Rèn luyện cho học sinh kĩ năng khai thác và sử dụng kênh hình trong dạy học phần Sinh học tế bào Sinh học 10 THPT - Pdf 34

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------

ĐỖ THỊ HƯƠNG

RÌN LUYÖN CHO HäC SINH KÜ N¡NG KHAI TH¸C
Vµ Sö DôNG K£NH H×NH TRONG D¹Y HäC PHÇN
SINH HäC TÕ BµO SINH HäC 10 THPT

Chuyên ngành

: Lí luận và phương pháp dạy học Sinh học

Mã số

: 60.14.01.11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRỊNH NGUYÊN GIAO


Hà Nội, 2015

LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy hướng dẫn: PGS.TS.Trịnh Nguyên Giao
đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn tập thể bộ môn Lí luận và Phương pháp dạy học

Kênh hình
Phương tiện trực quan
Sách giáo khoa
Sinh học tế bào
Trung học phổ thông
Thực nghiệm


MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU

DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ


Phần I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Do yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học
Trong những năm gần đây, chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và
đang tập trung vào đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học theo
hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của người học tức là “Lấy người
học làm trung tâm”. Điều này đòi hỏi phải có sự thay đổi về phương pháp trong
công tác giảng dạy của người giáo viên, trong đó phương pháp trực quan và phương
pháp thực hành là các phương pháp dạy học tích cực đang được nhiều giáo viên
quan tâm áp dụng.
1.2.Do tầm quan trọng của việc sử dụng kênh hình trong dạy học phát huy tính
tích cực của học sinh
Sử dụng KH sẽ làm tăng hiệu quả của nội dung và phương pháp dạy học.
Kênh hình là một công cụ trực quan vô cùng hữu hiệu trong việc giảng dạy. Ngoài
chức năng đóng vai trò là phương tiện trực quan minh hoạ cho kênh chữ kênh hình

nghiên cứu: “Rèn luyện cho học sinh kĩ năng khai thác và sử dụng kênh hình
trong dạy học phần Sinh học tế bào Sinh học 10 THPT”
2. Mục đích nghiên cứu
Xác lập hệ thống các kĩ năng khai thác, sử dụng kênh hình và đề xuất các
biện pháp rèn luyện cho học sinh các kĩ năng đó trong quá trình dạy học phần Sinh
học tế bào Sinh học 10 THPT.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng : Các kĩ năng khai thác, sử dụng kênh hình và biện pháp rèn
luyện cho học sinh trong dạy học phần Sinh học tế bào thuộc Sinh học lớp 10 THPT.
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học Sinh học 10 ở một số trường
THPT tỉnh Bắc Giang.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu xác lập được hệ thống kĩ năng và tìm ra các biện pháp rèn luyện cho học
sinh các kĩ năng khai thác, sử dụng kênh hình thì sẽ hình thành được cho học sinh
các kĩ năng đó trong dạy học phần Sinh học tế bào, góp phần nâng cao chất lượng
dạy và học tập bộ môn.

6


5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu các tài liệu tâm lí học, giáo dục họcvà các tài liệu liên quan
để xây dựng cơ sở lí luận của đề tài.
5.2. Điều tra, tìm hiểu về tình hình sử dụng kênh hình trong dạy học Sinh
học nói chung và Sinh học tế bào nói riêng.
5.3. Phân tích cấu trúc nội dung phần Sinh học tế bào.
5.4. Xác lập hệ thống các kĩ năng khai thác và sử dụng kênh hình.
5.5. Xây dựng quy trình khai thác và sử dụng kênh hình.
5.6. Đề xuất các biện pháp rèn luyện kĩ năng khai thác và sử dụng kênh hình
phù hợp với nội dung phần Sinh học tế bào.

với nội dung phần Sinh học tế bào.
8.4. Xây dựng quy trình khai thác và sử dụng kênh hình phù hợp để nâng cao
chất lượng dạy và học phần này.
8.5. Đề xuất biện pháp rèn luyện cho học sinh kĩ năng khai thác và sử dụng
kênh hình.
8.6. Thiết kế một số giáo án có vận dụng các kĩ năng khai thác và sử dụng
kênh hình đã đề xuất.
9. Cấu trúc luận văn: Luận văn gồm ba phần chính
Phần I : Mở đầu
Phần II : Nội dung
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Rèn luyện cho học sinh kĩ năng khai thác và sử dụng kênh hình
để tích cực hóa hoạt động học của học sinh trong dạy học phần Sinh học tế bào
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
Phần III: Kết luận và kiến nghị

8


Phần II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử nghiên cứu đề tài
1.1.1. Trên thế giới
Jan Amot Komensky ( 1592 -1670) nhà giáo dục Cộng hòa Séc được coi là
một trong những ông tổ sư phạm của châu Âu và thế giới. Ông chủ trương giảng
dạy bằng hoạt động, bằng sự quan sát trực tiếp, bằng sự tiếp xúc với sự vật trong
cuộc sống hàng ngày. Ông cho rằng những cảm giác không thể sai được và là nguồn
gốc của mọi kiến thức. Khoa học tự nhiên là khoa học quan sát và thực nghiệm.
Nguyễn Quang Vinh (1973), trong Luận án tiến sĩ giáo dục học của mình
[14] [30] đã viết về quan điểm trong dạy học của M.A Đanhilôp, cho rằng nguyên

nêu được các cách sử dụng sơ đồ thiết kế nội dung, sơ đồ hóa nội dung bài học để
dạy học[25].
Phan Trọng Ngọ, Lê Tràng Định, Dương Diệu Hoa năm 2000 [20]. Những
vấn đề trực quan trong dạy học được nghiên cứu dưới phương phápluận biện chứng
của triết học Mac- Lênin, “Trực quan theo đúng nghĩa của nó không đơn giản chỉ là
quan sát sự vật bằng các giác quan, mà là hành độngtác động lên sự vật, làm biến
đổi các dấu hiệu bề ngoài của chúng, làm cho cái bản chất, các mối liên hệ, quan hệ
có tính quy luật của chúng được phơibày một cách cảm tính”.
Năm 2002, trong dạy học lịch sử PGS.TS Nguyễn Thị Côi đã khẳng định
rằng: học tập thông qua các phương tiện tạo kênh hình giúp học sinh cónhững biểu
tượng chân thực, chính xác về sự vật hiện tượng. Những hình ảnhđược tạo ra từ
kênh hình ở SGK không chỉ là điểm tựa của nhận thức cảm tính mà còn là nguồn
gốc của tư duy. Sự có mặt của những phương tiện tạo hìnhtrước mắt học sinh (tranh
ảnh, biểu đồ, sơ đồ...) sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi cho các hoạt động phân tích, so
sánh, tổng hợp nội dung của chúng từ đó học sinh lĩnh hội những mối liên hệ mới
giữa các sự vật được dễ dàng hơn... Đặc biệt kênh hình giúp học sinh dễ hiểu, dễ
nhớ, nhớ lâu các kiến thức được nghiên cứu [3].
Năm 2005, tác giả Nguyễn Phúc Chỉnh với luận án Tiến sĩ giáo dục học đã
rất thành công trong việc nghiên cứu một cách hệ thống và sâu sắc về lí thuyết grap
và ứng dụng grap trong dạy học Giải phẫu sinh lí người ở trung học cơ sở, hay “Cơ
sở lí thuyết của bản đồ khái niệm” [2].

10


Năm 2006 trong luận án Tiến sĩ của mình, Văn Thị Thanh Nhung lại khẳng
định, rèn luyện kĩ năng dạy học cho sinh viên bằng băng hình là một phương pháp
dạy học có hiệu quả. Điều này nói lên rằng KH là một phương tiện dạy học hết sức
quan trọng trong quá trình dạy học[21].
Năm 2009 trong luận án Tiến sĩ của mình, Nguyễn Văn Thắng đã chứng

lĩnh hội được những khái niệm, những định luật[15]...hình thành ở các em những kĩ
năng, kĩ xảo, thái độ cần thiết. Đồng thời kênh hình còn là phương tiện kết nối giữa
giáo viên và học sinh trong quá trình thực hiện các hoạt động dạy và học.
1.2.2. Phân loại kênh hình
Hiện nay có nhiều cách phân loại kênh hình. Tuy nhiên các cách phân loại
này chưa thực sự thống nhất với nhau.
Một số tác giả phân thành 2 loại chính:
- Các vật tạo hình: tranh ảnh, hình vẽ, băng hình...
- Các vật tượng trưng: sơ đồ, lược đồ, bản đồ giáo khoa...
Mỗi loại kênh hình này lại có những ưu, nhược điểm khác nhau. Cho nên tuỳ
vào nội dung, cũng như tuỳ vào yêu cầu kiến thức mà ta tiến hành lựa chọn kênh
hình và sử dụng sao cho phù hợp nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.
1.2. 3.Vai trò kênh hình đối với việc phát huy tính tích cực của học sinh
trong quá trình dạy học
1.2.3.1. Vai trò của kênh hình theo quan điểm triết học
Xét về mặt triết học, con đường nhận thức được diễn ra: Từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường
biện chứng của sự nhận thức chân lí, nhận thức thực tại khách quan. Do đó trực
quan sinh động là xuất phát điểm của nhận thức. Tư duy bắt đầu bằng cảm giác, tri
giác các đối tượng và các hiện tượng.
Quá trình nhận thức thường bắt đầu từ cảm nhận các đối tượng trong một
tình huống xác định. Không có sự nhận thức cảm tính này thì không thể có tư duy
của HS. Từ đây rút ra nhiệm vụ quan trọng của dạy học Sinh học trong việc phát
triển tư duy là kích thích sự quan sát các hiện tượng, các quá trình và các đối tượng
một cách chăm chú và có định hướng. Muốn cho sự quan sát này góp phần phát
triển tư duy thì phải đặt ra trước HS mục đích quan sát.

12



13


động, phim,...; Kênh được coi như một kĩ năng cảm giác qua đó người học thu nhận
nội dung tốt nhất.
Trong dạy học người giáo viên cần cân nhắc khi thực hiện:
- Về nội dung:
Nội dung nào sẽ được truyền cho người học bằng lời?
Nội dung nào sẽ được truyền bằng hình ảnh?
Nội dung nào sẽ được truyền bằng các giác quan khác?
- Về đặc tính của học sinh như kĩ năng cảm giác, trình độ kiến thức, hệthống văn
hóa xã hội...Từ sự cân nhắc đó, người GV phải lựa chọn những phương tiện
thíchhợp để kích thích vào giác quan HS nhằm tăng hiệu quả dạy học.
Như vậy, KH được tạo ra khi sử dụng các phương tiện trực quan nhìnphù
hợp với kĩ năng cảm giác (kĩ năng quan sát bằng mắt), trình độ kiến thứchiện tại,
đặc điểm tư duycủa học sinh, nội dung kiến thức và phương phápdạy học.
Yếu tố quyết định tạo được KH trong dạy học không chỉ là dạy học
bằngphương tiện trực quan nào? mà còn sử dụng phương tiện trực quan đó như
thếnào? Cho đối tượng học sinh nào (kĩ năng tư duy, phương tiện ngôn ngữ,truyền
thống văn hóa...)?
Có thể hiểu KH = Phương tiện trực quan + Phương pháp sử dụng + kĩnăng
cảm giác của học sinh.
Trực quan còn là một biện pháp dạy học sinh học được sử dụng phổ
biếntrong các phương pháp dạy học dùng lời để minh họa sinh động cho ngôn
ngữlời nói của thầy, của trò hay chữ viết của sách. Trong trường hợp này PTTQ
làkênh hình được kết hợp với kênh lời- kênh chữ (có thể là nguồn cung cấpthông tin
hay là sự dẫn dắt về phương pháp nhận thức đối với HS).
1.2.3.3.Vai trò của kênh hình theo lí luận dạy học
Theo quan điểm tiếp cận hệ thống quá trình dạy học gồm 6 thành tố cơbản:
mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức, đánh giá tạo thành một

từng vấn đề, mặt khác hình ảnh trực quan ấy phải tác động phù hợp với cơ quan
cảm giác và nằm trong vùng ngưỡng tri giác của nó.
Như vậy trong dạy học Sinh học, hình ảnh vừa là điểm xuất phát của quá
trình nhận thức vừa là công cụ cụ thể hóa kiến thức để học sinh lĩnh hội vững chắc
kiến thức.

15


1.2.4. Kĩ năng
Kĩ năng là khả năng chuyên biệt của con người về một hoặc một vài khía
cạnh nào đó nhằm được sử dụng để giải quyết các tình huống hoặc công việc nào đó
trong cuộc sống.
Trong dạy học, việc hình thành kiến thức và kĩ năng luôn đi song hành với
nhau. Đối với người học, việc lĩnh hội kiến thức không chỉ dừng lại ở nội dung tri
thức mà cả con đường tìm ra kiến thức, cách học cùng với các kĩ năng cần thiết.Từ
đó, cách học, tri thức và kĩ năng hòa quyện vào nhau để tạo thành năng lực ở người
học. Như vậy giữa kiến thức và kĩ năng luôn có mối quan hệ hữu cơ với nhau, đồng
thời luôn tương tác để cùng phát triển.
Với đặc trưng đó trong quá trình dạy học, người dạy cần xác định thành phần
kiến thức và kĩ năng mà người học đã nắm được cũng như cần đạt được để có kế
hoạch tổ chức hướng dẫn theo trình tự độ khó tăng dần. Nắm chắc được nguyên lý
tương quan giữa kiến thức và kỹ năng, người thầy sẽ thấy được mối liên quan
thường xuyên khi soạn bài để có kế hoạch tổ chức dạy học.Việc xác định thành
phần kiến thức và kĩ năng mà học sinh cần nắm là vô cùng quan trọng để người dạy
có kế hoạch hướng dẫn, tổ chức thực hiện đúng mục tiêu đề ra. Kế hoạch đó sẽ giúp
giáo viên nhìn nhận một cách tổng thể và bao quát toàn bộ quá trình dạy học và
vạch ra các hình thức tổ chức sao cho đạt hiệu quả tối ưu.
1.2.5. Kĩ năng khai thác kênh hình
Với đặc trưng của bộ môn Sinh học, việc tiếp xúc với các KH trong quá trình

- Đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học thông qua KH.
- Tạo môi trường học tập tốt (phòng học, máy tính, máy chiếu..) để nâng cao
hiệu quả sử dụng KH.
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Thực trạng sử dụng kênh hình trong dạy và học phần Sinh học tế
bào Sinh học 10 THPT
1.3.1.1. Nội dung điều tra
Nhằm xác định cơ sở thực tiễn cho việc thực hiện đề tài chúng tôi đã tiến
hành điều tra các nội dung dưới đây tại một số trường phổ thông trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang.

17


Thứ nhất : Đặc điểm đội ngũ giáo viên, học sinh và cơ sở vật chất phục vụ
cho quá trình dạy học ở một số trường THPT tỉnh Bắc Giang.
Thứ hai : Tình hình dạy và học Sinh học hiện nay ở các trường THPT tỉnh
Bắc Giang.
Thứ ba : Tình hình sử dụng kênh hình trong quá trình dạy học Sinh học ở
tỉnh Bắc Giang.
1.3.1.2. Phương pháp điều tra
a. Sử dụng các phiếu điều tra : Đây là phương pháp chủ yếu mà chúng tôi sử
dụng trong quá trình điều tra. Chúng tôi tiến hành xây dựng một số phiếu điều tra
đối với giáo viên và học sinh nhằm thu thập thông tin.
b. Dự giờ: Được sự đồng ý của lãnh đạo nhà trường và các giáo viên đứng
lớp chúng tôi đã tiến hành dự một số giờ dạy tại các trường THPT trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh đó, hàng năm tỉnh Bắc Giang còn tổ chức hội thi giáo viên giỏi cấp tỉnh,
đây cũng là những cơ hội để chúng tôi được học hỏi và rút ra những kinh nghiệm
thực tiễn cho việc giảng dạy của bản thân và cho quá trình viết đề tài. Trong quá
trình dự giờ chúng tôi đặc biệt chú ý đến phương tiện mà giáo viên sử dụng, cách

khu vực nông thôn cũng giảm. Điều này đỏi hỏi người giáo viên phải có ý thức
nâng cao chuyên môn, không ngừng học hỏi, đầu tư giáo án để nâng cao chất lượng
giờ dạy, nâng cao hứng thú học tập của học sinh tránh tình trạng dạy chay, dạy áp
đặt… dễ dẫn đến học sinh nhàm chán và thờ ơ với môn học.
*Cơ sở vật chất:
Với mong muốn có một cái nhìn tổng thể, một đánh giá khách quan nhất về
tình hình trang thiết bị trong dạy học Sinh học ở các trường phổ thôngchúng tôi đã
tiến hành thu thập số liệu ở một số trường thuộc các địa bàn khác nhau ở tỉnh Bắc
Giang. Đó là các trường THPT Chuyên Bắc Giang, trường THPT Thái Thuận thuộc
khu vực thành phố Bắc Giang, trường THPT Việt Yên 1 và 2 thuộc huyện Việt Yên
- tỉnh Bắc Giang.
Qua điều tra chúng tôi thống kê được bảng số liệu sau :

19


Bảng 1.1 : Điều tra thiết bị, phương tiện dạy học ở một số trường THPT
tỉnh Bắc Giang
Thiết bị

Tranh, ảnh treo tường
Bộ ảnh bản trong
Projector
Máy chiếu vật thể

THPT

THPT Thái

THPT

33
2

Qua bảng số liệu có thể thấy, cơ sở vật chất và phương tiện dạy học Sinh học
ở các trường phổ thông trong những năm gần đây đặc biệt là ở những trường thuộc
khu vực thành phố, thị xã đã được chú ý đầu tư rất nhiều đáp ứng được nhu cầu dạy
và học bộ môn.
Riêng với các tranh ảnh phục vụ cho phần Sinh học tế bào cũng rất phong
phú, với tất cả các bài, các mục đều có các tư liệu tranh ảnh, video, hoặc mô hình
phù hợp, giúp giáo viên có nhiều sự lựa chọn cho việc giảng dạy của mình. Ngoài
ra, nhiều giáo viên cũng đã tiến hành xây dựng các đồ dùng hỗ trợ thêm cho việc
giảng dạy (như các mô hình, các tranh ảnh sưu tầm...) làm phong phú thêm cho
nguồn phương tiện phục vụ cho quá trình giảng dạy. Với điều kiện cơ sở vật chất
như vậy có thể hoàn toàn tiến hành các giờ dạy theo yêu cầu của đổi mới phương
pháp dạy học.
Tuy nhiên, Bắc Giang là một tỉnh có diện tích khá lớn, có những trường ở cách
xa thành phố tới hàng trăm kilomet, ở những trường thuộc các huyện vùng sâu vùng
xa này thì số lượng các phương tiện trực quan còn thiếu về số lượng và chưa đa dạng
về chủng loại. Đây là một khó khăn đối với người giáo viên khi thiết kế và tiến hành
một giờ dạy theo phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh.
b. Tình hình giảng dạy và học tập môn Sinh học hiện nay ở các trường
THPT tỉnh Bắc Giang.
* Tình hình giảng dạy:

20


Sinh học là một bộ môn có khối lượng kiến thức khá lớn, tuy nhiên thời
lượng giảng dạy theo phân phối chương trình lại không nhiều, mỗi lớp chỉ có từ 1-2
tiết học / tuần. Điều này đòi hỏi mỗi người giáo viên phải tìm cho mình một cách

chuyên Sinh học hoặc các em định hướng học khối B. Còn hầu hết các em coi đây
là môn phụ, không quan tâm thậm chí ghét học. Khi được hỏi về lí do thì nhiều em
cho rằng đây là môn học khó, kiến thức trừu tượng, khó hiểu.
Với PPDH truyền thống GV là trung tâm của quá trình dạy học, GV
dùng phương pháp giảng giải là chủ yếu, hạn chế về sử dụng các phương tiện dạy
học hỗ trợ cho việc lĩnh hội kiến thức. Dẫn đến việc truyền thụ kiến thức từ GV
đến HS diễn ra một cách thụ động, yêu cầu ở HS chủ yếu là sự nhắc lại một cách
máy móc kiến thức, chưa khuyến khích sự tìm tòi sáng tạo ở HS trong quá
trình học. Trong thực tế dạy học các bộ môn nói chung và dạy học Sinh học nói
riêng còn bộc lộ rất nhiều hạn chế. Kiến thức quá trình sinh học là kiến thức phức

21


tạp, trừu tượng gây khó khăn trong quá trình dạy và học của GV và HS, nếu
như không có phương tiện dạy học hỗ trợ thì việc lĩnh hội kiến thức này của HS rất
khó khăn, ảnh hưởng đến kết quả học tập của học sinh.
c. Tình hình sử dụng kênh hình trong quá trình dạy học Sinh học ở tỉnh Bắc Giang.
Chúng tôi sử dụng phiếu điều tra tham vấn ý kiến của 65GV, phân tích kết
quả cho thấy:
- Về mức độ sử dụng kênh hình trong quá trình dạy học sinh học:
+ 100% GV đều cho rằng việc sử dụng kênh hình trong quá trình dạy học
Sinh học là cần thiết. Việc sử dụng các hình ảnh sinh động sẽ gây được hứng thú ở
học sinh, việc truyển tải kiến thức trở nên dễ dàng hơn.
+ Hơn 90% GV thường xuyên sử dụng kênh hình trong quá trình dạy học.
Tuy nhiên các kênh hình mà họ sử dụng chủ yếu là các tranh ảnh có sẵn trong sách
giáo khoa chứ chưa có sự chủ động trong việc tìm kiếm và lựa chọn các tư liệu hình
ảnh phù hợp hơn với ý tưởng dạy học của mình. Đặc biệt là các video, mô hình còn
ít được sử dụng bởi họ còn ngần ngại khi sử dụng vì lí do chưa thành thạo, tốn công
chuẩn bị, hay bị phụ thuộc nội dung trình chiếu hoặc không đủ thời gian để sử dụng.

29,2%
31
47,7%
15
21

23,1%
32,3%

Không bao giờ
SL
TL
53
81,5%
5
7,7%
5
7,7%
50
44

76,9%
67,7%

Như vậy, kĩ năng giảng dạy và hướng dẫn học sinh khai thác kênh hình nhìn
chung còn nhiều hạn chế. Giáo viên đã biết lợi ích của việc sử dụng kênh hình
nhưng không thường xuyên cho nên còn thiếu thành thạo dẫn đến học sinh cũng
lúng túng không biết cách tiếp cận để khai thác kiến thức từ kênh hình.

22

hứng thú cho học sinh.

23


Về phía học sinh, mặc dù được tiếp xúc với khá nhiều kênh hình trong quá
trình học tập do GV cung cấp nhưng chỉ dừng lại ở việc quan sát một cách thụ động
mà bản thân các em chưa có nhiều cơ hội trải nghiệm tự mình tìm ra tri thức mới.
Vì vậy kĩ năng khai thác và sử dụng kênh hình của học sinh còn yếu. Mặt khác,
nhiều học sinh vẫn coi Sinh học là môn phụ cho nên học tập không nghiêm túc,
mang tính chống đối và ít khi duy trì được hứng thú lâu dài với môn học.
Vấn đề đặt ra là phải có những phương pháp rèn luyện cho học sinh cách
khai thác và sử dụng kênh hình cụ thể, đảm bảo đúng vai trò và chức năng của KH
trong dạy học Sinh học.

Kết luận chương 1

24


1. Trong lịch sử nghiên cứu khoa học đã chứng minh vai trò củaphương tiện
trực quan trong dạy học phù hợp với lí thuyết về nhận thức.Trong đó, KH được xem
là thành tố có vai trò rất quan trọng trong dạyhọc. Trên thế giới và ở Việt Nam đã có
nhiều tác giả nghiên cứu dạy họcbằng các phương tiện trực quan tạo kênh hình khác
nhau trong những lĩnhvực khác nhau. Kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và
ngoài nước làcơ sở thực tế của việc dạy học bằng kênh hình.Theo hướng này, có
nhiều tác giả đã thànhcông trong việc nghiên cứu và vận dụng một số phương tiện
trực quannhư: Grap, bản đồ khái niệm, tranh ảnh, băng hình, thí nghiệm,...vào
dạyhọc một số môn học ở trường phổ thông.
2. Trong thực tế giảng dạy tại địa phương việc sử dụng KH của giáo viên còn


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status