LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HÀNH CHÍNH HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở CÔNG TY CỔ PHẦN THAN ĐÈO NAI – VINACOMIN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - Pdf 34

Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính

MỤC LỤC

Đặng Quang Minh


Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính

Đặng Quang Minh

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã và đang
tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế, thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa bảo vệ tổ quốc,
nhằm mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vì mục tiêu chung “Xây dựng đất nước ta dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”. Để
thực hiện được mục tiêu đó, đòi hỏi phải có sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn
dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc,
công việc có thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Nói đến cán
bộ tốt hay kém ở đây chính là nói đến phẩm chất nhân cách hay đó là cái Đức
và cái Tài của họ. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta rất quan tâm
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý từ Trung ương đến cơ sở. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung
phát triển năm 2011) đã nhấn mạnh: “Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương

quan thử thách và rèn luyện, phẩm chất và năng lực của họ chưa thực sự
tương xứng với công việc đang đảm nhiệm. Một số cán bộ do tác động tiêu
cực của kinh tế thị trường, nảy sinh hiện tượng không muốn làm công tác
Đảng, đoàn thể mà chỉ muốn làm công tác chính quyền, công tác quản lý kinh
tế. Do đó, để xây dựng và hoàn thiện nhân cách đội ngũ cán bộ, rất cần quan
tâm tới rèn luyện bản lĩnh chính trị, ý chí, đạo đức cách mạng và rèn luyện cả
về năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn cho đội ngũ cán bộ nhằm đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo đất nước trong tình hình mới.
Xuất phát từ những lý do nêu trên và là một cán bộ lãnh đạo, quản lý
thuộc Công ty Cổ phần Than Đèo Nai, tôi chọn vấn đề: “Hoàn thiện nhân
cách đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Công ty cổ phần Than Đèo Nai –
Vinacomin trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu và viết luận văn
tốt nghiệp kết thúc khóa học lớp Cao cấp Lý luận Chính trị - Hành chính tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
2


Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính

Đặng Quang Minh

2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về nhân cách đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở Công ty cổ phần Than Đèo Nai – Vinacomin. Trên cơ sở đó đề
xuất một số giải pháp hoàn thiện nhân cách cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý ở Công ty cổ phần Than Đèo Nai – Vinacomin hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Nhân cách đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Công ty cổ phần Than
Đèo Nai – Vinacomin.
4. Khách thể nghiên cứu

7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của luận văn gồm
có 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhân cách và nhân cách người cán
bộ lãnh đạo, quản lý.
Chương 2: Thực trạng nhân cách đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
Công ty cổ phần Than Đèo Nai – Vinacomin.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp góp phần xây dựng và hoàn
thiện nhân cách đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Công ty cổ phần Than
Đèo Nai – Vinacomin trong giai đoạn hiện nay.

4


Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính

Đặng Quang Minh

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN CÁCH VÀ NHÂN CÁCH
NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
1.1. Khái niệm chung về nhân cách và nhân cách người lãnh đạo,
quản lý.
1.1.1. Khái niệm về nhân cách và bản chất nhân cách
Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác
nhau như Triết học, Xã hội học, Tâm lý học, Đạo đức học, Giáo dục học, Y
học…Với mỗi ngành khoa học nhân cách lại được nghiên cứu dưới góc độ
tiếp cận khác nhau.
Tâm lý học Mác xít khẳng định bản chất nhân cách dựa trên luận điểm
nổi tiếng của C.Mác: “Bản chất của con người không phải là cái gì trừu tượng

nhân cách cũng biến đổi và phát triển theo. Những phẩm chất, giá trị đó phản
ánh những nội dung, tính chất của mối quan hệ xã hội cụ thể của mỗi con
người đang sống, đang hoạt động. Khi con người tham gia vào các quan hệ xã
hội như: quan hệ chính trị, kinh tế, giai cấp, gia đình, bạn bè, ứng xử giữa
người với người… thì dấu ấn, nội dung của các quan hệ xã hội đó được phản
ánh trong các phẩm chất tâm lý của nhân cách. Mỗi người không chỉ tham gia
vào một mối quan hệ mà tham gia vào nhiều mối quan hệ, những mối quan hệ
đó quy định vị thế của mỗi con người trong xã hội, đồng thời quan hoạt động
của họ cũng quy định nét khác biệt về nhân cách mỗi con người.
Xét về mặt sinh học, thực tế cho thấy con người khi mới sinh ra chưa
phải đã có nhân cách mà chỉ khi đạt tới một trình độ xã hội hóa nhất định, có
ngôn ngữ và biết tự nhận thức được bản thân mình thì nó mới trở thành nhân
cách. Quá trình hình thành nhân cách thường bắt đầu từ 2-3 tuổi; đến tuổi 1718 nhân cách đã được định hình và nó tiếp tục được phát triển, hoàn thiện
trong suốt cả cuộc đời. Giai đoạn sau phát triển hoàn thiện hơn giai đoạn
trước và càng về sau nhân cách càng được hoàn thiện. Nhân cách không chết
theo thể xác của con người mà mà được người khác đang sống trong xã hội kế
thừa, chọn lọc, duy trì và phát triển.

6


Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính

Đặng Quang Minh

Qua nghiên cứu, tìm hiểu quan điểm của các nhà tâm lý học Mác xít
cho thấy không có sự tách rời cái tự nhiên sinh học với cái xã hội. Nhân cách
được coi là sản phẩm của các quan hệ xã hội đồng thời cũng là sản phẩm của
sự tiến hóa, phát triển của cái tự nhiên.
C.Mác đã chỉ rằng: “Chính con người khi phát triển sản xuất vật chất

thể người. Đó là đơn vị cuối cùng, là cái đơn nhất tạo nên chính nó chứ không
phải là ai khác.
Thứ tư: Nhân cách biểu hiện giá trị xã hội của mỗi cá nhân con người
trước tác động của hiện thực khách quan và trong quá trình sống, hoạt động.
Nhân cách là “Một cấu tạo tâm lý mới” là “Một sản phẩm mới” của con
người trong hành trình hướng tới lý tưởng cao cả và những giá trị “Chân –
Thiên - Mỹ” của con người.
Con người tự nhiên sinh ra và mất đi theo quy luật sinh học, nhưng
nhân cách không mất đi mà tồn tại mãi mãi, phản ánh bản chất xã hội và trình
độ chinh phục, cải biến đời sống tự nhiên, xã hội và bản thân.
1.1.2. Khái niệm về nhân cách người lãnh đạo, quản lý
Dưới góc độ tâm lý học, nhân cách được xem xét về mặt xã hội lẫn mặt
tâm lý.
+ Về mặt xã hội nó bao gồm những quan hệ xã hội cụ thể của con
người với những đặc điểm riêng của nó. Đó là quan hệ kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội… Với con người những mối quan hệ này vừa có ý nghĩa khách
quan, vừa mang màu sắc chủ quan. Khách quan ví như Mác nói rằng xét về
mặt tự nhiên con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Khi sinh ra con
người đã mang những mối quan hệ xã hội nhất định. Chủ quan ở chỗ con
người chủ động trong việc xác lập các mối quan hệ xã hội cho mình, thể hiện
là con người có thể lựa chọn lối sống – trong việc xác định phương hướng tư
tưởng chính trị. Điều này không chỉ nói lên bản chất xã hội của nhân cách mà
còn khẳng định tính tích cực của cá nhân trong quá trình hình thành và phát
triển nhân cách của người đó.
+ Xét về mặt tâm lý thì nhân cách bao gồm những đặc điểm tâm lý thỏa
mãn các điều kiện sau:
8


Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính

thực của phẩm chất, nhân cách đó.
9


Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính

Đặng Quang Minh

Tính ổn định và phát triển của nhân cách: Một trong những đặc trưng
của nhân cách là ổn định và phát triển. Các phẩm chất của nhân cách, các kiểu
hành vi, phong cách ứng xử hoạt động được hình thành trong một thời gian
dài thường ổn định với các quan hệ xã hội, nếp sống, chế độ sinh hoạt, làm
việc ổn định. Có thể trong cuộc đời và hoạt động thường nhật, đôi khi có
những biến động, có nét tính cách “khác, lạ” xuất hiện, có những thay đổi của
đối tượng hoạt động của môi trường cuộc sống, nhưng nhìn chung thì chúng
vẫn không làm thay đổi được đặc điểm, phẩm chất và thuộc tính của một nhân
cách. Ngược lại, bản lĩnh, phong cách, tư cách tương đối ổn định của một
nhân cách như thế càng trọn vẹn, bền vững có chiều sâu, được thử thách và
càng phát triển, hoàn thiện.
Tính tích cực và chủ động của nhân cách: Nhân cách là của một chủ
thể hoạt động tích cực, thúc đẩy xã hội phát triển. Nhân cách được hình thành
nhờ hoạt động tích cực của cá nhân trong các quan hệ xã hội, là sản phẩm của
xã hội. Để được thừa nhận là một nhân cách chủ động và tích cực, con người
phải tích cực quan sát, học tập hành động để nhận thức các chuẩn mực hành
vi xã hội, hoạt động theo các chuẩn mực xã hội góp phần nhận thức và cải tạo
thế giới, cải tạo chính mình. Nhân cách người lãnh đạo, quản lý càng phải thể
hiện rõ tính tích cực và chủ động trong hoạt động nhận thức, cải tạo xã hội.
Đó là một giá trị xã hội, được so sánh lựa chọn và thừa nhận, người lãnh đạo,
quản lý phải là một chủ thể hoạt động tích cực cải tạo tự nhiên, xã hội và hoàn
thiện bản thân theo yêu cầu thực hiện lý tưởng giải phóng con người và công

triển cuộc đời của một con người, là mục tiêu phấn đấu trong cuộc sống, trở
thành động cơ thôi thúc hoạt động của con người. Xu hướng nhân cách của
một con người được hình thành và phát triển theo trình độ nhận thức, tình
cảm và ý chí của họ đối với mục đích cuộc đời cần đạt tới. Xu hướng quy
định phương thức hoạt động và phát triển của cá nhân, xu hướng biểu hiện ở
các mặt nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế giới quan và niềm tin, ở ý chí, nghị
lực, quyết tâm của mỗi con người.
Tính cách của nhân cách: Tính cách là thuộc tính tâm lý cá nhân quan
trọng nhất trong nhân cách. Tính cách của con người được thể hiện rõ nét ở cả
11


Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính

Đặng Quang Minh

xu hướng, năng lực, cảm xúc, tình cảm và ý chí. Tính cách là sự biểu hiện rõ
nét các đặc điểm tâm lý của cá nhân. Những đặc điểm này quy định ý thức,
hành vi của cá nhân trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định, thể hiện
thái độ của họ đối với thế giới xung quanh với công việc, với mọi người và
bản thân...
Năng lực của nhân cách: Mỗi cá nhân có khả năng nhất định để có thể
hoạt động đạt kết quả. Trong tâm lý học năng lực được hiểu là khả năng học
tập, nghiên cứu và áp dụng những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo vào các lĩnh vực
hoạt động và đem lại hiệu quả. Năng lực là một thuộc tính tâm lý vô cùng
quan trọng đối với mỗi con người, đặc biệt là người lãnh đạo, quản lý, nó cho
biết con người có thể làm được việc gì và làm đến đâu, nó đảm bảo cho người
lãnh đạo, quản lý hoàn thành được nhiệm vụ và tiến hành được các hoạt động
nhằm cải tạo được tự nhiên, xã hội và bản thân.
Điều quyết định sự hình thành, phát triển năng lực ở mỗi cá nhân phụ

Chí Minh và quan điểm của Đảng ta.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì nhân cách con người gồm hai
mặt, hai bộ phận cơ bản là “Đức và Tài”, là hệ thống thái độ, tình cảm và ý
chí của con người đối với thế giới khách quan, đối với công việc, đối với tổ
chức, đối với cách mạng, đối với tiền nong và của cải, đối với chính bản thân
mình. Người nói: “Đạo đức cách mạng là phải: Cần, kiệm, liêm chính”. Quan
niệm của người về “tài” là khả năng làm được điều gì cho Đảng, cho dân, cho
nước. Người nói: “Trong Đảng ta, gồm có những người có đức, có tài”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo, người cách mạng thì phải có đạo đức, không có đức thì dù tài giỏi đến
mấy cũng không thể lãnh đạo được nhân dân”, “Phải coi trọng nhân tài, trọng
cán bộ, trọng mỗi một người có ích trong việc chung của chúng ta”…
Quan điểm Đức và Tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chính là quan
điểm về cấu trúc nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý, đồng thời cũng là
nền tảng lý luận để chúng ta xác định được tiêu chuẩn chung cho cán bộ. Nếu
so sánh, đối chiếu với cách phân chia trong cấu trúc nhân cách người cán bộ
13


Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính

Đặng Quang Minh

lãnh đạo, quản lý của các nhà tâm lý học thì có lẽ đó là cách phân chia tương
đối hợp lý, dễ nhận thức nhất.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đức và Tài phản ánh toàn diện đầy đủ các
phẩm chất của nhân cách, nó biểu hiện tính tổng thể trong bộ mặt tâm lý nhân
cách. Đôi khi Người cũng dung khái niệm “Hồng” và “Chuyên” đó chính là
sự phát triển của hai mặt “phẩm chất” và “năng lực” của con người. Khái

+ Nhóm phẩm chất tâm lý đạo đức bao gồm: Cư xử, ứng xử của người
cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với công việc, đối với nhân dân, đối với tiền
nong, của cải, địa vị, quyền lực. Theo lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
làm người cán bộ thì phải Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư, đó là đạo
đức cách mạng. Đạo đức cách mạng là phải suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp
cách mạng, biết vì lợi ích của nhân dân. Trong đạo đức cách mạng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn coi trọng Đức “Nhân”, mà theo thuyết của Khổng Tử,
“Nhân” là yếu tố quan trọng hàng đầu, người cán bộ lãnh đạo, quản lý có lòng
khoan dung, độ lượng, nhân từ, hết lòng thương yêu, giúp đỡ đồng chí, đồng
bào. Đạo đức cách mạng biểu hiện ở tính ngay thẳng không tư túi, không làm
hại đến mọi người, không tham địa vị, tiền tài, không ham tâng bốc mình,
luôn nghiêm khắc với bản thân.
+ Nhóm các phẩm chất năng lực: Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải
là người tiên phong, có trí tuệ cao, là người có đủ trình độ để hướng dẫn
người khác, có khả năng giám sát công việc đúng, hiểu biết đường lối của
Đảng, có năng lực tổ chức thực tiễn, đưa đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Người lãnh đạo, quản lý
phải đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, nói đi đôi
với làm.
1.1.3.3. Các yếu tố cấu thành nhân cách người lãnh đạo, quản lý.
Các nhà Tâm lý học Việt Nam khi nghiên cứu về nhân cách, cấu trúc
nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý đã đi đến thống nhất có 4 yếu tố cấu
thành nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đó là: xu hướng, tính cách,
năng lực và tính khí.
- Xu hướng nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý:
15


Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính




Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính

Đặng Quang Minh

của lý tưởng. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có lý tưởng giải phóng con
người và tạo lập công bằng xã hội, đó là lý tưởng Cộng sản chủ nghĩa.
Thế giới quan là hệ thống quan niệm về tự nhiên, xã hội và con người.
Thế giới quan có vai trò định hướng, điều chỉnh mọi hoạt động, nó giúp cho
con người nhìn nhận, đánh giá thế giới xung quanh và bản thân, vạch hướng
cho họ sự lựa chọn những thái độ và hành vi hành động.
Niềm tin là sự hòa quyện một cách hữu cơ giữa nhận thức, tình cảm và
ý chí cá nhân, niềm tin được phát triển cùng với sự phát triển của nhận thức, ý
chí cá nhân, niềm tin được phát triển cùng với sự phát triển của nhận thức, ý
chí, tình cảm của nhân cách. Niềm tin đúng đắn giúp con người lạc quan trong
hoạt động sống. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có niềm tin vững chắc,
kiên định mục tiêu và con đường Chủ nghĩa xã hội.
-Tính cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý:
Tính cách là một thuộc tính tâm lý cá nhân quan trọng nhất trong nhân
cách, tính cách của con người được thể hiện rõ nét ở cả xu hướng, năng lực,
cảm xúc, tình cảm và ý chí. Tính cách là sự thể hiện đặc điểm tâm lý cá nhân,
những đặc điểm này đã quy định ý thức hành vi của cá nhân trong điều kiện
và hoàn cảnh nhất định, thể hiện thái độ của họ đối với thế giới xung quanh,
với công việc, với mọi người và bản thân.
Tính cách chịu ảnh hưởng của các yếu tố xã hội như hoàn cảnh sống,
hoạt động và giao tiếp. Tính cách cá nhân chính là quan hệ ứng xử, thái độ
với công việc, đối với người khác, đối với xã hội, đối với bản thân. Tính cách
còn được biểu hiện trong quá trình nhận thức, tình cảm và ý chí cá nhân. Quá
trình đó còn hàm chứa cả những tính cách tốt, cả những tính cách không tốt.

-Năng lực người cán bộ lãnh đạo, quản lý:
Trong tâm lý học, năng lực được hiểu là khả năng học tập nghiên cứu
và áp dụng những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo vào các lĩnh vực hoạt động đem
lại hiệu quả. Năng lực là một thuộc tính tâm lý vô cùng quan trọng đối với
mỗi con người, đặc biệt là người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Năng lực cho biết
con người có thể làm được những gì và mức độ hoàn thành của công việc, nó
đảm bảo cho người cán bộ lãnh đạo, quản lý hoàn thành được nhiệm vụ và
tiến hành được các hoạt động nhằm cải tạo được tự nhiên và xã hội.

18


Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính

Đặng Quang Minh

Năng lực của mỗi cá nhân còn phụ thuộc vào yếu tố tự nhiên, tư chất,
gen di truyền, tuy nhiên, tư chất chỉ là cơ sở, tiền đề vật chất có sự hình thành
và phát triển năng lực. Năng lực của người cán bộ lãnh đạo, quản lý được hình
thành và phát triển do yếu tố xã hội quyết định. Đó là môi trường sống, điều
kiện xã hội, giáo dục xã hội, sự phân công lao động xã hội, giao lưu, xây dựng
tập thể và đặc biệt là nghị lực, ý chí người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Hồ Chí
Minh đã từng nói: ‘‘Năng lực của con người không phải do tự nhiên mà phần
lớn là do công tác, do rèn luyện mà có’’. Người cũng từng rút ra một điều quan
trọng, cũng như sự hình thành, phát triển tính cách ở mọi cá nhân, đó là:
‘‘Hiền dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên’’
(Trích ‘‘Nhật ký trong tù’’)
Năng lực của con người được biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau,
người hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phức tạp gọi là người có tài năng, người

người cán bộ lãnh đạo, quản lý có tính khí trầm thường có nhược điểm là tính
ỳ lớn, kém linh hoạt, chậm thích nghi với sự thay đổi của hoàn cảnh, song có
mặt tốt là tránh được sự vội vàng, hấp tấp.
3/ Người cán bộ lãnh đạo, quản lý có tính nóng nảy tỏ ra có sức sống
dồi dào, các hoạt động tâm lý học bộc lộ sự mạnh mẽ, họ thường dốc sức làm
những việc ưa thích, nhược điểm của họ là bốc đồng, dễ nổi nóng và dễ xẹp.
4/ Người cán bộ lãnh đạo, quản lý có tính thầm lặng, tỏ ra ủy mị, ưu tư,
yếu đuối, dễ lo lắng, dễ mặc cảm. Tuy nhiên ưu điểm của họ là nhạy cảm, tinh
tế, nhẫn nại trước những công việc bình thường đơn điệu.
Các thuộc tính nhân cách được hình thành và phát triển tùy thuộc vào
mối quan hệ cá nhân với một giai cấp, một dân tộc hay một nhóm người nhất
định, nó còn phụ thuộc vào lĩnh vực nghề nghiệp, điều kiện lao động và môi
trường gia đình…Việc cá nhân tham gia vào các cộng đồng nhất định sẽ tạo
nên những nội dung phẩm chất nhân cách của cá nhân đó. Tính chất các hoạt
động mà cá nhân đó thực hiện, phạm vi và cách giao tiếp của cá nhân với
người khác, với xã hội là các đặc điểm tồn tại xã hội, lối sống cá nhân…có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện nhân cách cá nhân hoặc cũng cũng
có thể kìm hãm và làm nhân cách cá nhân đó bị què quặt, thoái hóa.
1.1.4. Con đường hình thành nhân cách người lãnh đạo, quản lý
20


Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính

Đặng Quang Minh

Nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý được hình thành và phát
triển trong quá trình sống, hoạt động, đặc biệt là trong thực tiễn hoạt động
lãnh đạo, quản lý. Trong quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân
cách của họ chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau, trong đó mỗi yếu tố

1.1.4.2. Hoạt động thực tiễn cách mạng và hoạt động lãnh đạo, quản lý
là hoạt động có vai trò trực tiếp trong việc hình thành và phát triển nhân
cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Trong hoạt động cách mạng, hoạt động lãnh đạo, quản lý là hoạt động
chủ đạo có vai trò trực tiếp trong việc hình thành và phát triển nhân cách
người lãnh đạo, quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Là người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng”, nhưng “Đạo đức cách mạng không phải là
trên trời sa xuống. Do đấu tranh, rèn luyện hàng ngày mà có. Cũng như ngọc
phải càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Nghị quyết Ban chấp
hành Trung ương 3 (khóa VIII) đã khẳng định: “Trên cơ sở phát triển sự
nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí để xây dựng đội ngũ cán bộ một
cách bài bản, chính quy, có hệ thống; đồng thời thông qua hoạt động thực tiễn
và phong trào cách mạng của nhân dân để giáo dục, rèn luyện, đào tạo, đánh
giá, sang lọc, tuyển chọn cán bộ. Cho nên trong hoạt động thực tiễn cách
mạng người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải luôn tự rèn luyện, học tập để nhân
cách ngày càng phát triển và hoàn thiện.
1.1.4.3. Yếu tố tập thể, cộng đồng xã hội và gia đình có sự ảnh hưởng
đến sự hình thành và phát triển nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý:
Nhân cách con người, kể cả nhân cách người lãnh đạo, quản lý được
hình thành, hoàn thiện và phát triển trong môi trường xã hội cụ thể, trong
cộng đồng xã hội, tập thể, gia đình, làng xóm, khối phố, khu dân cư mà họ là
thành viên. Trong một tập thể, nếu có môi trường xã hội lành mạnh, quan hệ
giữa người với người nhân ái, tập thể đoàn kết, nhất trí, bầu không khí trong
cơ quan, xóm làng, khối phố thuận lợi thì đó là môi trường xã hội tốt nhất để
nhân cách mỗi người phát triển, trong đó có người cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải là người trực tiếp tổ chức, xây
dựng môi trường xã hội lành mạnh, tập thể đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, mọi
22



việc tự giáo dục, tự rèn luyện để chống suy thoái nhân cách có vai trò đặc biệt
23


Luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính

Đặng Quang Minh

quan trọng trong việc hoàn thiện nhân cách người lãnh đạo, quản lý giai đoạn
hiện nay.
Trên con đường hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách hiện
nay, mỗi người Việt Nam, trước hết là người lãnh đạo quản lý đều phải có ý
thức giữ gìn và phát huy nhân cách của dân tộc Việt Nam, của Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại-một nhân cách mẫu mực, giản dị, cao quý và gần gũi, thân
thiết với mỗi người Việt Nam, nhân cách của một con người đã được cộng
đồng quốc tế thừa nhận là anh hùng giải phóng dân tộc và là danh nhân văn
hóa thế giới.
1.1.4.5. Trong thời kỳ đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, người cán bộ lãnh đạo, quản lý cần mở rộng giao lưu, tiếp
nhận thông tin và cần thể hiện rõ bản lĩnh và sự điều chỉnh thích ứng với cơ
chế thị trường.
Nhân cách người lãnh đạo, quản lý thể hiện rõ bản chất xã hội, nó được
hình thành và phát triển trong quan hệ giao tiếp, giao lưu với mọi người. C.Mác
đã chỉ rõ: “Sự phát triển của mỗi cá nhân được quy định bởi sự phát triển của tất
cả các cá nhân khác và nó giao lưu trực tiếp hay gián tiếp với cá nhân đó”.
Nếu có giao lưu, tiếp xúc và trao đổi với người xung quanh mình thì
bản thân người lãnh đạo, quản lý mới hiểu được cán bộ, người cấp dưới…về
những nhu cầu, lợi ích, hứng thú và trình độ của họ. Khi đó, họ mới có thể
phản ánh được yêu cầu, nguyện vọng của mình với lãnh đạo. Không giao tiếp,
giao lưu được với cán bộ, với cấp dưới…người lãnh đạo, quản lý dễ sinh bệnh


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status