nước ngoài, sinh viên hoàn cảnh gia đình khó khăn, người vị vỡ nợ và người thu nhập thấp
thiếu nhà ở.
* ấn Độ: Một chương trình nổi bật trong việc XĐGN của ấn Độ là xây dựng các làng
sinh học trên cơ sở tư tưởng: "Thay vì ban phát lương thực cho người nghèo, Chính phủ và
các tổ chức hãy tạo điều kiện cho mọi người có thể kiếm được miếng bánh hàng ngày của
họ". Chương trình này được thực hiện từ năm 1994 tại 19 làng của PONDICHERI bang


TAMIL NUDU và hiện nay thu hút được 24.000 người (mục tiêu của chương trình này đến
năm 2007 thu hút được 375.000 người), một trong những phương hướng của chương trình
là nông nghiệp sinh thái, nghĩa là các hoá chất vốn là trụ cột của nền nông nghiệp hiện đại

hộ năm 1993 chiếm 20,64% số hộ dân toàn tỉnh giảm xuống còn 21.900 hộ bằng 12,73%
năm 2000 còn 15.000 hộ bằng 8,3%. Kết quả đó đã nói lên sự cố gắng lớn của Đảng bộ và
nhân dân Lâm Đồng trong việc nâng cao mức sống cho hộ nghèo. Song song với việc
khuyến khích và tạo điều kiện làm giàu chính đáng thì việc nâng cao mức sống các hộ
nghèo đã góp phần ngăn chặn sự phân hoá làm cho khoảng cách giàu nghèo hẹp lại để mọi
người trong xã hội đều có cơ hội tham gia xây dựng cuộc sống, xây dựng quê hương.
* Kỳ Anh - Hà Tĩnh:
Huyện Kỳ Anh nằm ở phía Nam tỉnh Hà Tĩnh, trước đây được nhiều người biết đến
bởi sự nghèo nàn, lạc hậu. Gần đây đã có những chuyển biến đáng mừng. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế hàng năm đạt 10-12%, bình quân thu nhập đầu người đạt 3,1 triệu đồng/năm,
tỷ lệ hộ nghèo còn 20,4%, không còn hộ đói. Khi nhìn lại những năm cuối thập niên 90 của
thế kỷ trước tỷ lệ đói nghèo trên địa bàn chiếm hơn 70% số dân. Thời đó, với nền kinh tế
chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, trong khi diện tích canh tác ít, thời tiết khí hậu khắc
nghiệt, cơ sở hạ tầng thấp kém, để đưa nhân dân thoát khỏi đói nghèo thực sự là một thử
thách lớn đối với Đảng bộ, chính quyền địa phương.
Cuộc sống mới được đánh dấu bằng một mốc son khi Huyện uỷ, HĐND, UBND
huyện thống nhất đề ra Nghị quyết về công tác XĐGN vào năm 1993. Bắt tay vào công việc
với đầy khó khăn, huyện tiến hành tổng mức điều tra mức sống của dân, tổ chức cho cán bộ
đi tham quan, học tập kinh nghiệm các mô hình phát triển kinh tế hiệu quả trên cơ sở đó vận
dụng vào thựuc tiễn của địa phương. Huyện từng bước tiếp cận người nghèo, xây dựng một
số mô hình XĐGN và đã tạo được sự ủng hộ của Trung ương, của tỉnh và của các tầng lớp
nhân dân. Từ những kinh nghiệm đúc rút được, huyện tập trung nhiều nguồn lực, tạo điều
kiện về vốn, nâng cao kiến thức làm ăm cho nhân dân, nhất là các hộ nghèo, đồng thời đẩy
mạnh việc nhân rộng mô hình, biểu dương các tập thể, cá nhân làm kinh tế giỏi trong huyện.
Với những kinh nghiệm và bài học có được từ hơn 10 năm nay chính quyền huyện đã
nhận thức sâu sắc công cuộc XĐGN là phải biết phát huy nội lực, khai thác tiềm năng, mở
rộng ngành nghề, đồng thời tranh thủ tốt sự hỗ trợ, đầu tư từ các ngùôn lực bên ngoài. Xuất
phát từ quan điểm đó, huyện đã xây dựng cụ thể các chương trình, mục tiêu, xác định rõ các
vùng kinh tế trọng điểm trên cơ sở thế mạnh của từng vùng, đồng thời tập trung thực hiện
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng kinh tế nông nghiệp, tăng tỷ trọng

(101.000 ha), trong đó đất nông nghiệp chỉ có 15%, đất lâm nghiệp 54% còn lại là đất khác.
Trước những năm 1992 chưa có chính sách giao đất đến hộ, đời sống nhân dân cự kỳ khó
khăn, trình độ dân trí thấp, lương thực không đủ ăn, trong khi đó tỷ lệ tăng dân số vẫn giữ ở
mức 3,6%/năm, trình độ sản xuất thấp, phong tục tập quán lạc hậu, tỷ lệ nghèo đói cao.


Sau những năm đổi mới, ruộng đất và rừng được giao đến hộ và Lục Ngạn đã xác định
được cây trồng nên đã mạnh dạn chuyển từ cây lương thực là chính sang cây ăn quả và cây
lâm nghiệp. Vì vậy tỷ lệ XĐGN trong huyện có tốc độ nhanh hơn, từ 52% năm 1992 xuống
còn 27% năm 1997, đến năm 1998 còn 17,1%. Sau mỗi vụ thu hoạch vải thiều nhân dân có
tiền, ngoài việc đầu tư lại cho mở rộng sản xuất và thâm canh, còn đầu tư xây dựng nhà cửa,
mua sắm ô tô, xe máy và các trang thiết bị cho gia đình. Đến năm 1999 toàn huyện chỉ còn
9-10 hộ nghèo, ước đến năm 2000 chỉ còn 3% hộ nghèo.
1.3.4. Một số kinh nghiệm chung về công tác xoá đói giảm nghèo
Nghèo đói đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu và
đưa ra nhiều hội thảo nhằm làm rõ hơn tác động tiêu cực của đói nghèo đến sự phát triển
kinh tế - xã hội của quốc gia trên thế giới. Đối với thực trạng đói nghèo và các giải pháp
XĐGN của Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu như: Dự
án ngân hàng Grameen của giáo sư Muhamad Yunus trường Đại học Chittagong; Gini và
Lore, Lên Xuân Bá, Chu Tiến Quang, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Xuân Đình- Nghèo đói và
XĐGN ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp Hà Nội 2001, Lương Hồng Quang - văn hoá của
nhóm nghèo ở Việt Nam thực trạng và giải pháp, Nxb văn hoá - thông tin Hà Nội 2001,
Trần Thị Lan Hương - tác động của phân tầng mức sống vào quá trình phát triển văn hoá
nông thôn, Nxb văn hoá thông tin Hà Nội 2000 và nhiều công trình nghiên cứu đã đăng trên
các tạp chí khác.
Mô hình tín dụng của giáo sư Muhamad được thành lập từ 1976, đến nay đã có trên
100 nước tham gia áp dụng mô hình này. Đối với mô hình này thì đối tượng vay của ngân
hàng là những người nghèo nhất ở các khu vực nông thôn của các quốc gia. Phương thức
hoạt động của ngân hàng là thành lập chi nhánh ngân hàng xuống tới các làng, xã và các bộ
ngân hàng phải tiếp xúc trực tiếp với người nghèo bằng cách phỏng vấn, hướng dẫn cách sử

công thức đánh giá bất bình đẳng của Gini và Loren.
Về mặt văn hoá của nhóm người nghèo thì tác giả Lương Hồng Quang đã cho rằng
nghèo khổ và văn hoá của nhóm nghèo có liên quan tới các vấn đề thuộc phạm trù văn hoá
của nhóm nghèo đóng khung trong một khu vực, nó phụ thuộc vào bối cảnh lịch sử. Nghiên
cứu về văn hoá của nhóm nghèo tác giả chủ yếu phải dựa vào tiêu chí thu nhập bình quân,
nhưng tác giả tập trung nghiên cứu tâm lý, lối sống, cách tiếp cận của họ đối với xã hội. Tác
giả thấy rằng những người nghèo có trình độ văn hoá thấp hoặc mù chữ, họ thường cảm
thấy cô lập, tự ti, bị tước đoạt những cái mà người khác có được, khi được trợ cấp xã hội thì
dường như họ lại trông chờ ỷ lại. Tác giả cũng đưa ra được những giải pháp khoa học có
tính khả thi, tuy nhiên các giải pháp đó chủ yếu là dựa vào nguồn ngân sách Nhà nước chứ
chưa tập trung phát huy được tổng lực của toàn xã hội, sự tự lực của người nghèo bởi nâng cao
trình độ văn hoá cho người nghèo cần phải có một hời gian dài. Tác giả cho rằng, muốn xoá


được tận gốc của cái nghèo và có tính bền vững thì phải nâng cao văn hoá cho người nghèo vì
khi con người có tri thức thì họ tiếp cận được với thế giới bên ngoài và tiếp thu khoa học kỹ
thuật nhanh đặc biệt là trong việc sản xuất kinh doanh.
Đối với công trình nghiên cứu: tác động của phân tầng mức sống vào quá trình phát
triển văn hoá nông thôn thì Trần Thị Lan Hương cho rằng, việc phân tầng mức sống có ảnh
hưởng rất lớn đến nhịp độ phát triển kinh tế đặc biệt là vùng nông thôn (vùng có tỷ lêh
người nghèo cao). Theo kết quả nghiên cứu của tác giả thì hạn chế khoảng cách phân tầng
mức sống có tác dụng tích cực trong việc giảm đói nghèo bằng cách phát triển kinh tế.
Theo tôi, muốn xem xét tình trạng đói nghèo như thế thế nào thì trước hết phải dựa
vào từng thời kỳ lịch sử, từng vùng, từng quốc gia, khi trình độ kinh tế - xã hội phát triển
cao hơn thì càng phải áp dụng tổng hợp các tiêu chí đánh giá để nhanh chóng giảm tỷ lệ đói
nghèo tại vùng hoặc quốc gia đó.
Chương 2
Thực trạng xóa đói giảm nghèo ở huyện Sóc Sơn

2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Sóc Sơn

sản xuất nông nghiệp và giữ một vai trò cực kỳ quan trọng trong chiếc lược XĐGN của
huyện, góp phần tích cực trong quá trình thực hiện sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Đối với
huyện Sóc Sơn, việc sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đang là sự kiện nổi bật cần
quan tâm, việc chuyển đổi đất, xác lập các mô hình kinh tế đã và đang đóng góp phần không
nhỏ vào việc phát triển kinh tế và XĐGN. Tình hình biến động đất đai của huyện được thể
hiện qua biểu 1 như sau:


Qua biểu 1 cho thấy: diện tích đất tự nhiên của huyện là 30.651,24 ha, bằng 1/3 diện
tích đất tự nhiên của thành phố Hà Nội; Trong đó, diện tích đất nông nghiệp toàn huyện là
12.596,89ha bằng 41,10% tổng diện tích đất tự nhiên và giảm dần qua 3 năm do đất đai
được quy hoạch để xây dựng xây bay Nội Bài, xây dựng khu chôn lấp xử lý chất thải sinh
hoạt Nam Sơn, đường quốc lộ 18. Bình quân mỗi năm diện tích đất nông nghiệp giảm
0,53%.
Trong diện tích đất nông nghiệp diện tích đất trồng cây hàng năm có xu hướng giảm
mạnh, qua 3 năm tổng diện tích đất trồng cây hàng năm giảm từ 12.173,66 ha năm 2001
xuống còn 12.048,56ha năm 2003. Diện tích đất trồng cây hàng năm sẽ còn giảm mạnh vào
cuối năm 2004 do Chính phủ thu hồi đất nông nghiệp để mở rộng Quốc lộ 18 đi cửa khẩu
Bắc Luân - Quảng Ninh. Đất lâm nghiệp qua 3 năm tăng 138,76ha do chính sách giao đất,
giao rừng của huyện đến hộ nông dân.
Trong tổng số 6.796,93 ha đất lâm nghiệp của toàn huyện có 1.000 ha cây ăn quả các
loại (chủ yếu là vải thiều, nhãn, hồng nhân hậu và xoài) năm 2002-2003 toàn huyện đã trồng
mới 200 cây ăn quả theo chương trình 05 triệu ha rừng của cả nước. Diện tích đất chưa sử
dụng đã giảm 106,15 ha do các địa phương đã mạnh dạn cho các hộ dân đấu thầu phát triển
kinh tế trang trại, tuy nhiên toàn huyện vẫn còn 2.505,06 ha đất hoang hoá, thùng đào, thùng
đấu. Vì vậy chính quyền và nhân dân toàn huyện phải có kế hoạch đầu tư, khai thác số diện
tích trên đưa vào sử dụng tạo đà thúc đẩy nền kinh tế của huyện ngày càng phát triển.
Qua một số chỉ tiêu bình quân cho thấy: đất nông nghiệp/hộ nông nghiệp; đất nông
nghiệp /khẩu nông nghiệp ngày càng giảm, trung bình hàng năm giảm 4,62%. Với sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Công nghiệp - du lịch, dịch vụ - nông nghiệp (thay cho cơ cấu


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status