Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, phát triển của một số dòng, giống đậu tương vụ xuân và hè tại huyện trấn yên tỉnh yên bái - Pdf 35

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đậu tương (Glycine max (L) Merr) còn gọi là cây đậu nành là một cây
công nghiệp ngắn ngày có giá trị kinh tế cao. Khó có thể tìm thấy một loại cây
trồng nào có tác dụng nhiều mặt như ở cây đậu tương: cung cấp thực phẩm
cho con người, thức ăn cho gia súc, là nguyên liệu cho công nghiệp và cây
làm tốt đất. Từ 5000 năm lại đây châu Á đã coi cây đậu tương là “cây vào
hàng cốc ngọc thực nuôi sống con người” và là nguồn cung cấp protein quan
trọng nhất (Ngô Thế Dân và Cs, 1999) [13].
Hạt đậu tương có thành phần dinh dưỡng cao, hàm lượng protein trung
bình khoảng từ 38 – 40%, lipít 18 – 20%, giàu nguồn sinh tố và muối khoáng.
Đậu tương là loại hạt duy nhất mà giá trị của nó được đánh giá đồng thời cả
protein và lipit. Protein của đậu tương có phẩm chất tốt nhất trong số các protein
của thực vật cao hơn cả ở cá, thịt và cao hơn gấp hai lần hàm lượng protein có
trong các loại đỗ khác, trong hạt đậu tương có rất nhiều loại vitamin như:
vitamin B1, B2, PP, A, D, C. Chính vì vậy, từ hạt đậu tương người ta đã chế biến
ra hàng trăm loại thức ăn khác ăn khác nhau có giá trị dinh dưỡng cao như: đậu
phụ, bột, tương, xì dầu, thịt nhân tạo … (Phạm Văn Thiều, 2006) [32].
Cây đậu tương có nguồn gốc từ miền nam Trung Quốc, nhưng nó đã
được trồng ở Việt Nam từ lâu đời [13]. Tuy nhiên, diện tích gieo trồng đậu
tương ở Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế, diện tích gieo trồng đậu tương
năm cao nhất là năm 2005 mới chỉ đạt 204.100 ha, năng suất thấp (14,3 tạ/ha )
thấp hơn nhiều so với bình quân của thế giới 23,2 tạ/ha (FAO, 2010) [21].
Đậu tương được gieo trồng trong tất cả 7 vùng sinh thái của nước ta.
Vùng miền núi phía Bắc là một trong những vùng sản xuất chính. Trong
những năm trở lại đây diện tích gieo trồng đậu tương ở vùng trung du và miền

1


núi phía Bắc chiếm khoảng 36% diện tích của cả nước (73.000 ha), nhưng

2.2. Mục tiêu
Xác định được dòng, giống đậu tương có năng suất cao phù hợp với
điều kiện sinh thái của huyện Trấn Yên - tỉnh Yên Bái. Góp phần mở rộng
diện tích trồng đậu tương, nâng cao năng suất đậu tương trên địa bàn huyện
Trấn Yên - tỉnh Yên Bái.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài là công trình nghiên cứu, đánh giá khả năng sinh trưởng, phát
triển của một số dòng, giống đậu tương mới tại huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái.
Các kết quả của đề tài góp phần mở rộng diện tích, tăng năng suất và sản
lượng đậu tương tại huyện Trấn Yên.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu giúp cho người dân huyện Trấn Yên tiếp cận với
dòng, giống đậu tương mới và lựa chọn được dòng, giống đậu tương có năng
suất, thích nghi với điều kiện sinh thái trên địa bàn huyện.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể áp dụng cho các huyện khác trên
địa bàn tỉnh Yên Bái.
4. Cơ sở khoa học của đề tài
4.1. Cơ sở khoa học
- Cây đậu tương là cây trồng ngắn ngày có giá trị kinh tế cao, là cây
trồng quan trọng trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện.
- Trên cơ sở yêu cầu sinh thái của cây đậu tượng, căn cứ vào điều kiện
đất đai và khí hậu của huyện Trấn yên - tỉnh Yên Bái. Cây đậu tương có khả
năng sinh trưởng, phát triển tốt và cho năng suất cao trên đất soi bãi và đất
ruộng hạn trồng lúa kém hiệu quả.

3


- Trong những năm gần đây có nhiều giống đậu tương mới được công

Vì vậy mà cây đậu tương được trồng ở khắp mọi nơi trên thế giới, nhưng tập
trung nhiều nhất ở châu Mỹ chiếm trên 70% diện tích, tiếp đến là châu Á.
Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới trong những năm gần đây được
thể hiện trong bảng 1.1.
Bảng 1.1. Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới từ năm 2005 -2009
Diện tích

Năng suất

Sản lượng

(Triệu ha)

(tạ/ha)

(triệu tấn)

2005

92,5

23,2

214,3

2006

95,2

22,9


5


Số liệu ở bảng 1.1 cho thấy trong vòng 5 năm qua diện tích trồng đậu
tương trên thế giới đã tăng 6,3 triệu ha, năng suất đậu tương ổn định, biến
động trong khoảng 22,5 – 23,8 tạ/ha. Tuy nhiên do diện tích trồng đậu tương
không ngừng được mở rộng từ năm 2005 -2009, do đó sản lượng đậu tương
năm 2009 tăng thêm 8 triệu tấn so với năm 2005.
Các nước trồng nhiều đậu tương trên thế giới là Mỹ, Biaxin,
Achentina,Trung Quốc và Ấn Độ.
Bảng 1.2. Diện tích, năng suất và sản lượng của một số quốc gia sản
xuất đậu tương trên thế giới năm 2009
Diện tích
(triệu ha)

Năng suất
(tạ/ha)

Sản lượng
(triệu tấn)

Mỹ

30,9

29,5

91,4


10,2

Tên nước

(Nguồn: FAO, 2010)[21]
Theo thống kê của FAO, Mỹ là quốc gia có diện tích và sản lượng đậu
tương lớn nhất trên thế giới, năm 2009 diện tích đậu tương của Mỹ là 30,9
triệu ha chiếm 31,2 % diện tích đậu tương của toàn thế giới, sản lượng là 91,4
triệu tấn. Đứng thứ hai sau Mỹ là Braxin diện tích năm 2009 là 21,7 triệu ha
sản lượng 56,9 triệu tấn, đứng thứ 3 là Achentina diện tích 16,7 triệu ha, sản
lượng 30,9 triệu tấn, đứng thứ 4 là Ấn Độ (9,6 triệu ha) và đứng thứ 5 là
Trung Quốc ( 9,1 triệu ha). Năm 2007 Ấn Độ vượt qua Trung Quốc để trở

6


thành quốc gia có diện tích trồng đậu tương đứng thứ 4 trên thế giới. Diện tích
trồng đậu tương của 5 quốc gia này chiếm 89,4 % diện tích trồng đậu tương
của toàn thế giới (FAO, 2010 )[21].
Braxinvà Mỹ là hai nước có năng suất đậu tương cao nhất thế giới, năm
2009 năng suất đậu tượng của hai quốc gia này là 26,2 tạ/ha và 29,5 tạ/ha,
đứng thứ 3 thế là Achentina, năm 2009 năng suất đậu tương là 18,4 tạ/ha. Ấn
Độ là nước có diện tích trồng đậu tương lớn hơn Trung Quốc, tuy nhiên năng
suất đậu tương của Ấn Độ đạt thấp năm, 2009 năng suất chỉ là 10,6 tạ/ha, do
đó sản lượng đậu tương của Ấn Độ đứng thứ 5 trên thế giới sau Trung Quốc.
Mỹ là quốc gia xuất khẩu đậu tương hàng đầu thế giới, năm 2007 Mỹ
xuất khẩu 29,84 triệu tấn, đứng thứ 2 Braxiln năm 23,73 triệu tấn, đứng thứ 3
là Achentina 11,84 triệu tấn. Ba quốc gia Nam Mỹ này xuất 65,41 triệu tấn
chiếm 87,91 % lượng đậu tương xuất khẩu thế thới (FAO, 2009) [21]. Mặc dù
Trung Quốc là nước có diện tích trồng đầu tương lớn trên thế giới nhưng vẫn

thành một loại hàng hoá xuất khẩu chủ lực ngày càng quan trọng”
Bảng 1.3. Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam từ năm 2005 - 2009
Diện tích

Năng suất

Sản lượng

(nghìn ha)

(tạ/ha)

(nghìn tấn)

2005

204,1

14,3

292,7

2006

185,6

13,9

258,2



Bảng 1.3 cho thấy diện tích trồng đậu tương của nước ta có sự biến
động qua các năm, diện tích đậu tương năm 2005 là 204,1 nghìn ha, năm
2006 diện tích giảm xuống còn 185,6 nghìn ha, đến năm 2008 diện tích tăng
lên 191,5 nghìn ha, đến nay diện tích đậu tương cả nước chỉ còn 146,2 nghìn
ha. So với các nước có diện tích trồng đậu lớn trên thế giới thì diện tích trồng
đậu tương của nước ta còn rất nhỏ. Diện tích gieo trồng đậu tương năm cao
nhất là năm 2004 mới chỉ đạt 204,1 nghìn ha. Năng suất đậu tương của nước
ta trong 5 năm qua đã được cải thiện, tuy nhiên vẫn còn thấp hơn nhiều so với
năng suất trung bình của thế giới, năm 2007 đạt năng suất cao nhất mới chỉ
đạt 14,7tạ/ha, trong khi năng suất bình quân trên thế giới là 23,8 tạ/ha.
Theo Lê Quốc Hưng, 2007 [24] nước ta có tiềm năng rất lớn để mở rộng
diện tích trồng đậu tương cả 3 vụ xuân, hè và đông, diện tích có thể đạt 1,5
triệu ha trong đó phân bố ở các vùng: Vùng Đồng bằng sông Hồng có thể mở
rộng diện tích lên tới 600 nghìn ha đậu tương trên đất 2 vụ lúa, miền núi phía
Bắc 400 nghìn ha trên các loại đất dốc, Bắc Trung bộ 300 nghìn ha và Tây
Nguyên 100 nghìn ha. Quỹ đất đang có này là một lợi thế không nhỏ để nước ta
phát triển sản xuất đậu tương đảm bảo nhu cầu sử dụng đậu tương trong nước.
1.2. Các yêu cầu sinh thái của cây đậu tương
1.2.1. Yêu cầu nhiệt dộ
Cây đậu tương có nguồn gốc ôn đới nhưng không phải là cây chịu được
rét. Tổng tích ôn của cây đậu tương biến động trong khoảng 1700-27000C.
Đậu tương có thể sinh trưởng trong phạm vi nhiệt độ từ 10 - 400C. Phạm Văn
Thiều [32] cho rằng nhiệt độ tối thích cho thời kỳ nảy mầm là từ 18-260C (6-7
ngày đã mọc mầm) nếu ở nhiệt độ từ 10-120C muốn mọc mầm phải cần từ 1516 ngày, ngược lại nhiệt độ cao hơn 400C hạt cũng không mọc mầm được.
Thời kỳ cây con, từ khi cây ra lá đơn đến khi cây được 3 lá thật cây đậu tương

9



1.2.3. Yêu cầu về nước
Tuy là cây trồng cạn song đậu tương lại là cây cần nhiều nước, vì vậy
nước luôn là một trong những yếu tố hạn chế chủ yếu đến sản xuất đậu tương.
Trong suốt cả quá trình sinh trưởng từ khi gieo đến khi thu hoạch đậu tương
cần ít nhất 300 mm.
Giai đoạn nảy mầm, đất đủ ẩm thì hạt mới có thể nảy mầm được. Độ
ẩm đất 50 % là thích hợp, nếu khô quá hạt không mọc được, hạt nằm lâu
trong đất sẽ bị thối. Ngược lại ướt quá làm cho đất bí thiếu không khí, không
mọc được, hạt cũng sẽ bị thối. Nhu cầu về nước tăng dần theo thời gian sinh
trưởng của cây.
Giai đoạn ra hoa và bắt đầu hình thành quả, nếu thiếu nước hoa có thể
bị rụng nhiều làm giảm số quả. Nếu như độ ẩm trong đất chỉ còn 35 – 40 % sẽ
làm cho năng suất giảm đến 2/3 (Phạm Văn Thiều, 2006) [32]. Theo Trần Thị
Trường và Cs [36] thiếu nước trong giai đoạn phát triển hạt, làm giảm năng
suất hạt hơn các giai đoạn trước, kể cả giai đoạn ra hoa. Muốn đậu tương đạt
năng suất cao, cần đảm bảo đủ ẩm trong suốt quá trình sinh trưởng và phát
triển của cây, đặc biệt là thời kỳ ra hoa và thời kỳ qủa lớn.
1.2.4. Yêu cầu về đất
Cây đậu tương không yêu cầu khắt khe lắm về đất trồng, nếu bón đủ
phân hữu cơ và vô cơ đất nào cũng có thể trồng được đậu tương. Tuy nhiên
đất tốt, đất nhẹ thì vừa dễ làm ít tốn công dễ đạt được năng suất cao. Độ pH
thích hợp cho đậu tương sinh trưởng phát triển là từ 5,2 – 6,5. Ở nước ta đậu
tương có thể trồng trên nhiều loại đất như đất phù sông suối, đất đỏ ba zan đất
trồng lúa, đất đồi núi và nương rẫy (Phạm Văn Thiều, 2006) [32].

11


1.3. Tình hình nghiên cứu đậu tương ở trên thế giới và ở Việt Nam
1.3.1. Tình hình nghiên cứu đậu tương trên thế giới

Để tạo giống đậu tương mới người ta dùng nhiều phương pháp khác
nhau như gây đột biến, lai hữu tính, gây đa bội thể...nhằm tạo ra các kiểu gen
mới có nhiều ưu điểm hơn bố mẹ và thông qua phương pháp chọn lọc để chọn
ra các dòng giống mới.
Thí nghiệm quốc tế về đánh giá giống đậu tương thế giới (isvex) lần thứ
nhất vào năm 1973 đã tiến hành thí nghiệm trong phạm vi từng vùng trên thế
giới với quy mô là 90 điểm thí nghiệm được bố trí ở 33 nước đại diện cho các
đới môi trường. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong phạm vi các địa điểm thí
nghiệm từ xích đạo đến vĩ tuyến 300 và độ cao dưới 500 m, năng suất trung
bình và trọng lượng hạt giảm khi vĩ tuyến tăng. Tuy vậy, chiều cao cây không
đạt mức tối ưu ở tất cả các đới. Mức đổ cây giảm khi vĩ tuyến tăng, mức tách
quả, rụng hạt đều không nặng ở tất cả các đới (Hoàng Văn Đức, 1982) [15].
Trung tâm nghiên cứu và phát triển rau màu châu Á (The Asian
Vegetable Research and Development Center AVRDC) đã thiết lập hệ thống
đánh giá Soybean - Evaluation trial - Aset giai đoạn 1 đã phân phát được trên
20.000 giống đến 546 nhà khoa học của 164 nước Nhiệt Đới và Á Nhiệt
Đới. Kết quả đánh giá giống của Aset với các giống đậu tương là đã đưa
vào trong mạng lưới sản xuất được 21 giống ở trên 10 quốc gia (Nguyễn
Thị Út, 1994 [39].
Mỹ là quốc gia luôn đứng đầu về năng suất và sản lượng đậu tương trên
thế giới. Ở Mỹ có trên 40 cơ quan nghiên cứu về đậu tương, các nhà nghiên
cứu khoa học Mỹ đi theo hướng sử dụng tổ hợp lai phức tạp, đồng thời tiến

13


hành nhập nội và thuần hoá để biến chúng thành những giống thích nghi với
từng điều kiện sinh thái cụ thể, làm phong phú thêm nguồn gen của nước
mình. Mục tiêu của các nhà chọn giống đậu tương của nước Mỹ là tạo ra
những giống có khả năng thâm canh cao, phản ứng trung tính với ánh sáng,

mới. Bằng phương pháp đột biến thực nghiệm đã tạo ra giống Tiefeng 18 do
xử lý bằng tia gama có khả năng chịu được phèn cao, không đổ, năng suất
cao, phẩm chất tốt. Giống Heinoum N06, Heinoum N016 xử lý bằng tia gama
có hệ rễ tốt, lóng ngắn, nhiều cành, chịu hạn, khả năng thích ứng rộng (Viện
khoa học kỹ thuật Việt Nam, 1995 ) [42].
Đài Loan bắt đầu chương trình chọn tạo giống đậu tương từ năm 1961 và
đã đưa vào sản xuất các giống Kaoshing 3, Tai nung 3, Tai nung 4 cho năng
suất cao hơn giống khởi đầu và vỏ quả không bị nứt. Đặc biệt giống Tai nung
4 được dùng làm nguồn gen kháng bệnh trong các chương trình lai tạo giống
ở các cơ sở khác nhau như trạm thí nghiệm Marjo (Thái Lan), Trường Đại
học Philipine (Vũ Tuyên Hoàng và các cs, 1995 [22].
Năm 1963 Ấn Độ đã bắt đầu khảo nghiệm các giống địa phương và nhập
nội tại trường đại học tổng hợp Pathaga. Năm 1967 thành lập chương trình
đậu tương toàn Ấn Độ với nhiệm vụ lai tạo và thử nghiệm giống mới và đã
tạo ra được một số giống mới có triển vọng như: Birsasoil, DS 74-24-2, DS
73-16. Tổ chức AICRPS (The All India Coordinated Research Project on
Soybean) và NRCS (National Research Center for Soybean) đã tập trung
nghiên cứu về genotype và đã phát hiện ra 50 tính trạng phù hợp với khí hậu
nhiệt đới, đồng thời phát hiện những giống chống chịu cao với bệnh khảm
virus (Brown D.M., 1960) [50]. Bên cạnh đó Ấn Độ cũng nghiên cứu để tạo ra
những giống có khả năng chống chịu bệnh khảm virus và có khả năng cố định
đạm cao ở đậu tương (Vũ Đình Chính, 1995) [10].

15


Ở Thái Lan với sự phối hợp giữa 2 trung tâm MOAC và CGPRT nhằm
cải tiến giống có năng suất cao, chống chịu với một số sâu bệnh hại chính (gỉ
sắt, sương mai, vi khuẩn...) đồng thời có khả năng chịu được đất mặn, chịu
được hạn hán và ngày ngắn (Judy W.H. and Jackobs J.A., 1979).

Nhìn chung công tác nghiên cứu và chọn tạo giống đậu tương trên thế
giới ngày càng phát triển, tập trung vào một số hướng sau:
- Chọn tạo giống có khả năng chống chịu tốt với sâu bệnh, điều kiện
khô hạn, hiệu quả cao phù hợp với vùng đồi núi ít mưa.
- Chọn tạo giống phản ứng thích hợp với quang chu kì và nhiệt độ cao
gồm các giống ít mẫm cảm và dễ thích nghi với các vùng sinh thái.
- Chọn tạo giống có khả năng cố định nitơ cao.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu đậu tương ở Việt Nam
Đậu tương là cây trồng có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao. Nó giữ vị
trí quan trọng trong cơ cấu cây trồng ở tất cả các vùng sinh thái trong cả nước.
Vì vậy công tác thu thập và chọn tạo giống đậu tương được các cơ quan
nghiên cứu nông nghiệp và các nhà khoa học rất quan tâm và đầu tư nghiên
cứu. Từ năm 1962 Trường Đại học Nông Nghiệp 1, Viện cây Công nghiệp và
Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành thu thập, nhập nội
và chọn tạo giống đậu tương. Theo Ngô Thế Dân và các cs, 1999 [13] hiện
nay trong ngân hàng gen cây trồng tại Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp
Việt Nam (VASI) đang lưu giữ 500 mẫu giống. Chủ yếu là các loại đậu tương
trồng được thu thập từ các địa phương và nhập nội từ các nước.
Theo Nguyễn Danh Đông, 1983 [16] Viện cây Công Nghiệp đã thu thập
được 250 mẫu giống. Viện đã tiến hành khảo sát và phân loại theo thời gian
sinh trưởng thành 6 nhóm giống:

17


+ Nhóm I chín rất sớm gồm các giống có thời gian sinh trưởng dưới 80 ngày.
+ Nhóm II chín sớm có thời gian sinh trưởng 80 - 90 ngày.
+ Nhóm III chín trung bình có thời gian sinh trưởng 90 - 100 ngày.
+ Nhóm IV chín trung bình muộn có thời gian sinh trưởng 100 110 ngày.
+ Nhóm V chín muộn có thời gian sinh trưởng 110 - 120 ngày.

gian sinh trưởng 90 - 100 ngày, chống chịu với bệnh gỉ sắt.
+ Chọn tạo giống đậu tương hè: Thời gian sinh trưởng từ 85 - 90 ngày
thích hợp cho các tỉnh miền núi phía Bắc. Năng suất đạt từ 15 - 20 tạ/ha, chịu
hạn, ít bị nhiễm virus chống đổ tốt, chống tách quả.
+ Chọn tạo giống đậu tương cho vùng Tây Nguyên có tiềm năng năng
suất từ 25 - 27 tạ/ha trong vụ xuân hè bắt đầu từ tháng 3, đậu tương hè cho
vùng Đông Nam Bộ bắt đầu gieo từ tháng 4, vụ đậu tương xuân hè cho vùng
đồng bằng sông Cửu Long.
+ Chọn giống đậu tương hạt to, có chất lượng hạt cao phục vụ cho chế
biến thực phẩm và làm rau. Năng suất quả tươi đạt từ 18 - 20 tấn/ha.
+ Tiến tới chọn tạo giống đậu tương thích ứng rộng có thể gieo trồng
được cả 3 vụ xuân, hè và thu đông, có khả năng cố định đạm cao, khả năng
cải tạo đất tốt.
+ Chọn tạo giống đậu tương thích hợp với việc trồng xen và gối vụ góp
phần tăng thu nhập trên đơn vị diện tích, vừa tăng độ phì của đất vừa tăng
hiệu quả hàng hoá của sản xuất nông nghiệp.
+ Chọn tạo ra giống đậu tương có số lượng, chất lượng protein và dầu cao.
+ Chọn tạo ra giống đậu tương có khả năng chịu được thuốc trừ cỏ.
Một số phương pháp nghiên cứu đậu tương áp dụng ở Việt Nam
+ Chọn tạo giống bằng phương pháp nhập nội

19


Chọn tạo giống cây trồng bằng phương pháp nhập nội vật liệu từ các
quốc gia và vùng sinh thái khác là con đường cải tiến giống nhanh nhất và rẻ
tiền nhất. Thực tiễn nhập nội cho thấy rằng, nhiều khi cây được nhập vào lại
sinh trưởng và phát triển mạnh mẽ hơn, có năng suất và chất lượng tốt hơn ở
nơi cội nguồn (Trần Duy Quý, 1999) [ 31].
Trong những năm gần đây việc nhập nội các nguồn gen quý hiếm từ các


Viện KHKTNNMN

67

4

Trường Đại học Cần Thơ

277

Tổng số

540

Nguồn: Trần Đình Long và các cs,2005) [25]
Từ nguồn vật liệu nhập nội, các nhà nghiên cứu chọn tạo giống đậu
tương đã tiến hành khảo sát, đánh giá và chọn lọc được những giống có

20


những tính trạng quý như chín sớm, chịu rét, chịu hạn, kháng bệnh gỉ sắt, hạt
to sử dụng trực tiếp vào sản xuất hoặc làm nguồn vật liệu sử dụng gián tiếp.
Nguyễn Thị Út và CTV, 2006 [40] nghiên cứu tập đoàn quỹ gen đậu
tương gồm 330 mẫu giống đậu tương thu thập tại Việt Nam và nhập nội, căn
cứ vào thời gian sinh trưởng đã phân lập chúng thành 5 nhóm giống:
- Nhóm chín cực sớm có TGST < 81 ngày;
- Nhóm chín sớm có TGST 81 - 90 ngày;
- Nhóm sớm trung bình có TGST 91 - 100 ngày;

Trần Văn Lài, Trần Thị Đính – Viện khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp
Việt Nam chọn tạo ra giống AK05 từ dòng G2261 nhập nội của Đài Loan
bằng phương pháp chọn lọc cá thể. Giống AK05 được công nhận là giống
quốc gia năm 1995. Đặc điểm cơ bản của giống: thời gian sinh trưởng 98 -105
ngày, cây sinh trưởng khỏe, hạt đẹp, năng suất trung bình 13 – 15 tạ/ha, khả
năng chống chịu sâu bệnh trung bình, chịu rét khá (Bộ nông nghiệp và Phát
triển nông thôn (2005) [3].
Cũng từ nguồn giống nhập nội của Philippin (giống có mã hiệu K6871,
K7002 trong tập đoàn VIR) Trần Đình Long, Đào Thế Tuấn và
A.G.Liakhôpkin Trung tâm hợp tác giống cây trồng Việt Xô - Viện khoa học
kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam đã chọn tạo ra giống đậu tương VX9-2 bằng
phương pháp chọn lọc cá thể.
Giống VX9-3 được công nhận là giống quốc gia 1995, đặc điểm cơ bản
của giống: thời gian sinh trưởng 90 - 100 ngày, cây cao trung bình 50 - 60 cm,
ít phân cành, dạng hạt bầu dục, vỏ màu vàng, P1000 hạt 140 – 150 gr, năng
suất trung bình 13 – 16 tạ/ha thâm canh tốt đạt 20 tạ/ha.
Giống VX9-2 có khả năng chịu rét ở giai đoạn đầu, chống bệnh gỉ sắt kém.
Trần Đình Long, Đào Thế Tuấn và A.G.Liakhôpkin Trung tâm hợp tác
giống cây trồng Việt Xô - Viện khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam đã
chọn tạo ra giống đậu tương VX9-3 từ giống đậu tương nhập nội của

22


Philippin (giống có mã hiệu K6871, K7002 trong tập đoàn VIR) bằng phương
pháp chọn lọc cá thể.
Giống VX9-3 được công nhận là giống quốc gia 1990, giống VX9-3 có
đặc điểm cơ bản: thời gian sinh trưởng 90 – 95 ngày vụ xuân, cây cao trung
bình 50 - 55 cm, ít phân cành, dạng hạt bầu dục, vỏ màu vàng P1000 hạt 140
– 150 gr, năng suất trung bình 12 – 15 tạ/ha thâm canh tốt đạt 20 tạ/ha.

kháng được sâu bệnh.
Năm 1995 Hà Hữu Tiến và các CS ở Trung tâm nghiên cứu Nông nghiệp
Hưng Lộc chọn tạo ra giống đậu tương HL92 từ AGS327 được nhập nội bộ
giống đậu tương kảo nghiệm quốc tế của Trung tâm Nghiên cứu và phát triển
rau đậu châu Á (AVRDC – Đài Loan, 1992).
Chọn tạo giống bằng phương pháp lai hữu tính
Lai hữu tính là một biện pháp đơn giản nhưng dễ đạt thành công
trong chọn tạo giống đậu tương (Hà Hữu Tiến và các cộng sự, 1989) [33].
Lai là một phương pháp cơ bản để tạo ra các nguồn vật liệu chọn giống tạo
giống đậu tương. Nhờ lai giống mà người ta có thể phối hợp những đặc
tính và tính trạng có lợi của các dạng bố hoặc của mẹ vào con lai. Phần lớn
các cây trồng hiện nay đều nhận được bằng phương pháp này (Trần Duy
Quý, 1999) [31]. Đậu tương là cây tự thụ phấn nên lai để tạo ra tổ hợp
thường thành công với tỷ lệ rất thấp.
Tuy vậy trong giai đoạn 1985 - 2005 các nhà chọn tạo giống đậu
tương Việt Nam đã lai tạo được 15 giống đậu tương được công nhận là
giống quốc gia (Trần Đình Long và Nguyễn Thị Chinh, 2005) [27].

24


Bảng 1.5. Các giống đậu tương được chọn tạo bằng phương pháp lai
hữu tính

Nguồn gốc

TGST
(ngày)

KL1000

2

ĐT92

ĐH4/TH84

100-110 120-140

16-18

1996

3

ĐT93

Dòng 82/134

130-140

15-18

1998

4

TL.57

ĐT95/VX93


1999

7

DT94

DT84x EC2044

90-96

140-150

15-20

1996

8

HL2

Nam Vang x
XV87-C2

86-90

130-140

12-16

1995


DT84 x DT90

90-95

190-220

18-32

2004

12

DT99

IS-011 x Cúc mốc

70-80

150-170

14-23

2002

13

DT90

90-100

90-95

140-160

17-25

2006

80-82

(Nguồn: Trần Đình Long và Nguyễn Thị Chinh, 2005) [27]

25



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status