PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN THEO LUẬT CỦA PHÁP VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT PHÁ SẢN CỦA VIỆT NAM - Pdf 32


CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƢỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”
NĂM 2009
Tên công trình:

PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN THEO LUẬT
CỦA PHÁP VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI
VỚI PHÁP LUẬT PHÁ SẢN CỦA VIỆT NAM
Nhóm ngành: XH2b
3.1. Pháp luật về phá sản ............................................................................................... 20
3.2. Những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trong luật phá sản ...... 22
Chƣơng II. NHỮNG QUY ĐỊNH TRONG PHÁP LUẬT CỦA PHÁP VỀ
PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG
PHÁ SẢN .......................................................................................................................... 24
1. Giới thiệu tổng quan về pháp luật phá sản của Pháp .............................................. 24
1.1. Sự hình thành và phát triển .................................................................................... 24
1.2. Vị trí vấn đề phục hồi hoạt động của doanh nghiệp trong luật về doanh nghiệp lâm
vào tình trạng khó khăn của Pháp .................................................................................. 29
2. Những quy định trong luật của Pháp về thủ tục phục hồi hoạt động của doanh
nghiệp ................................................................................................................................ 32ii

ii
2.1. Đối tượng áp dụng ................................................................................................. 32
2.2. Điều kiện để mở Thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp .......................... 33
2.3. Các bước tiến hành thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản .................................................................................................................. 37
3. Những quy định trong pháp luật phá sản của Pháp về phƣơng án phục hồi hoạt
động của doanh nghiệp .................................................................................................... 47
3.1. Vấn đề tài chính ..................................................................................................... 47
3.2. Vấn đề quản lý doanh nghiệp ................................................................................ 48
3.3. Vấn đề xã hội ......................................................................................................... 49
4. Nhận xét về các quy định trong luật phá sản của Pháp về phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp .................................................................................................................... 50
Chƣơng III. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT PHÁ SẢN CỦA
VIỆT NAM VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP THÁO GỠ TRÊN CƠ SỞ
VẬN DỤNG KINH NGHIỆM TỪ PHÁP ..................................................................... 52

d’assurance des créances des salariés)
2. FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)
3. GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)
4. OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for
Economic Co-operation and Development)
5. WTO Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade
Organization)
6. USD Đô la Mỹ
7. VNĐ Đồng Việt Nam
8. TNHH Trách nhiệm hữu hạn
1 TÓM TẮT CÔNG TRÌNH
Ngày nay, pháp luật phá sản ở hầu hết các nước phát triển đều coi việc phục hồi
và tái tạo doanh nghiệp là mục tiêu quan trọng. Điều này lại không tồn tại ở Việt Nam.
Trải qua 16 năm thi hành, cho đến nay vẫn chưa có một doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản nào được phục hồi và tái tạo lại theo luật phá sản. Chính điều này đã làm giảm
sức sống của luật phá sản Việt Nam. Để làm rõ nguyên nhân và tìm kiếm giải pháp cho
thực trạng này, vấn đề “Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản theo luật của Pháp và những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của Việt
Nam” đã được lựa chọn làm đề tài tham dự cuộc thi “Sinh viên Nghiên cứu Khoa học
năm 2009”.
Với tổng số 78 trang, nội dung của công trình gồm 3 chương:
Chương I trình bày những vấn đề cơ bản như khái niệm, đặc điểm của phá sản và
pháp luật phá sản; sau khi phân tích tác động tích cực và tiêu cực của phá sản đối với
doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp là chủ nợ và doanh nghiệp là con nợ, cũng như đối với
nền kinh tế, chương I đã làm rõ sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của doanh nghiệp và
khẳng định tính ưu việt và xu thế chung của pháp luật phá sản ngày nay là cố gắng hướng
về mục tiêu tái tạo doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.

Motor - một đại gia trong ngành xe hơi Hoa Kỳ phải nộp đơn xin bảo hộ phá sản
vào ngày 1/6/2009, với tổng trị giá tài sản là 82,3 tỷ USD trên số nợ tồn đọng là
172,81 tỷ USD
1
. Còn ở Việt Nam, vào ngày 19/12/2008 Công ty TNHH Orion
Hanel - một công ty liên doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp Hàn
Quốc được thành lập năm 1993 và từng là một trong các doanh nghiệp FDI dẫn
đầu tại Hà Nội trong việc sản xuất đèn hình màu và phụ kiện tivi, đã nộp đơn lên
Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội xin mở thủ tục phá sản
2
.
Doanh nghiệp bị phá sản sẽ gây ra nhiều tác động tiêu cực cho xã hội. Để
hạn chế và giảm thiểu các tác động đó, pháp luật về phá sản đã được ban hành với
nhiều mục tiêu, trong đó có mục tiêu phục hồi hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng
phục hồi hoạt động của doanh nghiệp như thế nào? Luật pháp của các nước khác
nhau quy định không hoàn toàn giống nhau về vấn đề này. Luật phá sản đầu tiên
của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, có tên gọi là Luật phá sản Doanh
nghiệp, được thông qua ngày 30/12/1993 (có hiệu lực từ ngày 1/7/1994) nhằm
hình thành khung pháp lý bảo đảm sự quản lý và giám sát của Nhà nước đối với
hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Mục tiêu quan trọng nhất
của Luật này là nhắc nhở, cảnh báo các doanh nghiệp khi tiến hành các hoạt động
kinh doanh và hướng dẫn thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản.

1
Website:
2
Website:
3

3
Bộ Tư Pháp, Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004, ngày 29/12/2008.
4 so sánh với Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993. Tuy nhiên, tài liệu này không
phân tích cụ thể những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản và cũng không so sánh với luật của Pháp.
 Bài viết của tác giả Trần Minh Sơn đăng trên tạp chí Nghề Luật (số 4/2007)
có tựa đề “Luật Phá sản có nguy cơ tiếp tục phá sản”. Bài viết này chỉ nêu lên
những bất cập cơ bản nhất của Luật Phá sản năm 2004 nhưng cũng chưa phân tích
những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp.
 Bài viết của PGS.TS.Dương Đăng Huệ: “Luật Phá sản Việt Nam năm 2004
với việc cải thiện môi trường kinh doanh”, đăng trong Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật, số 3 năm 2005. Bài viết này phân tích Luật Phá sản năm 2004 từ góc độ môi
trường kinh doanh của doanh nghiệp, không phân tích vấn đề phục hồi hoạt động
của doanh nghiệp.
Có thể khẳng định đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu vấn đề phục hồi hoạt
động của doanh nghiệp bị phá sản nói chung và những quy định của pháp luật Việt
Nam, pháp luật Cộng hoà Pháp về vấn đề này nói riêng.
3. Đối tƣợng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề về phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, pháp luật về phá sản và những quy định
về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành của Việt nam và
của Cộng hoà Pháp.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài còn bao gồm cả những vấn đề khó khăn
phát sinh khi thực thi pháp luật phá sản của Việt Nam nói chung và thực thi các
quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp theo Luật Phá sản năm 2004 nói

những quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản theo Luật phá sản Doanh nghiệp năm 1993, Luật Phá sản năm 2004 và những
quy định hiện hành trong luật phá sản của Pháp năm 2009. Việc phân tích tình
hình thi hành các quy định về phục hồi doanh nghiệp theo Luật phá sản năm 2004
cũng là nội dung nghiên cứu của đề tài.

6 6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung của đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chƣơng I: Phá sản, pháp luật về phá sản và sự cần thiết phải phục hồi hoạt động
của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Chƣơng II: Những quy định trong luật phá sản của Pháp về phục hồi hoạt động
của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Chƣơng III: Những vấn đề đặt ra đối với pháp luật phá sản của Việt Nam và đề
xuất các giải pháp trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm từ Pháp
7 Chƣơng I
PHÁ SẢN, PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI
PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP LÂM VÀO
TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN

1. Phá sản và tác động của phá sản đến hoạt động của doanh nghiệp
1.1. Khái niệm và đặc điểm của phá sản
1.1.1. Khái niệm về phá sản
Phá sản là một khái niệm được sử dụng để chỉ tình trạng làm ăn thua lỗ,

điểm, chi phối nhiều mối quan hệ xã hội, liên quan đến lợi ích của nhiều người. Vì
vậy, cần phải tìm hiểu đặc điểm của phá sản để xem xét mọi góc độ của nó.
1.1.2. Đặc điểm của phá sản
Phá sản có ba đặc điểm cơ bản: Phá sản mang tính lịch sử, phá sản mang
tính khách quan và phá sản chịu sự điều chỉnh của pháp luật.
 Tính chất lịch sử của phá sản
Phá sản là một hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với nền kinh tế thị
trường, bởi vậy nó mang tính chất lịch sử rất rõ rệt. Trong những giai đoạn phát
triển của lịch sử xã hội loài người, khi xã hội không tồn tại nền kinh tế thị trường
thì phá sản cũng không có cơ sở để tồn tại. Ngay cả khi có nền kinh tế hàng hóa là
mức độ thấp của kinh tế thị trường thì phá sản cũng không tồn tại. Chẳng hạn phá
sản không phát sinh ở nền kinh tế tiểu thủ công nghiệp của các nước phương Tây
thời kỳ tiền Tư bản. Với nền sản xuất thấp kém, năng suất lao động thấp dẫn tới
cầu luôn cao hơn cung, các nhà sản xuất hầu như không gặp bất cứ khó khăn nào
trong quá trình tiêu thụ hàng hóa và vì vậy, việc họ bị phá sản là không thể xảy ra.
Hoặc như trong thời kỳ đầu sau giải phóng, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, bao cấp. Về bản chất, đây vẫn là nền kinh tế hàng hóa tuy
nhiên do sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào quá trình sản xuất cũng như phân
phối dẫn đến tình trạng các khoản nợ đối với doanh nghiệp gần như “biến mất”. Lỗ
đâu nhà nước bù đó, doanh nghiệp tồn tại dựa vào ý muốn và sự chỉ đạo từ phía
nhà nước. Không có thị trường với đúng nghĩa của nó và không có cạnh tranh. Phá
sản cũng không tồn tại trong nền kinh tế như vậy.
 Tính chất khách quan của phá sản
Đặc điểm này muốn nói rằng phá sản không phụ thuộc vào ý chí chủ quan
9 của bất cứ ai trong xã hội. Ngược lại, nó là kết quả của quá trình kinh doanh không
hiệu quả kéo dài của doanh nghiệp. Quá trình kinh doanh không hiệu quả đó lại
được lý giải bởi hai nguyên nhân cũng mang tính khách quan sau đây:

Tốc
độ
phát
triển
Nguồn:
10 theo đó mọi tài khoản ngân hàng trên toàn quốc bị đóng băng trong 12 tháng nhằm
giải quyết tình trạng các nhà đầu tư nước ngoài muốn tháo chạy khỏi Argentina
4
.
Cũng có khi do sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế ở trong nước hoặc ở
phạm vi quốc tế; và cũng không loại trừ do doanh nghiệp quản lý kém hiệu quả
hoặc xây dựng chiến lược kinh doanh không phù hợp mà điển hình nhất là trường
hợp của hãng sản xuất xe hơi General Motor. Các nhà phân tích kinh tế cho rằng
một trong những nguyên nhân làm cho General Motor phá sản là do sự chậm chạp,
kém năng động và sự rối rắm về quản trị với những thủ tục phức tạp trong phong
cách lãnh đạo của giới lãnh đạo Hãng này
5
.
Nguyên nhân thứ hai dựa trên đặc điểm của nền kinh tế thị trường. Kinh tế
thị trường là mức phát triển cao của kinh tế hàng hóa, nơi mà sự phân công lao
động, chuyên môn hóa trong sản xuất đã đạt trình độ cao. Cùng với sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật, năng suất lao động tăng lên làm cho của cải sản xuất ra ngày
một nhiều hơn và vì thế cạnh tranh giữa các nhà cung ứng sản phẩm và dịch vụ
cũng ngày càng trở nên khốc liệt. Đã có thời gian “thương trường là chiến trường”
trở thành câu nói cửa miệng, bài học nhắc nhở cho mọi nhà quản lý doanh nghiệp.
Trong cuộc chiến sống còn như vậy, việc có những doanh nghiệp yếu thế hơn, làm
ăn kém hiệu quả hơn dẫn tới thua lỗ và phá sản là điều tất yếu. Ngoài ra, ngày nay,

hành luật phá sản. Trong khi đó, các nước có nền kinh tế thị trường sớm phát triển
như Hoa Kỳ, Úc, Pháp … là những nước có nhiều kinh nghiệm trong việc xây
dựng và thực thi luật phá sản, đặc biệt là trong việc phục hồi hoạt động của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Trong tình hình khủng hoảng tài chính tiền tệ
đang diễn ra hiện nay, nhiều doanh nghiệp, ngân hàng của Hoa Kỳ đã và đang bị
phá sản và việc xử lý doanh nghiệp bị phá sản theo chương 7 và chương 11 của
Luật Phá sản Hoa Kỳ năm 2005 đang thu hút sự chú ý của giới doanh nghiệp trên
thế giới
6
. Điều này có nghĩa là, từ thời cổ đại cho đến nay, phá sản luôn luôn chịu
sự điều chỉnh của pháp luật. Điều này cũng đòi hỏi mọi doanh nghiệp, ngay khi có
ý tưởng thành lập, đã phải tìm hiểu những quy định của pháp luật về phá sản song
song với việc tìm hiểu những quy định của pháp luật về tự do kinh doanh, tự do
thương mại trong cả quá trình tồn tại, phát triển, hưng thịnh và tiêu vong của mình.
1.2. Những tác động của phá sản đến hoạt động của doanh nghiệp
Phá sản, như đã phân tích, là hiện tượng gắn liền với sự làm ăn kém hiệu
quả của doanh nghiệp.Vì vậy, phá sản có những tác động nhất định đến hoạt động
của doanh nghiệp. Những tác động này vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu

6
Chương 7 là chương quy định về đóng cửa doanh nghiệp và chương 11 điều chỉnh việc phục hồi hoạt
động của doanh nghiệp
12 cực. Những tác động đó là:
1.2.1. Tác động tích cực
Trên khía cạnh kinh tế - xã hội, phá sản là quá trình thanh lọc các công ty
làm ăn thua lỗ. Bởi vậy nó cho phép xã hội tổ chức lại nguồn lực kinh tế theo
hướng ngày càng hiệu quả hơn. Có thể nói các doanh nghiệp bị phá sản là những

vay, phá sản giúp họ có thể thu hồi lượng vốn tồn đọng từ quá lâu ở chỗ con nợ.
Qua đó, có thể chọn một khu vực đầu tư được đánh giá là hiệu quả để đầu tư mới.
Như vậy, phá sản không những góp phần đẩy nhanh quá trình lưu chuyển vốn của
các doanh nghiệp có vốn - các doanh nghiệp chủ nợ - đang tồn đọng ở các doanh
nghiệp bị phá sản mà còn giúp cho lượng vốn này có thể được sử dụng hiệu quả
hơn nhờ những kinh nghiệm đánh giá hiệu quả đầu tư cũng như kinh nghiệm dự
báo, dự đoán tích lũy được. Như vậy có thể thấy phá sản và những quy định về phá
sản sẽ trở thành một công cụ hữu ích và hiệu quả để bảo vệ quyền lợi của các nhà
đầu tư.
Từ góc độ của con nợ để nhìn nhận về tác động tích cực của phá sản, có thể
thấy rằng mặc dù không một doanh nghiệp nào thích phá sản nhưng phá sản thực
sự là một lối thoát cho các doanh nghiệp này. Khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì
việc kéo dài sự tồn tại lay lắt của doanh nghiệp là không hiệu quả bởi vì kết cục
của việc kéo dài là những nguồn chi phí bị đội lên, những khoản nợ không thể
thanh toán, những khoản tiền không thể chi trả, sự quẫn bách không lối thoát và
đặc biệt là lòng tự hào nghề nghiệp có thể đẩy các nhà lãnh đạo của các doanh
nghiệp này tới các hành vi tiêu cực như lừa đảo, gian lận hoặc thậm chí có thể tự
vẫn. Phá sản sẽ là một cánh cửa mở, là cứu cánh cho doanh nghiệp trong tình thế
như vậy. Thông qua việc mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp có thể thoát hoàn toàn
khỏi tình trạng nợ nần chồng chất. Phá sản và các quy định về phá sản trong
trường hợp này đóng vai trò là một công cụ bảo vệ hoàn hảo cho con nợ bởi sau
khi thủ tục thanh lý kết thúc, mọi khoản nợ sẽ biến mất và con nợ thật sự được tự
do. Tất nhiên, đứng ở vị trí của nhà quản lý doanh nghiệp bị phá sản, cái giá phải
trả là bị tước quyền làm giám đốc hoặc quyền quản lý một doanh nghiệp khác
trong một khoảng thời gian nào đó. Nhưng lợi ích đem lại còn lớn hơn nhiều: Bên
cạnh sự giải phóng về tinh thần cho chủ doanh nghiệp, phá sản còn cho các doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ cơ hội bắt đầu lại từ đầu thay vì tiếp tục lún sâu vào sai lầm
và nợ nần ngày một tăng thêm.
14


đói, của bất bình đẳng và của các tệ nạn xã hội - những vấn đề nóng bỏng của tất
cả các nền kinh tế - dù là nền kinh tế phát triển hay kém phát triển.

7
Website:
15
Về mặt kinh tế, phá sản gây ra nhiều tác động xấu đến sự phát triển ổn định
của nền kinh tế. Khi một doanh nghiệp bị phá sản thì doanh nghiệp khác là bạn
hàng của doanh nghiệp cũng phải chịu ảnh hưởng theo kiểu dây chuyền - không
bán được hàng, không cung cấp được sản phẩm (nếu doanh nghiệp bị phá sản
trước đây mua sản phẩm của mình) hoặc không có nguyên vật liệu cho sản xuất
(nếu doanh nghiệp bị phá sản là doanh nghiệp bán nguyên vật liệu cho họ) … Một
doanh nghiệp phá sản còn là tác nhân gây ảnh hưởng đến tâm lý của người tiêu
dùng, nhà đầu tư, từ đó làm toàn bộ thị trường trở nên bất ổn. Tác động đó sẽ càng
trầm trọng nếu doanh nghiệp bị phá sản là một doanh nghiệp lớn. Ví dụ, vụ phá
sản của ngân hàng Lehman Brothers không chỉ khiến hàng ngàn người lao động
mất việc mà nghiêm trọng hơn là tác động của nó tới thị trường chứng khoán toàn
cầu. Ngay sau khi có tin Lehman Brothers phá sản, các thị thường chứng khoán
đều đồng loạt giảm giá: chỉ số Down Jones Mỹ sụt giảm 2,6%; chỉ số FTSE tại thị
trường chứng khoán London giảm 3%; các thị trường chứng khoán Pháp và Đức
cũng giảm hơn 3%; chỉ số Nikkei của Nhật đã giảm tới 4,7%; đặc biệt là thị trường
Nga đã phải tạm ngừng giao dịch sau khi chỉ số giảm tới 16%
8
. Chỉ số chứng
khoán giảm mạnh đe doạ đến sự sụp đổ của hàng loạt các công ty khác và tiếp tục
đẩy hàng nghìn người trên toàn thế giới vào tình trạng thất nghiệp.
Từ góc độ của chủ nợ để quan sát, sự phá sản của con nợ mặc dù đồng

phải là tuyên bố phá sản mà là làm sao đó để kéo dài “sự sống” cho mình. Có
nghĩa là dù có trả được nợ hay không, con nợ vẫn sẽ bằng mọi giá trì hoãn thời
gian, khất lần để tìm phương án trả hoặc trốn nợ. Chưa kể, quá trình phá sản kéo
dài cũng khiến cho chủ nợ càng bị thiệt hại về kinh tế nhiều hơn. Theo kết quả
công bố trong Doing Business Ranking 2008, Việt Nam xếp thứ 124 trên tổng số
178 nước trên thế giới do có thời gian giải quyết phá sản rất dài với mức trung
bình là 5 năm
10
. Thời gian giải quyết một vụ phá sản lâu như vậy, chưa kể khoảng
thời gian trước khi mở thủ tục phá sản, thực sự là một khoản “thất thu” rất lớn đối
với bất cứ một doanh nghiệp chủ nợ nào.
2. Sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản
Những tác động tích cực và tiêu cực của phá sản đối với doanh nghiệp cũng
như đối với nền kinh tế cho thấy sự cần thiết phải phục hồi hoạt động của các
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Sự cần thiết này được giải thích bởi các
lý do dưới đây:

9
Bộ Tư Pháp, “Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004”, ngày 29/12/2008
10
Website:
17 2.1. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp nhằm mục đích tái tạo lại doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp bị phá sản nghĩa là trợ giúp doanh
nghiệp đó, có thể bằng tài chính hoặc cố vấn về phương án hoạt động kinh doanh,
để doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có thể tự mình đứng dậy. Một cách so

Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp tiếp tục kinh
doanh một cách bình thường nhưng với phương án hoạt động mới, được nghiên
cứu và tính toán một cách tỉ mỉ dựa trên tình hình và thực trạng kinh doanh hiện tại
của doanh nghiệp nhằm tìm kiếm giải pháp tối ưu (như cắt giảm các bộ phận dôi
dư, đổi mới công nghệ, cải cách bộ máy quản lý, phát động tinh thần thi đua…) để
nhanh chóng phục hồi thành công và đưa doanh nghiệp trở lại hoạt động. Điều này
cho phép giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực của phá sản. Thay vì dừng hoạt
động và sa thải hàng loạt người lao động, quá trình phục hồi doanh nghiệp chỉ phải
cân nhắc tính toán chi phí dành cho người lao động sao cho phù hợp với tình hình
của doanh nghiệp. Nói vậy có nghĩa là vẫn có thể xảy ra việc cắt giảm biên chế, sa
thải lao động nhưng không phải là sa thải 100% lao động mà chỉ loại bỏ những bộ
phận thừa hoặc những bộ phận làm việc không hiệu quả. Số lao động được giữ lại
sẽ là số lao động tối ưu đối với doanh nghiệp. Dựa vào số lao động này, doanh
nghiệp sẽ tiếp tục vòng đời của mình. Số người lao động được giữ lại đương nhiên
sẽ tiếp tục cuộc sống bình thường của họ và của gia đình họ. Bên cạnh đó, số
người lao động bị sa thải lại được thủ tục phục hồi hỗ trợ một phần, gián tiếp qua
doanh nghiệp. Doanh nghiệp được phục hồi sẽ có chính sách đảm bảo cho người
lao động hưởng lương cần thiết trong giai đoạn chưa có việc cũng như hỗ trợ tìm
việc làm mới cho họ.
Có thể nói, mặc dù phục hồi doanh nghiệp không triệt tiêu hoàn toàn nguy
cơ tỷ lệ thất nghiệp đột ngột tăng lên do phá sản nhưng nó lại giải quyết được bài
toán kinh tế cho người lao động. Qua đó nó hạn chế gia tăng tỉ lệ đói nghèo, bất
bình đẳng cũng như tệ nạn xã hội.

2.3. Phục hồi hoạt động của doanh nghiệp góp phần làm thay đổi nhận
thức về phá sản
Trước đây, khi chưa có thủ tục phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, phá
sản chỉ đơn thuần làm nhiệm vụ chính của nó: Loại bỏ các doanh nghiệp làm ăn
19


12
còn với
Continental Airlines, hai năm rưỡi sau khi phá sản, công ty này trở thành một hãng

11
Luật Phá sản đầu tiên của Anh (do Vua Henry VIII phê chuẩn năm 1542) là đạo luật có mục tiêu chống
lại các cá nhân gây ra phá sản, theo đó, nước Anh đã bỏ tù các con nợ. (Nguồn: Viên Nghiên cứu Khoa học
thị trường và giá cả. Luật Phá sản của Trung Quốc và một số nước Tây Âu, Hà Nội năm 1990, tr. 97)
12
Website:
20 hàng không độc lập và hiện là hãng hàng không lớn thứ 9 trên thế giới
13
. Phá sản
không còn là tội ác hay hình phạt nữa, trái lại, phá sản đang dần trở thành một
phương án chiến lược của những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ muốn tìm đường
quay lại để hoạt động một cách hiệu quả và thành công hơn.
3. Pháp luật về phá sản và những quy định về phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp
3.1. Pháp luật về phá sản
3.1.1. Khái niệm về pháp luật phá sản
Pháp luật về phá sản là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những
mối quan hệ xã hội phát sinh từ hoặc liên quan đến tình trạng phá sản của doanh
nghiệp.
Một doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh, như đã phân
tích ở trên, thường trải qua nhiều giai đoạn từ hình thành, phát triển, hưng thịnh và
tiêu vong. Khi gặp khó khăn, doanh nghiệp nào cũng phải tìm kiếm giải pháp tháo
gỡ để vượt qua. Để hạn chế những tác động tiêu cực cho xã hội, cho chủ nợ, cho

quyết hàng loạt vấn đề, từ khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, nộp đơn
đề nghị Tòa án mở thủ tục phá sản … cho đến khi thanh lý xong tài sản của doanh
nghiệp đó. Nói cách khác, một doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nếu chưa được Tòa án
mở thủ tục phá sản thì những quy định của pháp luật phá sản chưa ảnh hưởng đến
doanh nghiệp này. Điều này có nghĩa là khi chưa mở thủ tục phá sản thì doanh
nghiệp này vẫn có thể bị chủ nợ bắt giữ, truy đòi tài sản và thậm chí có thể bị chủ
nợ áp dụng cả “luật rừng” để trừng trị. Chỉ khi được Tòa án mở thủ tục phá sản,
doanh nghiệp con nợ mới chính thức được pháp luật bảo vệ.
3.1.2. Vai trò của pháp luật phá sản
Như vậy, pháp luật phá sản ra đời là một tất yếu khách quan. Bằng việc ban
hành pháp luật về phá sản, tất cả những vấn đề liên quan đến tình trạng phá sản của
doanh nghiệp sẽ được pháp luật điều chỉnh. Pháp luật phá sản là công cụ, là vũ khí
sắc bén của Nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế thị trường nói chung và quản
lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng.
Cùng với sự phát triển của pháp luật nói chung, pháp luật về phá sản qua
các giai đoạn phát triển của nền kinh tế - xã hội cũng có sự thay đổi, hoàn thiện về
mặt nội dung. Do đó, pháp luật về phá sản của một nước cũng có những thay đổi
về nội dung qua năm tháng. Pháp luật về phá sản của các nước khác nhau cũng có
sự khác nhau về mục tiêu, về nội dung cũng như về thủ tục. Ví dụ, Luật phá sản
đầu tiên của Anh năm 1542 có mục tiêu là trừng phạt con nợ và vào thời kỳ này,

Trích đoạn Dự báo về tình hình phá sản của doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới Những bất cập trong các quy định về phục hồi hoạt động của doanh nghiệp Khẳng định rõ mục tiêu của luật phá sản Việt Nam là phục hồi hoạt động của
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status