Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với giáo dục đại học việt nam - Pdf 33

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại,
đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu
mới, công nghệ năng lượng mới,…từ cuối những năm 80 của thế kỷ
XX đến nay, nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ cả về
cơ cấu, chức năng lẫn phương thức hoạt động. Đây thực sự là một bước
ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng đại - nền kinh tế đang chuyển từ kinh tế
công nghiệp sang kinh tế tri thức.
Trong nền kinh tế tri thức, yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế là
tri thức và tiềm năng tạo ra tri thức, vì thế trên thế giới đang diễn ra
cuộc chạy đua gay gắt giữa các quốc gia để thu hút, chiếm hữu, khai
thác nguồn lực trí tuệ. Mặc dù các nước phát triển có ưu thế hơn hẳn
trong cuộc cạnh tranh này, nhưng kinh tế tri thức cũng tạo ra cơ hội cho
các nước đang phát triển vươn lên, rút ngắn khoảng cách với các nước
phát triển. Cơ hội này sẽ trở thành hiện thực nếu họ biết nắm bắt, khai
thác tiến bộ của khoa học – công nghệ, tri thức của nhân loại để phát
huy nội lực, tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Nhận thức rõ
điều đó, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã khẳng định
“…tranh thủ ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn
những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển
kinh tế tri thức”. Đại hội Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định “đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri
thức”.
Để phát triển kinh tế tri thức, chúng ta không có cách nào khác là
phải nhanh chóng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là đội ngũ
lao động trong lĩnh vực khoa học, công nghệ - những người trực tiếp
tham gia vào quá trình sáng chế ra những tiến bộ khoa học – công nghệ
và tiếp thu, áp dụng những thành tựu khoa học – công nghệ hiện đại của
1




2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thuật ngữ “Kinh tế tri thức” xuất hiện trong các công trình nghiên
cứu của các nhà khoa học Việt Nam chưa lâu, mới chỉ khoảng mười
năm trở lại đây, song do tính chất quan trọng của vấn đề - một vấn đề
có tính thời sự, thời đại và tác động trực tiếp đến sự phát triển của các
nước – kinh tế tri thức đã nhanh chóng trở thành vấn đề được các nhà
khoa học quan tâm. Ở nước ta đã xuất hiện một số công trình nghiên
cứu tìm hiểu về kinh tế tri thức dưới những góc độ khác nhau và được
trình bày dưới dạng các bài báo khoa học, sách hoặc đề tài nghiên cứu
khoa học. Chẳng hạn, “Động lực cho kinh tế tri thức”, Tạp chí Lý luận
chính trị, số 6/2003, của GS.VS Đặng Hữu; “Kinh tế tri thức và những
vấn đề đặt ra đối với đội ngũ trí thức Việt Nam”, đề tài nghiên cứu
khoa học cấp bộ, 2004, của PGS,TS Đoàn Văn Khái; “Kinh tế sáng
tạo”, Tạp chí Tia sáng, 4-12-2005, của Song Ca; “Tìm hiểu vấn đề
“Đẩy mạnh công nghịêp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri
thức” trong Văn kiện Đại hội X của Đảng”, Nxb Chính trị Quốc gia,
2007, của GS.TS Chu Văn Cấp; “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển nền kinh tế tri thức”, Tạp chí Cộng sản 21/2007,
của GS. Vũ Đình Cự; “Quản lý tri thức trong nền kinh tế hiện đại”,
Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 8/2007, của GS. Boris Mil’ner;
“Một số thông tin bước đầu về xã hội tri thức”, nhiệm vụ cấp bộ, 2008,
của PGS,TS Nguyễn Văn Dân; “Diện mạo và triển vọng của xã hội tri
thức”, Nxb Khoa học xã hội, 2008, PGS,TS Nguyễn Văn Dân;...
Về vấn đề giáo dục và giáo dục đại học, cũng có những công trình
nghiên cứu đề cập đến những khía cạnh khác nhau xung quanh tình
hình giáo dục nước ta hiện nay; việc đổi mới giáo dục – đào tạo nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ cho công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức. Tiêu biểu như,

cứu ở những góc độ và mức độ khác nhau. Tuy vậy, chưa có chuyên
khảo nào luận bàn một cách có hệ thống về vị trí, vai trò của giáo dục
4


đại học trong kinh tế tri thức, những vấn đề mà kinh tế tri thức đặt ra
đối với giáo dục đại học trong điều kiện hội nhập quốc tế và những việc
cần phải làm để đổi mới, phát triển giáo dục đại học Việt Nam đáp ứng
yêu cầu từng bước phát triển kinh tế tri thức ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu: Góp phần làm rõ bản chất của kinh tế tri
thức và những đòi hỏi của nó đối với giáo dục đại học Việt Nam; trên
cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới, phát triển
giáo dục đại học Việt Nam đáp ứng yêu cầu từng bước phát triển kinh
tế tri thức.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Với mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu
của luận văn là:
Thứ nhất, luận giải những nội dung cơ bản về kinh tế tri thức, qua đó
góp phần làm sáng tỏ bản chất, đặc điểm, quá trình hình thành và phát triển
của kinh tế tri thức.
Thứ hai, lý giải vai trò của giáo dục đại học trong kinh tế tri thức,
phân tích thực trạng giáo dục đại học Việt Nam, từ đó làm rõ những
vấn đề đặt ra đối với giáo dục đại học trước yêu cầu phát triển kinh tế
tri thức.
Thứ ba, trình bày một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới, phát
triển giáo dục đại học Việt Nam đáp ứng yêu cầu từng bước phát triển
kinh tế tri thức.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Kinh tế tri thức và giáo dục đại học Việt
Nam

Chương 2: Thực trạng giáo dục đại học Việt Nam và những vấn đề
đặt ra trước yêu cầu phát triển kinh tế tri thức
6


Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển giáo dục đại
học Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KINH TẾ TRI THỨC
1.1. Khái niệm kinh tế tri thức
Sau khi trình bày và nhận xét một vài định nghĩa về kinh tế tri thức,
luận văn giới thiệu định nghĩa của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD) về kinh tế tri thức. Theo OECD, “Kinh tế tri thức là một nền
kinh tế trực tiếp dựa vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức”
hoặc “Kinh tế tri thức là kinh tế trong đó tri thức đóng vai trò then chốt
đối với sự phát triển kinh tế, xã hội loài người”. Đây là những định
nghĩa có tính khái quát cao, tuy nhiên trong hai định nghĩa đó, theo
chúng tôi, định nghĩa thứ nhất chuẩn hơn. Bởi vì, định nghĩa này đã chỉ
ra được những thuộc tính cơ bản quy định nội hàm của khái niệm kinh
tế tri thức, đó là: nền kinh tế trực tiếp dựa vào việc sản xuất, phân phối
và sử dụng tri thức. Đây cũng chính là những thuộc tính phản ánh bản
chất của nền kinh tế tri thức, thiếu những thuộc tính này nền kinh tế
không được gọi là nền kinh tế tri thức. Và với một nền kinh tế mang
bản chất như vậy, thì yếu tố tri thức có vai trò then chốt đối với sự phát
triển kinh tế – xã hội của loài người là điều đương nhiên, nó chính là hệ
quả của nền kinh tế trực tiếp dựa vào việc sản xuất, phân phối và sử

cách mạng này đã tác động mạnh mẽ, trực tiếp tới xu hướng và tốc độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Mỗi năm thế giới có khoảng 1 triệu
phát minh mới, làm xuất hiện 30 vạn mặt hàng mới. Chính những phát
minh này đã chuyển nền kinh tế thế giới từ thời kỳ cơ khí hóa sang thời
kỳ tự động hóa. Bên cạnh những ngành kinh tế truyền thống gắn với
nền đại công nghiệp, các ngành kinh tế mới đã phát triển với tốc độ rất
nhanh (điện tử - bán dẫn, máy tính, viễn thông,…), trong đó các dịch vụ
liên quan đến thông tin (ngân hàng, tư vấn, thiết kế, bảo hiểm,…) phát
triển mạnh. Đây chính là thời điểm đánh dấu sự gia nhập của một yếu tố
sản xuất mới trong nền kinh tế, đó là thông tin.

9


Giai đoạn 5, bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ XX. Giai đoạn
này cũng mở đầu tại nước Mỹ, khi quốc gia này muốn khôi phục vị trí
bá chủ thế giới của mình nhưng không phải qua công nghiệp mà qua
công nghệ cao. Mỹ đã sẵn sàng cho cuộc cách mạng khoa học – công
nghệ; kinh tế thế giới chuyển từ thời kỳ tự động hóa sang thời kỳ công
nghệ cao. Theo các nhà nghiên cứu, đây chính là thời điểm nền kinh tế
tri thức hình thành và phát triển với các mũi nhọn công nghệ cao: công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới,
công nghệ hàng không vũ trụ…
Nói tóm lại, kinh tế tri thức đã được manh nha từ cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật lần 1, lần 2; nhưng phải đến những năm 80 của thế
kỷ XX khi diễn ra cuộc cách mạng khoa học – công nghệ thì nó mới
xuất hiện và cũng chỉ mới xuất hiện ở một vài nước phát triển nhất
(Mỹ, Nhật Bản). Như đã khẳng định, sự xuất hiện này không phải là đột
biến mà là kết quả phát triển lâu dài trên cơ sở kế thừa những thành tựu
của nền kinh tế nông nghiệp và nền kinh tế công nghiệp. Đồng thời, đó

- Nền kinh tế lấy thông tin và công nghệ thông tin làm chỗ dựa để
phát triển.
- Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế phát triển bền vững, rất nhạy
cảm và thân thiện với môi trường.
- Nền kinh tế tri thức lấy thị trường toàn cầu làm hướng hoạt động
chính.
- Sáng tạo là yếu tố sống còn với nền kinh tế tri thức.
Từ những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế tri thức nói trên cho thấy
muốn bước vào nền kinh tế tri thức phải có nguồn nhân lực chất lượng cao.
Mà khi nói đến nguồn nhân lực chất lượng cao thì biểu hiện cơ bản chính là
năng lực trí tuệ, trình độ chuyên môn và khả năng sáng tạo. Điều này phụ
thuộc chủ yếu vào vai trò quyết định của nền giáo dục quốc dân, trong đó
trực tiếp và quyết định nhất là giáo dục đại học. Vai trò của giáo dục đại học
đối với phát triển kinh tế tri thức thể hiện ở những nét khái quát sau:

Giáo dục đại học cung cấp kiến thức, trang bị trình độ chuyên
môn, nghề nghiệp cho người lao động ở mức cao.

Giáo dục đại học thực hiện chức năng phổ biến, truyền bá tri
thức (hoạt động đào tạo) và thu nhận, sáng tạo tri thức (hoạt động nghiên cứu
khoa học).

Giáo dục đại học tạo môi trường kích thích sự sáng tạo, dạy
người ta làm quen với nghiên cứu khoa học, với sáng tạo; trang bị những cơ

11


sở, nền tảng (kiến thức nền, phương pháp luận và những định hướng), qua
đó giúp người học hình thành năng lực sáng tạo.

kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức
và hội nhập quốc tế. Mục tiêu tổng quát được Đại hội Đảng lần thứ IX
xác định là: Giáo dục – đào tạo phải nhằm phục vụ cho công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, từng bước phát triển kinh tế tri thức; còn
mục tiêu về mặt xã hội là cả nước trở thành một xã hội học tập, học tập
suốt đời.
Thứ ba, trong tổ chức giáo dục đại học trong những năm gần đây
chúng ta đã đa dạng hóa các loại hình trường đại học.. Theo số liệu
thống kê về giáo dục đại học Việt Nam năm học 2007 – 2008, cả nước
ta có 369 trường đại học và cao đẳng thì số trường công lập là 305, số
trường ngoài công lập là 64. Như vậy, mặc dù số trường công lập vẫn
chiếm số đông, vẫn là chủ đạo, song các trường dân lập đã ngày càng
được chú trọng, được phát triển, mở ra nhiều cơ hội cho đông đảo
người dân Việt Nam được theo học ở bậc đại học và tiếp tục học ở các
bậc cao hơn.
13


Thứ tư, nội dung chương trình và hình thức đào tạo đại học có sự
đổi mới. Bên cạnh những ngành, chuyên ngành đào tạo truyền thống,
nhiều ngành, chuyên ngành đào tạo mới được hình thành để đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong điều kiện kinh tế
thị trường, hội nhập quốc tế và cách mạng khoa học – công nghệ. Từ
đó, nhiều chương trình đào tạo mới, nhiều môn học mới, chủ yếu được
tiếp thu, tham khảo từ các nước phát triển, được xây dựng và triển khai
giảng dạy. Hình thức đào tạo mới theo học chế tín chỉ bắt đầu được áp
dụng vào các trường đại học trong những năm gần đây. Đây là một
chương trình đào tạo mềm dẻo, cùng với các học phần bắt buộc còn có
các học phần tự chọn, cho phép sinh viên dễ dàng điều chỉnh ngành
nghề đào tạo; đáp ứng nhu cầu đa dạng của người học, đánh giá chặt

chức năng, nhiệm vụ; quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các
trường không cao. Công tác nghiên cứu khoa học chưa được quan tâm
đúng mức; chưa gắn kết giữa giảng dạy, nghiên cứu và phục vụ đời
sống xã hội.
Bốn là, nguồn lực cho giáo dục đại học hạn hẹp, chủ yếu dựa vào
nguồn ngân sách nhà nước, học phí nhỏ bé.
Năm là, chương trình đào tạo cứng nhắc, thiếu linh hoạt, nặng lý
thuyết, nhẹ thực hành, chậm hội nhập. Cơ cấu ngành nghề đơn điệu;
phương pháp dạy và học rất lạc hậu; quy trình đào tạo đóng kín, cứng
nhắc, thiếu mềm dẻo, liên thông.
Sáu là, đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý hẫng hụt, không đáp ứng
yêu cầu đổi mới cả về số lượng và chất lượng.
Bảy là, quản lý vĩ mô hệ thống đại học còn bao biện, ôm đồm, quan
liêu, hành chính bao cấp.
2.2. Những vấn đề đặt ra đối với giáo dục đại học Việt Nam
trước yêu cầu phát triển kinh tế tri thức
Thứ nhất, giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển giáo dục đại
học để đáp ứng đòi hỏi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
15


phát triển kinh tế tri thức với những điều kiện thực thi yêu cầu này,
nghĩa là phải giải quyết vấn đề nguồn lực cho phát triển giáo dục đại
học.
Thứ hai, xử lý mối quan hệ giữa quy mô số lượng và chất lượng giáo
dục đại học.
Thứ ba, nhanh chóng khắc phục sự bất cập giữa chất lượng, cơ cấu
ngành nghề và nội dung chương trình đào tạo với yêu cầu của thị trường
lao động trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế
tri thức và hội nhập quốc tế.

Thứ tư, phải nhận thức rõ việc đổi mới và phát triển giáo dục đại
học Việt Nam là một tất yếu, một đòi hỏi bức bách do yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức
và phải có quyết tâm chính trị để thực hiện điều đó.
Thứ năm, tích cực hiện đại hóa giáo dục đại học nhưng là sự hiện
đại hóa có chọn lọc, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và yêu cầu phát
triển của đất nước, xu thế phát triển của thế giới để từng bước chủ động
hội nhập quốc tế.
3.2. Tăng cường nguồn lực cho phát triển giáo dục đại học
- Vấn đề đầu tư xây dựng cơ chế, chính sách phát triển giáo dục
đại học: cần tăng đầu tư cho việc nghiên cứu xây dựng các cơ chế,
chính sách phát triển giáo dục đại học là một trong những việc làm rất
quan trọng cần thực hiện đầu tiên.
17


- Phát triển nguồn nhân lực cho giáo dục đại học:
 Đổi mới phương thức tuyển dụng theo hướng khách quan, công
bằng, mang tính cạnh tranh.
 Lựa chọn sinh viên khá giỏi, cán bộ khoa học có năng lực đã
kinh qua công tác tại các cơ sở kinh tế - xã hội để bổ sung cho đội ngũ.
 Sử dụng cơ chế hợp đồng dài hạn (với mọi đối tượng đủ tiêu
chuẩn và điều kiện) để tăng số lượng giảng viên đại học nhằm mau
chóng đảm bảo tỷ lệ sinh viên/giảng viên hợp lý đối với từng ngành đào
tạo.
 Xác định mức lương và các chế độ đãi ngộ phù hợp cho giáo
chức và cán bộ quản lý giáo dục đại học theo hướng coi trọng chất xám,
hiệu quả công việc.
 Đảm bảo được chỗ làm việc đủ tiện nghi tối thiểu tại trường
cho giảng viên đại học để tăng thời gian tiếp xúc của họ với đồng

bổng, tín dụng sinh viên.
 Đổi mới chính sách tài chính nhằm tăng hiệu quả đầu tư từ
ngân sách và khai thác các nguồn đầu tư khác cho giáo dục đại học.
3.3. Đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo, phương
pháp giảng dạy và học tập, phương pháp đánh giá kết quả học tập
theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá”, đáp ứng yêu cầu của công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức
- Về mục tiêu, nội dung chương trình:
Cần xác định rõ mục tiêu giáo dục đại học ở nước ta theo quan
điểm mới. Đó là mục tiêu dạy và học đại học nhằm tạo nên con người
có các loại tiềm năng: thứ nhất, để học tập, nghiên cứu sáng tạo; thứ
hai, để phát triển cá nhân gắn kết với xã hội; thứ ba, để tìm và tạo việc
làm không chỉ cho bản thân mà còn cho những người khác. Đây thực ra
là sự vận dụng lý luận tổng hợp của thế giới về mục tiêu của giáo dục
đại học (là đào tạo ra nguồn nhân lực có 3 loại tiềm năng) vào điều kiện
cụ thể của nước ta trước yêu cầu phát triển kinh tế tri thức. Nội dung
chương trình cho các ngành đào tạo đại học, cao đẳng cần được sửa đổi,
điều chỉnh cho thật phù hợp. Cần dành nhiều hơn thời gian, công sức và
đầu tư nguồn lực vật chất cần thiết cho việc xây dựng chương trình
khung cho các ngành đào tạo đại học, cao đẳng, xem đây là biện pháp
19


quan trọng, biện pháp tiêu chuẩn hóa để nâng cao chất lượng giáo dục
đại học của nước ta.
- Về phương pháp giảng dạy và học tập:
Phương pháp dạy và học bao gồm nhiều cách thức, biện pháp
nhưng phương pháp chung có hiệu quả cao và đang trở thành xu hướng
có tính phổ biến là biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
Với tinh thần như vậy, cần đẩy nhanh hơn nữa việc thực hiện sự nghiệp

Bên cạnh đó, để đa dạng hóa và mở rộng nhanh quy mô cho có chất
lượng, cần nâng cao chất lượng giáo dục đại học, cụ thể là:
Thứ nhất, hệ thống giáo dục đại học cần điều chỉnh cơ cấu trình độ,
cơ cấu ngành nghề và hệ thống nhà trường nhằm làm cho giáo dục đại
học phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và xu
hướng phát triển của thế giới.
Thứ hai, nhanh chóng xây dựng một số trường đại học trình độ
quốc tế, gắn kết đào tạo với nghiên cứu khoa học, đạt trình độ tiên tiến
trong khu vực và thế giới, làm chỗ dựa về chất lượng cho toàn hệ thống
giáo dục đại học.
Thứ ba, đẩy mạnh đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng
viên.
Thứ tư, để giải bài toán qui mô - chất lượng, phải "phân tầng chất
lượng" các đại học.
Cuối cùng, để nâng cao hiệu quả giáo dục đại học, tất yếu phải khai
thác hợp lý, có hiệu quả các nguồn lực cho giáo dục đại học, nâng cao
chất lượng đào tạo, nhất là phải đảm bảo sự phù hợp giữa sản phẩm đào
tạo ra (số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ) với
yêu cầu của thị trường lao động.
3.5. Tăng cường hợp tác, giao lưu quốc tế trong giáo dục đại học

Thứ nhất, nâng cao chất lượng các chương trình nghiên cứu và đào
tạo đặc thù cho quốc gia để thu hút các nhà nghiên cứu và học viên
quốc tế.
21


Thứ hai, xây dựng các quan hệ trao đổi giảng viên và sinh viên, các
liên kết đào tạo và nghiên cứu với đại học nước ngoài.
Thứ ba, thiết lập các nguyên tắc và thủ tục thông thoáng cho phép

Hiện tại, giáo dục đại học Việt Nam bên cạnh những ưu điểm vẫn
còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém cần được khắc phục. Đó là quy mô
giáo dục đại học hiện chưa đáp ứng yêu cầu cho công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, gây ra tình trạng mất cân đối lớn
về cung-cầu. Chất lượng, hiệu quả đào tạo thấp, học chưa gắn chặt với
hành, nhân lực được đào tạo yếu về năng lực và phẩm chất; chưa bình
đẳng về cơ hội tiếp cận. Trong khi đó cơ cấu hệ thống trường đại học
lại bất hợp lý. Nguồn lực hạn hẹp, chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách
nhà nước. Chương trình đào tạo cứng nhắc, thiếu linh hoạt, nặng lý
thuyết, nhẹ thực hành, chậm hội nhập. Cơ cấu ngành nghề đơn điệu;
phương pháp dạy và học rất lạc hậu; quy trình đào tạo đóng kín, cứng
nhắc, thiếu mềm dẻo, liên thông. Đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý
hẫng hụt, không đáp ứng yêu cầu đổi mới cả về số lượng và chất lượng.
Quản lý vĩ mô hệ thống đại học còn bao biện, ôm đồm, quan liêu, hành
chính bao cấp.

23


Tình hình trên đặt ra yêu cầu cấp bách là phải đổi mới và phát triển
mạnh mẽ, toàn diện giáo dục đại học với hàng loạt các giải pháp đồng
bộ. Trước hết, cần nhận thức đúng bản chất, đặc điểm của kinh tế tri
thức, vai trò của giáo dục đại học đối với phát triển kinh tế tri thức và
thực trạng giáo dục đại học Việt Nam hiện nay. Tiếp theo là phải tăng
cường nguồn lực cho phát triển giáo dục đại học. Đồng thời, phải đổi
mới mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy
và học tập, phương pháp đánh giá kết quả học tập theo hướng “chuẩn
hoá, hiện đại hoá”, đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức. Mặt khác, phải phát triển qui
mô gắn với nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đại học. Ngoài ra,


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status