Đăng ký nhãn hiệu tại thị trường nước ngoài (Hoa Kỳ) và những vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam - Pdf 23

LỜI NÓI ĐẦU
Là người Việt Nam ai chẳng quen thuộc với những câu ca dao xưa, trong
mỗi lời ca đã dần hình thành những nếp ý thức trong tư tưởng của mỗi con
người trong chúng ta:
“ Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng
Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông”
Hay:
“Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây”
Đã thành thông lệ, nói đến chiếu thì phải là Nga Sơn, nói đến vải tơ thì phải
là Nam Định…Trong mỗi lời ca ấy là niềm tự hào của người lao động bao đời
tại những làng nghề truyền thống, những người đã bao đời gìn giữ và đưa những
sản phẩm của quê nhà ra khỏi luỹ tre làng để đi vào đời sống từng người dân
Việt.
Ngày nay trong công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất, hàng nghìn
doanh nghiệp với hàng triệu những người lao động đang hăng say lao động miệt
mài vì sự nghiệp đổi mới đất nước, góp phần mang tiếng nói Việt Nam đi tới với
bạn bè năm châu. Không thể phủ nhận rằng những sản phẩm của chúng ta đã và
đang từng bước có mặt ở những thị trường vốn rất khó tính như Nhật Bản, EU
và đặc biệt là thị trường Mỹ. Bên cạnh yếu tố chất lượng, đâu còn là yếu tố để
giúp hàng hoá “Made in Vietnam” thực sự tìm ra chỗ đứng trên thị trường cạnh
tranh đầy khốc liệt này? Chưa bao giờ vấn đề nhãn hiệu sản phẩm lại trở thành
mối quan tâm lớn đối với doanh nghiệp và cả Nhà nước như trong giai đoạn hội
nhập hiện nay, khi diễn ra một loạt các tranh chấp liên quan nhãn hiệu của các
doanh nghiệp Việt Nam thời gian vừa qua tại thị trường số một của Việt Nam,
thị trường Hoa Kỳ. Thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận lại những vấn đề
pháp lý liên quan tới đăng ký nhãn hiệu tại thị trường Hoa Kỳ và trên cơ sở đó
tổng kết những vấn đề đặt ra đối với những doanh nghiệp xuất nhập khẩu của
Việt Nam.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này đối với thực tiễn, em đã
mạnh dạn chọn đề tài : “Một số vấn đề pháp lý liên quan tới đăng ký nhãn

nổi tiếng đến nỗi bị sao chép và làm hàng giả. Nhờ việc kinh doanh phát đạt thời
Trung Cổ mà việc sử dụng dấu hiệu để phân biệt hàng hoá của các thương gia và
các nhà sản xuất đã khá phát triển
1
. Tuy vậy tầm quan trọng về mặt kinh tế của
chúng vẫn còn hạn chế.
Trong thương mại quốc tế hiện nay, nhãn hiệu bắt dần xác lập một vai trò
quan trọng. Nhãn hiệu hàng hoá với tư cách là một trong những đối tượng của
quyền sở hữu trí tuệ được rất nhiều các Công ước quốc tế về sở hữu công nghiệp
đề cập đến. Tuy nhiên các công ước này thường không đưa ra một khái niệm cụ
thể về nhãn hiệu hàng hoá mà chỉ quy định những điều khoản liên quan tới việc
bảo hộ các đối tượng của sở hữu công nghiệp như Công ước Paris năm 1883,
hoặc thiết lập hệ thống quốc tế về đăng ký nhãn hiệu hàng hoá như Thoả ước
Madrid 1891. Tuy nhiên sự ra đời của Tổ chức thương mại Thế giới WTO năm
1995 cùng với Hiệp định TRIPS - Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên
1
trang 9,10 theo “ Cẩm nang sở hữu trí tuệ”, bản dịch của Trần Hữu Nam, biên tập Hoàng Văn
Tân, Cục sở hữu trí tuệ theo giấy phép xuất bản số 94/QĐ-CXB của Bộ Văn hóa Thông Tin cấp
ngày 8-4-2005
quan đến quyền sở hữu trí tuệ - đã đánh dấu một bước ghi nhận quan trọng trong
nhận thức về nhãn hiệu hàng hoá. Hiệp định TRIPS đã không dừng lại ở việc
quy định các nguyên tắc bảo hộ hay cơ chế bảo hộ như các điều ước quốc tế
trước kia mà còn bao gồm các quy định chi tiết về khái niệm, phạm vi và dấu
hiệu của nhãn hiệu hàng hoá, cụ thể:
“ Tất cả những dấu hiệu bất kỳ hoặc tập hợp các dấu hiệu cho phép phân
biệt các sản phẩm và dịch vụ của một doanh nghiệp với các sản phẩm và dịch vụ
của các doanh nghiệp khác đều có thể đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Các dấu hiệu
này có thể là tên, chữ cái, chữ số, các yếu tố hình dạng hoặc tổ hợp màu sắc”.
2
Xét dưới góc độ pháp luật quốc tế, nhãn hiệu hàng hóa thường được quy

tố có thể được đăng ký làm nhãn hiệu hàng hoá. Có thể nói nước Mỹ có cách
tiếp cận rất rộng khái niệm nhãn hiệu hàng hoá trên cơ sở chỉ chú trọng đến mục
đích phân biệt hàng hoá mà không quá quan tâm tới hình thức thể hiện của nó.
1.2 Các yếu tố cấu thành nhãn hiệu hàng hoá:
Theo những phân tích trước đó, cách tiếp cận của pháp luật Hoa Kỳ cũng
tuân theo xu thế mở của cách tiếp cận cảu pháp luật quốc tế hiện đại trong quy
định về nhãn hiệu hàng hoá. Như vậy theo xu hướng quốc tế hiện nay, các dấu
hiệu có thể được đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá là rất phong phú. Nó có thể
là bất kỳ một yếu tố nào có khả năng phân biệt của hàng hoá, dịch vụ của doanh
nghiệp này với doanh nghiệp cùng loại khác. Trên tinh thần đó ta có thể phân
loại một só dấu hiệu hiện nay được sử dụng làm nhãn hiệu hàng hoá như sau:
- Từ ngữ: Bao gồm tên công ty, tên địa lý, và bất kỳ từ ngữ nào, bất kể tự
tạo hay không và khẩu hiệu. Thông thường các chuyên gia thường áp dụng 4
cách đặt tên nhãn hiệu : i) Sử dụng từ tự tạo – đó là từ được tổ hợp từ các ký tự,
tạo thành một từ mới phát âm được và không có trong từ điển ví dụ như Yahoo,
Elead, Coke… ii) Sử dụng từ thông dụng: ví dụ Dream, Elite, Nam Phương,
Ông Thọ… iii) Sử dụng từ ghép: ví dụ Vinamilk, Thinkpad… iv) Sử dụng từ
viết tắt: là những từ thông dụng được tạo thành từ những chữ cái đầu tiên của
tên công ty, từ viết tắt phát âm được và mang một thông điệp nào đó, ví dụ
VNPT, FPT, IBM, LG…
Ở Mỹ và Châu Âu, họ gia đình thường được dùng phổ biến làm tên công ty
hay nhãn hiệu gắn trên hàng hoá dịch vụ. Tuy nhiên, đa số các nước, kể cả Mỹ
và Châu Âu không cho phép đăng ký các họ gia đình phổ thông làm nhãn hiệu
hàng hoá vì thiếu tính phân biệt, đồng thời có thể gây nhầm lẫn cho khách hàng.
- Chữ cái và con số: Đây là một dạng nhãn hiệu hàng hoá phổ biến nhưng không
vì thế mà bất kỳ chữ cái hay con số nào cũng có thể đăng ký làm nhãn hiệu hàng
hoá, các chữ cái đứng đơn lẻ và không được cách điệu thường bị đa số pháp luật
các nước và pháp luật quốc tế coi là không có tính phân biệt. Theo pháp luật
Hoa Kỳ, các chữ cái, chữ số và các chữ kết hợp với nhau không có khả năng
phát âm được như một từ ngữ thì không được đăng ký trử khi nó được thừa nhận

thanh trong việc giúp người tiêu dùng phân biệt và nhận thấy sản phẩm quen
dùng. Cho đến nay, mới chỉ có một mùi được đăng ký cho một số loại hàng hoá
đặc thù nhất định. Đó là mùi đặc trưng ( hay còn gọi là những mùi cơ bản) mà
không cần mô tả thì ai cũng có thể nhận ra chúng, ví dụ mùi vanilla đăng ký cho
một loại bánh kẹo hay nhãn hiệu, mùi cỏ mới cắt được đăng ký cho bóng tennis.
- Các dấu hiệu và hình ảnh ba chiều: Đây là loại nhãn hiệu hàng hoá rất được
các doanh nghiệp ưa chuộng. Các dấu hiệu và hình ảnh ba chiều thường có khả
năng tạo ra ấn tượng mạnh mẽ, lôi cuốn, dễ in sâu trong tâm lý người tiêu dùng
và có khả năng phân biệt rất cao. Ví dụ: hình con ngựa bay đúc nguyên khối của
xe Rolls-Royce, hình con sư tử đứng hai chân nổi của xe Peugeot, ngôi sao ba
cánh nổi của Mercedes. Tuy vậy, dạng điển hình nhất của các dấu hiệu ba chiều
là hình dáng bao bì hoặc hàng hoá.
- Những dấu hiệu khác ( không nhìn thấy được): Về bản chất, lý thuyết những
dấu hiệu không nhìn thấy được có khả năng đăng ký làm nhãn hiệu hàng hoá
được phát triển dựa trên tính mở của khái niệm nhãn hiệu hàng hoá như quy
định của TRIPS, EU và Hoa Kỳ. Những dấu hiệu này có thể nhận biết qua xúc
giác thường dành để gắn lên hàng hoá cho những người khiếm thị nhận biết
hàng hoá lựa chọn. Như đã phân tích trên đây, hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ
chỉ chú trọng đến tính phân biệt của một dấu hiệu nào có thể giúp phân biệt hàng
hoá,dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp khác
đều có thể coi là nhãn hiệu hàng hoá
1.3 Điều kiện bảo hộ của nhãn hiệu:
Quan điểm của pháp luật Hoa Kỳ về nhãn hiệu hàng hoá là dựa trên cơ sở
chức năng và mục đích sử dụng của nhãn hiệu hàng hoá. Nhưng không phải bất
kỳ dấu hiệu nào cũng có thể được bảo hộ như là nhãn hiệu hàng hoá. Có một số
yêu cầu nhất định mà cần phải đáp ứng mới được các cơ quan chức năng có
thẩm quyền của nước đăng ký cho phép đăng ký và bảo hộ. Nhìn chung có thể
chia ra làm 3 loại yêu cầu mang tính chuẩn mực toàn cầu như sau:
- Loại yêu cầu thứ nhất liên quan đến chức năng cơ bản của một nhãn hiệu
hàng hoá, đó là chức năng phân biệt của một doanh nghiệp với hàng hoá, dịch

(1) Được sử dụng gắn liền với hàng hoá của người nộp đơn đăng ký chỉ đơn
thuần mang tính mô tả hoặc mô tả sai lệch.
(2) Được sử dụng gắn liền với hàng hoá của người nộp đơn đăng ký chủ yếu chỉ
là hướng dẫn địa lý
(3) Được sử dụng gắn liền với hàng hoá của người nộp đơn đăng ký chủ yếu là
những hướng dẫn địa lý sai lệch
(4) Gần như là một tên họ
(5) Chỉ đơn thuần mô tả chức năng của hàng hoá
Doanh nghiệp cần những quy định trên đây để xem xét xem nhãn hiệu của
mình có đủ điều kiện đăng ký bảo hộ hay không theo pháp luật nước Mỹ để
tránh những khó khăn không cần thiết khi bị từ chối.
1.4 Chức năng của nhãn hiệu
- Chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ:
Người tiêu dùng chọn mua hàng hóa, dịch vụ dựa trên dấu hiệu hay nhãn
hiệu hàng hóa, dịch vụ. Như vậy để người tiêu dùng có thể phân biệt một sản
phẩm, một loại hình dịch vụ thì nhãn hiệu phải thông tin cho người tiêu dùng về
người thực sự đã sản xuất ra sản phẩm hoặc người bán sản phẩm hoặc nhà cung
cấp dịch vụ.
Chức năng chỉ dẫn nguồn gốc như đã nêu trên cho thấy nhãn hiệu phân biệt
hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp này với hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp
khác; chỉ khi nhãn hiệu cho phép người tiêu dùng phân biệt sản phẩm, dịch vụ
được cung cấp dưới nhãn hiệu đó với những hàng hóa, dịch vụ của các doanh
nghiệp khác bán trên thị trường thì lúc đó nhãn hiệu đã hoàn thành chức năng
này. Điều này cho thấy không thể tách biệt chức năng phân biệt và chức năng
chỉ dẫn nguồn gốc. Đây là hai chức năng tuy khác nhau nhưng luôn phụ thuộc
lẫn nhau và trong thực tế luồn cần được xem xét cùng nhau.
- Chức năng đảm bảo chất lượng:
Mục đích chính của nhãn hiệu là chỉ dẫn nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ.
Nếu một nhãn hiệu được sử dụng nhiều lần, người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ
sẽ nghĩ rằng hàng hóa, dịch vụ gắn cùng nhãn hiệu sẽ có cùng chất lượng. Người

quốc tế. Bảo hộ nhãn hiệu tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp quảng
bá, lưu thông, bảo vệ và phát triển các sản phẩm của mình trên thị trường nội địa
và quốc tế, đồng thời cũng bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh để
thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế. Bảo hộ nhãn hiệu - bảo hộ tài sản trí tuệ
là việc làm không thể thiếu đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong
việc xây dựng và phát triển thị trường. Bảo hộ có hiệu quả đối với nhãn hiệu góp
phần khuyến khích đầu tư và tạo niềm tin cho nhà đầu tư trong hoạt động của
mình.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, bảo hộ nhãn hiệu góp phần thúc đẩy quá
trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, vì trong quá trình hội nhập, Việt Nam
phải tham gia vào các tổ chức quốc tế. Bảo hộ nhãn hiệu có vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, cho phép chống lại việc sản xuất và
buôn bán hàng giả, tránh cho người tiêu dùng không bị lừa dối.
Ngoài ra, bảo hộ nhãn hiệu còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của các
doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân,
phù hợp với nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, trong đó doanh
nghiệp nhà nước là thành phần chủ đạo.
Bên cạnh đó những lợi ích thiết thực mà doanh nghiệp có thể nhận được
khi đăng kí nhãn hiệu hàng hóa ở nước ngoài:
- Mở rộng phạm vi bảo hộ, chống hành vi giả mảo và cạnh tranh không lành
mạnh:
Việc đăng ký nhãn hiệu tại các quốc gia khác nhau cho phép khả năng nhãn
hiệu được bảo hộ trên một phạm vi rộng lớn hơn xét về mặt địa lý. Doanh
nghiệp Việt Nam không đăng ký bảo hộ kịp thời nhãn hiệu của mình tại nước
ngoài thì kế hoạch mở rộng phạm vi hoạt động ra nước ngoài có thể là một dự
định mang nhiều rủi ro, bởi vì bất kỳ ai đăng ký trước nhãn hiệu của doanh
nghiệp Việt Nam tại một nước nào đó sẽ có quyền ngăn cản doanh nghiệp Việt
Nam sử dụng thương hiệu của chính mình tại nước đó.
Hơn thế nữa động cơ làm giàu bất hợp pháp, kiến thức pháp luật hạn chế
cộng với những kẽ hở trong khung pháp luật đã dẫn đến một thực tế: Hàng giả

cao của xã hội
- Lợi thế khi cung cấp bằng chứng tại toà án:
Chủ sở hữu nhãn hiệu có thể dễ dàng chủ động yêu cầu toà án ở nước ngoài
tiến hành xử lý các hành vi xâm phạm nhãn hiệu của mình, bởi vì văn bằng bảo
hộ nhãn hiệu chính là căn cứ để doanh nghiệp có thể tiến hành kiện tụng tại toà
án ở nước ngoài.
- Thúc đấy hợp tác, liên doanh liên kết quốc tế và chuyển giao công nghệ:
Nhờ giá trị có được từ tiềm năng khai thác thương mại của nhãn hiệu hàng
hoá trên thị trường mà quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá được xác định giá trị
và trở thành tài sản góp vốn khi liên doanh, liên kết góp vốn, phân phối sản
phẩm. Một số nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam được xác định giá trị tới
vài triệu USD và dùng để góp vốn liên doanh như nhãn hiệu VISO cho sản
phẩm bột giặt và P/S cho sản phẩm kem đánh răng…
Với việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu uy tín của doanh nghiệp tại nước ngoài,
doanh nghiệp có thể thu được tiền bản quyền đối với nhãn hiệu của mình thông
qua hình thức li-xăng hoặc chuyển nhượng nhãn hiệu của mình cho một đối tác
thứ ba tại nước ngoài. Chẳng hạn, Công ty Giầy thêu may An Phước đã phải
thanh toán phí li-xăng cho chủ sở hữu nhãn hiệu “PIERRE CARDIN” khi gắn
nhãn hiệu này vào các sản phẩm quần áo của mình.
- Nhận được tiền bồi thường thiệt hại :
Thực tiễn tại Việt Nam và trên thế giới cho thấy, doanh nghiệp có thể yêu
cầu bên xâm phạm phải bồi thường do gây ra thiệt hại đối với nhãn hiệu đã được
đăng ký của mình, thậm chí số tiền bồi thường có thể gấp vài lần so với mức
thiệt hại thực tế. Ngoài ra, bên xâm phạm phải bồi thường cả chi phí luật sư do
chủ sở hữu nhãn hiệu thuê.
- Được sử dụng biểu tượng ®:
Chỉ những nhãn hiệu đã được đăng ký bảo hộ mới được sử dụng biểu
tượng ®. Biểu tượng này có mục đích khuyến cáo rằng nhãn hiệu đã được bảo
hộ độc quyền. Như vậy, bên xâm phạm nhãn hiệu sẽ không có lý do để biện hộ
cho hành vi xâm phạm của mình là vô ý để tránh việc phải bồi thường thiệt hại.

Chính vì thế, việc nghiên cứu các quy định pháp luật của mỗi quốc gia bên cạnh
những yếu tố khác là vấn đề cần thiết
1. Quy định chung của pháp luật Hoa Kỳ về đăng ký nhãn hiệu:
1.1 Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp:
Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp được ký kết ngày
20/03/1883 tại Paris và đã qua nhiều lần xem xét và sửa đổi vào các năm 1909,
1911, 1925, 1934, 1967, 1979. Đến nay công ước này đã có 164 thành viên tham
gia. Việt Nam và Hoa Kỳ đều là thành viên công ước
Các quy định của công ước Paris đề cập đến 3 vấn đề lớn : (i) nguyên tắc
đối xử quốc gia, (ii) quyền ưu tiên, (iii) một số nguyên tắc chung đối với hệ
thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp mà các thành viên tham gia phải tuân
theo
1.2 Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ (TRIPS):
Có thể nói Hiệp định TRIPS đã khẳng định lại và mở rộng các chuẩn mực
và quy định của Công ước Paris và Công ước Berne, làm thay đổi bộ mặt của
luật sở hữu trí tuệ. Điều quan trọng hơn cả đây là điều ước quốc tế đầu tiên quy
định hệ thống các hình phạt đối với các thành viên không đảm bảo sự bảo hộ tối
thiểu về quyền sở hữu trí tuệ, kể cả các tiêu chuẩn tối thiểu về nghĩa vụ thực thi
quyền. Các hình phạt này hoàn toàn không có trong Công ước Paris.
Ngoài ra Hiệp định TRIPS cũng lần đầu tiên đưa ra một nguyên tắc mới là
nguyên tắc “đối xử tối huệ quốc” (MFN): “ bất kỳ một sự ưu tiên, chiếu cố đặc
quyền hoặc sự miễn trừ nào được một thành viên dành cho một công dân của bất
kỳ nước nào khác cũng phải được lập tức và vô điều kiện dành cho công dân của
tất cả các thành viên khác” (Điều 4)
Với mục đích chống hàng giả và bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, Hiệp định
TRIPS quy đinh các nguyên tắc tổng quát về thủ tục bảo hộ một cách thoả đáng
và hiệu quả quyền sở hữu công nghiệp tại các nước thành viên. Phần III và IV
của Hiệp định nêu rõ rằng các nước thành viên phải quy định trong luật pháp
của quốc gia mình các thủ tục cho phép áp dụng các biện pháp có hiệu quả đối

Hệ thống đăng ký nhãn hiệu hàng hoá:
• Xét nghiệm đơn
• Thông báo cho người nộp đơn các lý do từ chối đăng ký nhãn hiệu hàng hoá
• Cơ hội hợp lý dành cho người nộp đơn trình bày ý kiến về thông báo đó
• Công bố nhãn hiệu hàng hoá trước hoặc ngay sau khi nhãn hiệu hàng hoá
được đăng ký
• Cơ hôi hợp lý dành cho những người có liên quan đươc yêu cầu huỷ bỏ hiệu
lực đăng ký nhãn hiệu hàng hoá.
Thời han hiệu lực:
Khoản 8 Điều 6 Hiệp định Việt-Mỹ ghi rõ: “ Mỗi bên quy định rằng đăng
ký ban đầu của một nhãn hiệu hàng hoá có thời hạn ít nhất 10 năm và được gia
hạn không hạn chế số lần, mỗi lần gia hạn có thời hạn không ít hơn 10 năm, khi
các điều kiện gia hạn được đáp ứng”
Điều kiện duy trì hiệu lực của việc đăng ký: Khoản 9 Điều 6 Hiệp định ghi
rõ:
“ Mỗi bên yêu cầu việc sử dụng thực sự nhãn hiệu hàng hoá là điều kiện
để duy trì hiệu lực của việc đăng ký ( tuy nhiên, đây không phải là một điều kiện
để được nộp đơn). Việc đăng ký có thể bị đình chỉ hiệu lực do không sử dụng
sau thời gian ít nhất là 3 năm liên tục không sử dụng , trừ trường hợp chủ nhãn
hiệu hàng hoá chứng minh được rằng việc không sử dụng đó là có lý do chính
đáng vì có những cản trở đối với việc sử dụng đó”.
Như vậy, để tạo vị thế vững chắc trên thị trường Mỹ xuất phát từ khiá cạnh
nhãn hiệu hàng hoá, các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng
Công ước quốc tế Paris 1967 và Hiệp định thương mại Việt-Mỹ để nắm bắt các
tiêu chuẩn cơ bản đối với việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá.
1.4 Luật nhãn hiệu hàng hoá Hoa Kỳ Lanham Act 1946
Đạo luật Lanham ra đời đánh dấu một bước hoàn thiện về pháo luật bảo hộ
nhãn hiệu hàng hoá ở Hoa Kỳ. Luật này đã được sửa đổi nhiều lần, sửa đổi quan
trọng nhất vào năm 1988 (Trademark Law Revision Act of 1988). Bổ sung cho
đạo luật này, năm 1995, chính quyền Liên Bang đã ban hành đạo luật về bảo vệ

USPTO.
• Khi doanh nghiệp đã được USPTO cấp Giấy chứng nhận đăng ký bảo hộ
nhãn hiệu hàng hoá, doanh nghiệp có quyền sử dụng kí hiệu ® sau hàng hoá
hoặc dịch vụ gắn liền với nhãn hiệu đã đăng ký. Trong khi đó, nếu doanh nghiệp
đăng ký nhãn hiệu tại các tiểu bang thì doanh nghiệp chỉ được sử dụng kí hiệu
TM hay SM sau nhãn hiệu của mình.
• Những doanh nghiệp được cấp đăng ký tại USPTO có quyền ngăn cản
người khác sử dụng nhãn hiệu của mình. Việc ngăn cản được thực hiện bằng hai
cách. Thú nhất, USPTO sẽ từ chối bảo hộ những nhãn hiệu hàng hoá giống hoặc
tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá được bảo hộ. Thứ hai,
nhãn hiệu hàng hoá đó sẽ được lưu trữ trong các cơ sở dữ liệu, qua các dịch vụ
kiểm tra, các doanh nghiệp khác sẽ tránh dùng những nhãn hiệu hàng hoá đã
được bảo hộ.
• Chủ sở hữu của nhãn hiệu hàng hoá được bảo hộ theo luật Liên bang có
thể nhận được sự trợ giúp vô giá của Hải quan Hoa Kỳ trong việc ngăn cản nhập
khẩu các hàng hoá vi phạm nhãn hiệu. Tuy nhiên, Hải quan Hoa Kỳ không mặc
nhiên có nghĩa vụ đó, trừ khi chủ nhãn hiệu đã lưu hồ sơ nhãn hiệu được bảo hộ
hợp pháp của mình tại Hải quan và trong nhiều trường hợp phải cùng Hải quan
theo dõi và chặn đứng các hoạt động nhập khẩu phạm pháp nêu trên
• Có được một Giấy chứng nhận do USPTO cấp sẽ giúp cho chủ nhãn hiệu
hàng hoá tránh khỏi chi phí và công sức đưa ra những thủ tục chứng minh về
tính hiệu lực của nhãn hiệu hàng hoá, quyền sở hữu của mình.
Ngoài ra với đặc điểm là một nước theo hệ thống pháp luật bất thành văn
( Common Law), ngoài những quy định trong các văn bản luật (Enacted Law),
Luật án lệ ( Cases Law) cũng là một nguồn quan trọng cho việc điều chỉnh các
quan hệ về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu hàng hoá nói riêng.
2. Nội dung bảo hộ sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu:
Đây là những nội dung liên quan trực tiếp tới vấn đề đăng ký nhãn hiệu
hàng hoá của doanh nghiệp tại thị trường Hoa Kỳ. Những quy định này được
công bố trên trang web của Văn Phòng Sáng chế và Nhãn hiệu hàng hoá Hoa Kỳ

• Đối với dịch vụ: nhãn hiệu phải được sử dụng hoặc thể hiện trong việc cung
ứng hoặc quảng cáo dịch vụ và dịch vụ phải được cung ứng trên thực tế
Trong trường hợp đã bắt đầu sử dụng nhãn hiệu trong hoạt động thương
mại, người nộp đơn có thể nộp đơn dựa trên cơ sở này và nộp theo đơn một cam
kết ( theo mẫu của tuyên bố) rằng nhãn hiệu đã được sử dụng trong thương mại
trong đó chỉ ra ngày sử dụng đầu tiên và ngày sử dụng đầu tiên trong thương
mại.
- Cơ sở “ý định sử dụng”
Người nộp đơn có ý định thật sự trong sử dụng nhãn hiệu cho những hàng
hoá hoặc dịch vụ được liệt kê trong đơn. Đơn nhãn hiệu dựa trên cơ sở “ý định
sử dụng” phải nộp kèm theo một cam kết rằng người nộp đơn có ý định thật sự
sử dụng nhãn hiệu trong thương mại.
Một lưu ý ở đây là, nếu việc nộp đơn trên cơ sở ý định sử dụng, người nộp
đơn phải bắt đầu bằng việc bắt đầu sử dụng thật sự trong thương mại trước khi
USPTO cấp bằng đăng ký nhãn hiệu. Điều đó có nghĩa là sau khi nộp đơn trên
cơ sở “ý định sử dụng” người nộp đơn sau đó phải nộp một mẫu tuyên bố khác
là “ Viện dẫn về việc sử dụng” (alllegation of Use) để chứng minh rằng việc sử
dụng đã bắt đầu.
- Cơ sở “Đăng ký nhãn hiệu hàng hoá trên cơ sở công ước quốc tế”:
Người nộp đơn mà nước xuất xứ là thành viên của bất kỳ công ước hay
thoả ước liên quan đến nhãn hiệu hàng hoá mà Mỹ cũng là thành viên, hoặc mở
rộng quyền trên cơ sở có đi có lại với Mỹ, có thể nộp đơn đăng ký tại Mỹ dựa
trên cơ sở đăng ký ở nước xuất xứ hay việc nộp đơn đăng ký tại một nước khác
cũng là thành viên công ước. Việc nộp đơn đăng ký tại Mỹ được thực hiện trong
vòng 6 tháng kể từ ngày đơn đăng ký đầu tiên được nộp ở nước ngoài.
Việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại Mỹ như trên sẽ không được chấp nhận
cho đến khi nhãn hiệu đó đã được đăng ký tại nước xuất xứ của người nộp đơn,
trừ phi người nộp đơn khẳng định là đã sử dụng nhãn hiệu đó trong thương mại.
Nguyên tắc đăng ký:
Nguyên tắc nộp đơn đầu tiên (First-to-file)

Nếu đơn được chuyển đến Internet, ngày nộp đơn là ngày đơn đến được
máy chủ của USPTO.
Trong trường hợp đơn và các tài liệu khác được nộp qua đường bưu điện,
dịch vụ chuyển phát nhanh của Mỹ, ngày nộp đơn là ngày tài liệu được gửi tại
bưu điện, thể hiện trên dấu gửi thư đi. Trong trường hợp không xác định được
ngày gửi, ngày USPTO nhận được đơn gửi qua bưu điện sẽ là ngày nhận đơn.
Vấn đề ngày nộp đơn sẽ có ý nghĩa rất quan trọng khi xảy ra tranh chấp
liên quan tới việc sở hữu một nhãn hiệu, mang lại lợi thế bước đầu cho doanh
nghiệp.
Thủ tục đăng ký qua mạng
Bước tiến hành đầu tiên trong quy trình đăng ký qua mạng sẽ là kiểm tra
nhãn hiệu qua mạng
Doanh nghiệp có thể kiểm tra xem nhãn hiệu của mình đã bị đăng ký chưa
bằng cách truy cập vào trang chủ của USPTO để tìm kiếm. Trong trang này có
Hệ thống đăng ký nhãn hiệu điện tử TEAS ( Trademark Electronic Application
System) chuyên cho quá trình đăng ký nhãn hiệu qua mạng.
Để đăng ký được, điều kiện đầu tiên doanh nghiệp cần là trình độ ngoại
ngữ. Mọi thủ tục và phương thức đăng ký khá phức tạp, nếu không thông thạo
ngoại ngữ doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần
một tài khoản tín dụng quốc tế để thanh toán chi phí thực hiện thủ tục đăng ký.
Số tiền cần thiết trong tài khoản có thể lên đến 2-3 ngàn USD.
Bước một, cần phải xác định nhãn hiệu muốn đăng ký, có chữ ký và biểu
tượng của nhãn hiệu sản phẩm. Màu sắc của nhãn hiệu rất quan trọng vì đây là
một trong những đặc điểm chính của nhãn hiệu. Bước hai, cần tìm kiếm xem
nhãn hiệu mình muốn đăng ký đã có chưa và có nhãn hiệu nào tương tự không?
TEAS cung cấp một hệ thống thông tin tìm kiếm TESS ( Trademark Electronic
Search System), cho phép tra cứu tất cả các nhãn hiệu đã từng đăng ký tại Mỹ
cũng như tình trạng hiệu lực của mỗi nhãn hiệu. Tại hệ thống này, bất cứ ai cũng
có thể tìm hiểu từng nhãn hiệu thương mại đã và đang đăng ký, chủ sở hữu và
thông tin liên quan khác. Các doanh nghiệp có tiếng ở Việt Nam rất nên kiểm tra


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status