BẢO đảm TÍNH đại DIỆN của QUỐC hội đáp ỨNG yêu cầu xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY - Pdf 34

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG MINH HIẾU

BẢO ĐẢM TÍNH ĐẠI DIỆN
CỦA QUỐC HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG MINH HIẾU

BẢO ĐẢM TÍNH ĐẠI DIỆN
CỦA QUỐC HỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15

Từ viết tắt
CHLB
ĐBQH
GS
HĐDT
MTTQ
NXB
QH
Tr.
TS
TSKH
TT-TV-NCKH
UB


7

1.1. Nội dung cơ bản của các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp
đến đề tài luận án

7

1.2. Đánh giá kết quả của các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp
đến đề tài luận án

13

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH ĐẠI DIỆN VÀ VIỆC BẢO
ĐẢM TÍNH ĐẠI DIỆN CỦA QUỐC HỘI

33

2.1. Khái niệm tính đại diện của Quốc hội

33

2.2. Tính đại diện của Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

59

2.3. Các yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

72

KẾT LUẬN

165

NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

168

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

169

PHỤ LỤC

182


ii

CÁC MINH HOẠ

Các bảng

Trang

Bảng 3.1: Số lượng ĐBQH pháp định qua các thời kỳ

101



112

Biểu đồ 3.7: Tỷ lệ tiếp nhận thông tin từ các cử tri ở các khu vực khác nhau

115

Biểu đồ 3.8: Việc sử dụng các nguồn thông tin để tìm hiểu ý chí, nguyện
vọng của cử tri

119

Các hình
Hình 1.1: Cấu trúc hình thức của tính đại diện của Quốc hội

58


1

MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Trong tiến trình thực hiện đường lối đổi mới đất nước, bắt đầu từ Hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (01/1994), Đảng ta đã khẳng định sự cần thiết
phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Sau đó, chủ trương
này liên tục được khẳng định tại các kỳ đại hội của Đảng. Gần đây nhất, Đại hội đại biểu
toàn quốc của Đảng lần thứ XI (01/2011) nhấn mạnh: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” và trong công cuộc đổi
mới đất nước, cần tiếp tục “đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

phương và lợi ích của quốc gia v.v.... Đây vốn là những vấn đề phức tạp, liên quan đến
rất nhiều khía cạnh khác nhau của thiết chế nghị viện từ quá trình bầu cử cho đến việc
tổ chức bộ máy và các hoạt động của Quốc hội. Và thực tế cho thấy dường như có mối
liên hệ giữa khả năng đại diện của Quốc hội với hiệu quả hoạt động của Quốc hội trong
việc thực hiện các chức năng lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của
đất nước. Việc ban hành các đạo luật chưa đạt yêu cầu trong thời gian gần đây được cho
là có một phần nguyên nhân do các cuộc thảo luận tại Quốc hội chưa phản ánh hết thực
tế của cuộc sống. Các hoạt động giám sát của Quốc hội chưa được như mong muốn của
cử tri trong nhiều trường hợp là do những mối quan hệ đại diện chồng chéo, làm giảm
động lực giám sát của các đại biểu Quốc hội.
Hơn thế nữa, việc tăng cường tính đại diện của Quốc hội còn đồng nghĩa với việc
mở rộng dân chủ, và do vậy có thể góp phần nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp và
hoạt động giám sát của Quốc hội. Đây là một phần trong những nội dung cơ bản của
việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong khi đó, các vấn đề về tính đại diện của Quốc hội nước ta lại là một trong
những nội dung ít được tập trung nghiên cứu và đổi mới trong thời gian vừa qua. Đã có
khá nhiều báo cáo và các đề án tập trung nghiên cứu việc đổi mới chức năng lập pháp,
giám sát, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước của Quốc hội nhưng chưa
có những chương trình, đề án nghiên cứu tổng thể liên quan đến việc bảo đảm tính đại
diện của Quốc hội để Quốc hội đại diện tốt hơn cho nhân dân.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đề tài: “Bảo đảm tính đại diện của Quốc
hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay” là một yêu cầu hết sức cấp thiết. Nội dung nghiên cứu cơ bản của đề tài này
tập trung đi sâu vào việc nghiên cứu, tìm hiểu, làm rõ tính đại diện của Quốc hội, việc


3
bảo đảm tính đại diện của Quốc hội; thực trạng việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội
ở Việt Nam; và các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện cơ chế bảo đảm tính đại diện của
Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

hội trong luận án được thực hiện trên cơ sở nền tảng phương pháp luận duy vật biện
chứng của triết học Mác – Lênin với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương
pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp phân tích theo hệ thống, phương pháp kết hợp
lý luận với thực tiễn, phương pháp lịch sử…
Phương pháp so sánh pháp luật được sử dụng trong luận án để so sánh, tìm hiểu
những đặc thù của việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội ở một số nước để từ đó đề
xuất những giải pháp nhằm tăng cường việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp
ứng yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Để có những luận cứ thuyết phục liên quan đến các lập luận về tính đại diện của
Quốc hội, phương pháp phân tích các trường hợp điển hình sẽ được áp dụng trong quá
trình nghiên cứu của đề tài này. Thông qua việc quan sát hoạt động của Quốc hội, các
thông tin về tiến trình làm việc, các tình huống thực tế trong hoạt động của Quốc hội sẽ
được ghi nhận để xây dựng các lập luận của đề tài
Để những lập luận của Luận án bảo đảm tính khoa học, tác giả Luận án đã sử
dụng phương pháp điều tra xã hội học nhằm thu thập số liệu về nhận thức của các đại
biểu Quốc hội đối với một số vấn đề thuộc nội dung của luận án. Việc điều tra xã hội
học được tiến hành vào tháng 5 năm 2013 tại kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khoá XIII với
số phiếu phát ra là 318 phiếu, số phiếu thu về là 310 phiếu. Các số liệu thu thập được
làm sạch và xử lý bằng phần mềm SPSS (xem thêm Phụ lục về Phiếu khảo sát việc bảo
đảm tính đại diện của Quốc hội).
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI VÀ Ý NGHĨA CỦA LUẬN ÁN
Luận án có những đóng góp mới như sau:
- Khẳng định tính đại diện của Quốc hội là một khái niệm liên quan đến các vấn
đề lý luận mang tính cơ bản về tổ chức và hoạt động của Quốc hội trong đó có cách hiểu
thuần tuý về mặt ngôn ngữ về khái niệm đại diện, về các vấn đề lý luận liên quan đến
chủ quyền nhân dân, về các lý luận về đại diện chính trị và về dân chủ đại diện. Để hiểu
tính đại diện một cách đầy đủ và có hệ thống, cần phải hiểu tính đại diện của Quốc hội
là tính chất các thành viên của Quốc hội do các cử tri trực tiếp bầu ra, có năng lực đại





6
- Để bảo đảm sự tự do trong việc xét đoán của các đại biểu Quốc hội và tăng
cường động lực đại diện của các đại biểu Quốc hội, cần ghi nhận nguyên tắc uỷ quyền
tự do, khôi phục các quy định về quyền miễn trừ trách nhiệm của các đại biểu Quốc hội;
về lâu dài áp dụng hình thức đại biểu Quốc hội chuyên trách đối với toàn bộ các đại biểu
Quốc hội;
- Để tăng cường điều kiện bảo đảm hoạt động của đại biểu Quốc hội trong việc
phản ánh ý chí chung của xã hội, cần bổ sung hình thức điều trần trong hoạt động của
Quốc hội và áp dụng nguyên tắc quyết định theo đa số nhưng bảo vệ ý kiến của thiểu số
trong quy trình, thủ tục làm việc của Quốc hội.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Luận án gồm có: Phần mở đầu; Bốn chương; Kết luận và Danh mục tài liệu tham
khảo:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài luận án
Chương 2: Cơ sở lý luận về tính đại diện của Quốc hội và việc bảo đảm tính đại
diện của Quốc hội;
Chương 3: Thực trạng việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội;
Chương 4: Các giải pháp và kiến nghị bảo đảm tính đại diện của Quốc hội đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.


7

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ
LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

đại diện là phương thức chủ yếu để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, Luận
án này được thực hiện trước khi công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa được thực hiện ở nước ta.
Thứ hai, Luận án tiến sỹ của Trương Thị Hồng Hà: Hoàn thiện cơ chế pháp lý
bảo đảm chức năng giám sát của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
bảo vệ vào năm 2007 (197 trang) [112].
Luận án đưa ra nhiều vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức và hoạt động của Quốc
hội và quyền giám sát tối cao của Quốc hội; nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức và hoạt
động của bộ máy giám sát của Nghị viện nước ngoài; đánh giá thực trạng của cơ chế
pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội; tìm ra nguyên nhân yếu kém của cơ
chế pháp lý, đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội. Mặc dù không nghiên cứu trực
tiếp về tính đại diện của Quốc hội nhưng trong phần cơ sở lý luận, tác giả đã dành một
dung lượng khá lớn để phân tích về tính đại diện và các biểu hiện của tính đại diện của
Quốc hội. Nhưng các phân tích này chủ yếu đề cập đến tính đại diện của Quốc hội theo
quan niệm truyền thống trong mô hình nhà nước Xô-Viết.
Thứ ba, Luận án tiến sỹ của Vũ Văn Nhiêm: Chế độ bầu cử ở nước ta: Những
vấn đề lý luận và thực tiễn, bảo vệ vào năm 2009 (221 trang) [128].
Luận án làm rõ cơ sở lý luận về chế độ bầu cử trong xã hội dân chủ nói chung và
ở Việt Nam nói riêng. Thực tiễn tổ chức thực hiện chế độ bầu cử ở Việt Nam; đưa ra
những kiến nghị nhằm đổi mới chế độ bầu cử để phát huy dân chủ. Luận án cũng dành
một dung lượng khá lớn để phân tích về việc bảo đảm tính đại diện của Quốc hội thông
qua cơ chế bầu cử. Tuy nhiên, đề tài mới chỉ đề cập đến chế độ bầu cử nên tính đại diện
của Quốc hội trong luận án chưa được đề cập ở góc độ tổng thể.
Thứ tư, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Quang Hương: Nâng cao hiệu quả hoạt
động và năng lực đại diện của đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay, bảo vệ năm 2006
(119 trang) [63].
Luận văn nghiên cứu về cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc nâng cao hiệu
quả hoạt động và năng lực đại diện của đại biểu Quốc hội. Đồng thời, Luận văn cũng



của Quốc hội chưa được nhiều nhà nghiên cứu chú trọng. Trong khi đó, ở nước ngoài,


10
việc nghiên cứu về tính đại diện của Quốc hội là khá phong phú, đa dạng. Ngoài các tác
phẩm kinh điển của Jean Jacques Rousseau, A. Hamilton, J.Madison, John Stuart Mill…
về dân chủ đại diện, trong thời gian gần đây đã có nhiều công trình tập trung nghiên cứu
về tính đại diện của Quốc hội.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu ở nước ngoài cũng có nhận xét tương tự rằng “đã
có nhiều công trình nghiên cứu về nghị viện tập trung vào thiết chế nghị viện và mối
quan hệ của nó với hành pháp nhưng có ít nghiên cứu tập trung vào mỗi quan hệ giữa
nghị sĩ với các công dân” [157].
Trực tiếp liên quan đến đề tài của luận án này có một số công trình nổi bật sau:
Thứ nhất, cuốn: “Chức năng đại diện của Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền”
(2007) do Văn phòng Quốc hội xuất bản [120]. Cuốn sách là tập hợp các bài viết tại Hội
thảo cùng tên được thực hiện vào năm 2007 với sự tham gia của các nhà nghiên cứu
trong nước và quốc tế. Các bài nghiên cứu trong Hội thảo này tập trung làm rõ khái niệm
chức năng đại diện và thực tiễn bảo đảm tính đại diện ở Quốc hội một số nước và Việt
Nam. Đây là tập hợp các bài nghiên cứu của nhiều tác giả khác nhau nên chưa hình
thành nên tính hệ thống các quan điểm về tính đại diện của Quốc hội.
Thứ hai, cuốn: “Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam” (2007) do GS.TSKH Đào Trí Úc làm chủ biên [13]. Các tác giả
của cuốn sách đã phân tích, làm rõ mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Trong đó, Quốc hội đóng một vai trò quan trọng. Mặc dù không
đi sâu phân tích về cơ sở lý luận của tính đại diện nhưng các nhà nghiên cứu đã cho rằng
để Quốc hội hoạt động hiệu quả trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì việc
bảo đảm tính đại diện của Quốc hội là rất quan trọng, là điều kiện nhằm bảo đảm chủ
quyền thuộc về nhân dân.
Thứ ba, cuốn: “Quốc hội Việt Nam trong Nhà nước pháp quyền” (2007) do
GS.TS Nguyễn Đăng Dung làm chủ biên [56]. Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân

[146]. Sách là một tuyển tập các bài nghiên cứu được phân chia theo tiến trình phát triển
của khái niệm đại diện chính trị, từ đại diện trước khi hình thành nền dân chủ đại diện,
cho đến các luận thuyết về dân chủ đại diện và các vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan
đến đại diện chính trị hiện nay. Do là một tuyển tập nên các bài nghiên cứu chưa có tính
hệ thống, xuyên suốt về các quan điểm về tính đại diện của Quốc hội.
Thứ tám, cuốn: Representation And Institutional Design, (2011) của Rebekah L.
Herrick [158]. Trong cuốn sách này, tác giả đã đi sâu phân tích những tác động của việc
thiết kế các thiết chế đối với tính đại diện của Quốc hội. Thông qua việc thông kê số
liệu, phân tích các xu hướng, tác giả đã đánh giá và phân tích ảnh hưởng của các yếu tố


12
như bầu cử, cơ cấu tổ chức của Quốc hội, nhiệm kỳ của Quốc hội v.v… tới việc bảo
đảm tính đại diện của Quốc hội. Đây là công trình nghiên cứu thực định, có giá trị tham
khảo cao nhưng phần lớn các số liệu được giới hạn trong phạm vi Nghị viện Liên bang
và một số tiểu bang của Hoa Kỳ.
1.1.3. Bài báo khoa học
Trong những năm vừa qua, đã có một số bài báo khoa học được đăng trên các tạp
chí chuyên ngành đề cập đến một số nội dung cụ thể về tính đại diện của Quốc hội nước
ta, trong đó, có thể nêu ra một số bài báo như sau:
Thứ nhất, bài: “Phát huy vai trò đại diện nhân dân của đại biểu Quốc hội trong
hoạt động lập pháp”, (2007) Tạp chí Cộng sản, của GS.TS. Trần Ngọc Đường [99]. Bài
viết đã tập trung phân tích về mối quan hệ giữa vai trò đại diện cho nhân dân của Quốc
hội và hoạt động lập pháp
Thứ hai, bài: “Bàn về tính đại diện nhân dân của Quốc hội”, (2001), Nghiên cứu
lập pháp, của Nguyễn Quang Minh [64]. Bài viết mang tính gợi mở về những vấn đề
cần nghiên cứu về tính đại diện nhân dân của Quốc hội, những biểu hiện của tính đại
diện của Quốc hội và các kiến nghị, giải pháp nhằm tăng cường tính đại diện nhân dân
của Quốc hội.
Thứ ba, bài: “Những yếu tố ảnh hưởng đến chức năng đại diện của Quốc hội”,

Quốc hội là xác định tính đại diện là một tính chất quan trọng của Quốc hội. Các nhà
nghiên cứu đều cho rằng tính đại diện là một trong những đặc tính quan trọng nhất của
Quốc hội. GS.TS Trần Ngọc Đường nhấn mạnh: “Tính đại diện cao nhất của nhân dân
xuyên suốt quá trình thực hiện các chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề trọng
đại của đất nước và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của nhà nước” [99]. Có nhà
nghiên cứu đã mạnh dạn cho rằng: “tính đại diện nhân dân là tính chất cơ bản nhất, đặc
trưng nhất, quan trọng nhất của Quốc hội nước ta” [64]. Những người khác lại khẳng
định: “Đại diện là “sứ mệnh” của Quốc hội - sứ mệnh bao trùm lên hoạt động lập pháp,
giám sát và các hoạt động khác của Quốc hội” [130]; “Tính đại diện đã mang lại tính
quyền lực nhà nước cho Quốc hội” [104]; hoặc “chức năng đại diện chính là cội nguồn
của các chức năng khác” của Quốc hội [102]. Không dừng lại ở việc nhận định, TS. Ngô
Huy Cương đi xa hơn khi phân tích: “chức năng đại diện là quan trọng nhất bởi nó xác
định vai trò, vị trí của Quốc hội. Còn các chức năng khác là sự phát triển logic từ chức
năng đại diện, mang tính phái sinh” [53]. Như vậy, có thể nói cơ sở của các nhận định


14
về tầm quan trọng của tính đại diện là ở chỗ Quốc hội là cơ quan được nhân dân bầu ra
để thay mặt nhân dân, thực thi quyền lực của nhân dân trong việc quản lý nhà nước, biến
ý chí của nhân dân thành pháp luật để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội vì lợi ích của nhân
dân và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Một điểm thống nhất khác trong các nghiên cứu về tính đại diện của Quốc hội đó
là phần lớn các nhà nghiên cứu đều nhận xét rằng, ở nước ta trong thời gian vừa qua
việc nghiên cứu về tính đại diện của Quốc hội còn chưa tương xứng với tầm quan trọng
của vấn đề này. TS. Nguyễn Quang Minh đã nhận xét rằng các công trình nghiên cứu
về Quốc hội thường ít quan tâm đề cập đến tính đại diện nhân dân của Quốc hội mà dành
sự quan tâm nhiều hơn đến các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội [64]. Tiến
sĩ Bùi Xuân Đức quyền cũng có nhận định tương tự:
“các nhà khoa học pháp lý dựa theo quy định trong Hiến pháp hiện hành […]
chỉ ra 3 chức năng cơ bản của Quốc hội là: chức năng lập pháp, chức năng

một cách “đồng dạng” thành phần của toàn xã hội [20], hoặc vì nếu xem đại diện như
một thuộc tính của Quốc hội thì đã mở quá rộng phạm vi của khái niệm này [6]. Củng
cố thêm, có tác giả đã chỉ ra những hoạt động cụ thể mà các đại biểu Quốc hội phải thực
hiện như là một phương diện hoạt động chính của mình như: Liên hệ chặt chẽ với cử tri,
chịu sự giám sát của cử tri; Thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của
cử tri với Quốc hội và các cơ quan Nhà nước hữu quan; Thực hiện chế độ tiếp xúc và
báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; Trả lời những yêu cầu và
kiến nghị của cử tri; Xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó (quy định tại Điều 97,
Hiến pháp 92). Từ đó, một số tác giả còn nhận định: “nếu xem đại diện là một tính chất
hay thuộc tính thì sẽ không nói lên được tầm quan trọng của đại diện, tính đại diện sẽ
không đầy đủ” [102, tr. 15].
Bên cạnh đó, cũng có tác giả lại quan niệm không có sự phân biệt giữa việc xem
đại diện là một thuộc tính hay là chức năng của Quốc hội. Điều này được thể hiện qua
nhận định sau đây của TS. Lương Minh Tuân: “Thuộc tính đại diện của Quốc hội là
chức năng quan trọng nhất mà đại biểu phải thực hiện” [44].
Mặc dù việc nhận định đại diện là một thuộc tính của Quốc hội được thừa nhận
một cách khá phổ biến, nhưng phần lớn các nhà nghiên cứu chưa đưa ra một khái niệm
cụ thể về thuộc tính này. Thay vào đó, phần lớn các tác giả tập trung phân tích những
biểu hiện của nó. Khi nghiên cứu về những thuộc tính của Quốc hội, TS. Trương Thị
Hồng Hà đã đưa ra ba biểu hiện cơ bản của thuộc tính đại diện là: (i) do nhân dân cả
nước trực tiếp bầu nên; (ii) thành phần đại biểu Quốc hội phản ánh một cách đầy đủ cơ
cấu của xã hội, và (iii) được biểu hiện thông qua việc thực hiện các chức năng, nhiệm


16
vụ của Quốc hội [112, tr. 28 - 36]. Cách thức tiếp cận này cũng được một số nhà nghiên
cứu khác chia sẻ tuy góc độ phân tích có sự khác biệt nhất định. Chẳng hạn, có tác giả
đã phân tích các biểu hiện của tính đại diện của Quốc hội thông qua: (i) các hoạt động
của đại biểu Quốc hội; (ii) các chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, và (iii) các hoạt động

Pháp (1789) gắn liền với tên tuổi của nhiều nhà triết học về chính trị pháp lý nổi tiếng
như Emmanuel Sieyes, John Stuart Mill, James Madison.
Về cơ bản, lý thuyết dân chủ đại diện được xây dựng trên cơ sở thừa nhận chủ
quyền thuộc về nhân dân như các lập luận của Rousseau. Tuy nhiên, chủ quyền nhân
dân chỉ có thể thực hiện được một cách hiệu quả trên thực tế thông qua những người đại
diện. Thậm chí, Emmanuel Sieyes, dựa trên các lập luận về ưu thế của sự phân công lao
động, còn khẳng định rằng dân chủ đại diện có nhiều điểm ưu việt hơn dân chủ trực tiếp
[159, tr. 50]. Chia sẻ quan điểm này, trong tác phẩm Người Liên bang nổi tiếng của
mình, James Madison đã nhận xét nền dân chủ trực tiếp chỉ phù hợp với các nhà nước
thành bang quy mô nhỏ và luôn nổi bật với những hỗn loạn và tranh cãi thường trực về
các quyết định vội vàng, nóng vội và không sáng suốt. Trong khi đó, một chính thể đại
diện được xây dựng như trong bản hiến pháp (của Hoa Kỳ) sẽ không chỉ cho phép xây
dựng một nền cộng hòa rộng lớn mà còn cho phép điều chỉnh quan điểm của những
người dân bình thường thông qua một bộ lọc là những người đại diện có trách nhiệm,
tinh hoa và thông thái, có thể nhận thức được những lợi ích đúng đắn nhất của đất nước
[131, tr. 43-45].
Từ những cơ sở lý luận về chủ quyền nhân dân và đại diện chính trị như trên, một
số nhà nghiên cứu nước ngoài đã đi sâu phân tích khái niệm về tính đại diện của Quốc
hội. Hanna Patkin, trong tác phẩm nổi tiếng của mình đã định nghĩa chung về đại diện
chính trị của Quốc hội là tính chất làm cho các tiếng nói, các ý kiến và các quan điểm
của người dân được thể hiện trong quy trình xây dựng chính sách. Hanna Patkin thậm
chí còn phân tích rất kĩ càng về cấu trúc của tính đại diện. Bà cho rằng đại diện có bốn
dạng cơ bản gồm: (i) Đại diện hình thức, (ii) đại diện biểu tượng, (iii) đại diện đồng
dạng, và (iv) đại diện nội dung [143]. Đây là cách thức tiếp cận có ảnh hưởng nhất hiện
nay về tính đại diện của Quốc hội.
Quan điểm cho rằng tính đại diện của nghị viện chính là đại diện cho các tiếng
nói, các ý kiến và các quan điểm của người dân cũng được nhiều nhà nghiên cứu khác
chia sẻ. Chẳng hạn, trong cuộc Hội thảo về chức năng đại diện và mối quan hệ giữa lập
pháp và hành pháp do Văn phòng Quốc hội và Dự án UNDP tổ chức tại thành phố Hồ
Chí Minh năm 2004, GS. John K. Johnson, Đại học Quốc gia New York cũng khẳng

Một tác giả khác đã tiến hành phân tích kĩ hơn các yếu tố bảo đảm tính đại diện
của Quốc hội với bốn yếu tố bảo đảm tính đại diện của Quốc hội là:
Một là, tính đại diện theo đảng phái là yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của
sự ủy trị;


19
Hai là, bảo đảm sự bình đẳng và cơ hội như nhau cho các đại biểu Quốc hội;
Ba là, cơ chế ràng buộc chế độ trách nhiệm của đại biểu trước cử tri đã bầu ra họ;
Bốn là, bảo đảm tính đại diện cho các tầng lớp “yếu thế: trong xã hội như phụ
nữ, dân tộc thiểu số, nông dân [130, tr. 26 - 27].
Một nghiên cứu khác lại phân tích những yếu tố đảm bảo tính đại diện của Quốc
hội thông qua một số yếu tố như:
Một là, cơ cấu đại biểu trong mỗi khóa Quốc hội là một trong những yếu tố quan
trọng xác định tính đại diện của Quốc hội;
Hai là, mô hình tổ chức một viện hay hai viện;
Ba là, chất lượng đại biểu Quốc hội là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với việc
thực thi vai trò đại diện của Quốc hội;
Bốn là, nâng cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trước cử tri, tạo cơ chế, kiểm
tra, giám sát của cử tri đối với các đại biểu Quốc hội [38, tr. 224 - 238].
Do việc xác định các yếu tố này chưa dựa trên các phân tích có tính hệ thống nên
rõ ràng còn thiếu một số yếu tố nhất định ảnh hưởng đến tính đại diện của Quốc hội.
Chẳng hạn như các yếu tố liên quan đến cách thức tổ chức và hoạt động của Quốc hội,
về tính công khai trong hoạt động của Quốc hội …
Việc xác định các yếu tố tác động đến tính đại diện của Quốc hội cũng được các
nhà nghiên cứu ở nước ngoài rất quan tâm. GS. John K. Johnson đề cập đến ba yếu tố
cơ bản ảnh hưởng đến tính đại diện của Quốc hội như sau:
Thứ nhất, hệ thống bầu cử. Theo đó, hệ thống tranh cử sẽ ảnh hưởng đến cách
các đại biểu Quốc hội đại diện cho các cử tri và tính độc lập của họ khi được bầu.
Thứ hai, hệ thống chính trị. Theo đó, mức độ ngăn cách và thống nhất giữa các


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status