nghiên cứu xây dựng quy trình nhân nhanh in vitro giống lan hoàng thảo trầm trắng (dendrobium nestor var alba) - Pdf 35

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ TÌNH

NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG QUY TRÌNH NHÂN NHANH
IN VITRO GIỐNG LAN HOÀNG THẢO TRẦM TRẮNG
(DENDROBIUM NESTOR VAR ALBA)

CHUYÊN NGÀNH: CÔNG NGHỆ SINH HỌC
MÃ SỐ: 60.42.02.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS-TS. HÀ THỊ THÚY
TS. NGUYỄN THANH HẢI

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Bài luận văn thạc sỹ này là công trình nghiên cứu thực sự
của cá nhân, được thực hiện dựa trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, kiến thức chuyên
ngành, nghiên cứu khảo sát tình hình thực tiễn và dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS. Hà Thị Thúy và TS. Nguyễn Thanh Hải .
Các số liệu, bảng biểu và những kết quả trong bài luận văn là trung thực, các
nhận xét, phương hướng đưa ra xuất phát từ thực tiễn và kinh nghiệm hiện có.
Một lần nữa tôi xin khẳng định về sự trung thực của lời cam đoan trên.
Người thực hiện


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page ii


MỤC LỤC

Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục viết tắt

vi

Danh mục bảng

vii

Danh mục hình


1.2.2. Thân

5

1.2.3. Lá

6

1.2.4. Hoa

7

1.2.5. Quả

8

1.3. Đặc điểm sinh thái học chi lan Hoàng thảo

8

1.3.1. Nhiệt độ

8

1.3.2. Ẩm độ

9

1.3.3. Ánh sáng


Page iii


1.6.1. Phương pháp truyền thống.

16

1.6.2. Phương pháp nhân giống bằng nuôi cấy mô tế bào thực vật

18

1.7. Tình hình nghiên cứu về nuôi cấy mô tế bào hoa lan.

19

1.7.1. Tình hình nghiên cứu về nuôi cấy mô hoa lan trên thế giới.

19

1.7.2. Tình hình nghiên cứu về nuôi cấy mô tế bào hoa lan trong nước.

23

Chương 2. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

25

2.1. Vật liệu và thời gian nghiên cứu

25

34

2.3.3. Phương pháp pha chế môi trường nuôi cấy in vitro

35

2.4. Các chỉ tiêu theo dõi

35

Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

37

3.1. Thiết lập hệ nuôi cấy vô trùng.

37

3.1.1. Ảnh hưởng khác nhau của chất khử trùng đến mẫu nuôi cấy.

37

3.1.2. Ảnh hưởng của nguồn mẫu đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của mẫu đưa
vào nuôi cấy.

41

3.1.3. Ảnh hưởng của môi trường nuôi cấy đến sinh trưởng của mẫu nuôi cấy
43



59

3.4.1. Ảnh hưởng của một số biện pháp huấn luyện cây con in vitro khi ra
ngôi.

59

3.4.2. Ảnh hưởng của các loại giá thể lên sinh trưởng, phát triển của cây con
ngoài vườn ươm.

60

3.5. Tóm tắt quy trình công nghệ nhân nhanh giống lan hoàng thảo trầm trắng đã
được nghiên cứu hoàn thiện.

62

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

63

1. Kết luận

63

2. Kiến nghị

64


CDR

Chiều dài rễ

CT

Công thức

CX

Chuối xanh

ĐHST

Điều hòa sinh trưởng

GA3

Giberrilin acid

HSN

Hệ số nhân

IAA

Indol Acetic Acid

Ki


SR

Số rễ

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vi


DANH MỤC BẢNG
STT
3.1a

Tên bảng
Ảnh hưởng của chất khử trùng đến khả năng tạo mẫu vô trùng

Trang
của

mẫu lá non
3.1b

38

Ảnh hưởng của nồng độ chất khử trùng đến khả năng tạo mẫu vô
trùng của mẫu chồi gốc

3.1c

39


46

3.6

Ảnh hưởng của 6-BA kết hợp với kinetin lên khả năng nhân protocorm.

48

3.7

Ảnh hưởng của nồng độ 6-BA đến khả năng tái sinh và nhân chồi từ
protocorm (sau 6 tuần)

3.8

49

Ảnh hưởngcủa 6-BA kết hợp với kinetin đến khả năng tái sinh và
nhân chồi từ protocorm (sau 6 tuần)

51

3.9

Ảnh hưởng kết hợp GA3 đến quá trình kéo dài chồi

52

3.10

3.15

59

Ảnh hưởng của các loại giá thể lên sinh trưởng, phát triển của cây
con giai đoạn vườn ươm (2 tháng tuổi)

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

61

Page vii


DANH MỤC HÌNH
STT
3.1

Tên hình

Trang

Ảnh hưởng của chất khử trùng đến sự sinh trưởng và tái sinh của mẫu
chồi gốc sau 20 ngày

3.2

40

Ảnh hưởng của chất khử trùng đến sinh trưởng và tái sinh của đoạn


48

Ảnh hưởng của 6-BA lên khả năng tạo chồi từ protocorm sau 6 tuần
nuôi cấy.

3.8

50

Ảnh hưởng của 6-BA kết hợp với kinetin lên khả năng tạo chồi từ
protocorm sau 6 tuần nuôi cấy.

51

3.9

Nồng độ α-NAA = 0.6mg/l

53

3.10

Ảnh hưởng của α - NAA lên khả năng tạo rễ sau 6 tuần nuôi cấy.

54

3.11

Ảnh hưởng của môi trường nuôi cấy tới sinh trưởng của cây con in vitro

được nâng cao, cả về mặt vật chất và tinh thần. Nhu cầu thưởng thức cái đẹp, đặc biệt
cái đẹp đến từ thiên nhiên, cỏ cây hoa lá dần đi vào đời sống mỗi người dân.
Từ xa xưa, chơi hoa, trồng hoa và thưởng thức hoa đã được coi là một thú
vui nghệ thuật độc đáo và thú vị. Ngày nay, nghề trồng hoa và kinh doanh hoa đang
ngày càng được chú tâm và phát triển bởi nó không chỉ bó hẹp trong giá trị thưởng
thức mà còn mang lại giá trị kinh tế rất cao. Phong lan là một trong những loài hoa
có chất lượng cao, giá trị kinh tế lớn, được nhiều người yêu thích bởi có hoa đẹp,
cấu trúc hoa kiêu kỳ, phức tạp. Hơn nữa, màu sắc hoa vô cùng phong phú, hương
thơm quyến rũ, thời gian chơi dài,…có lẽ cũng bởi vậy mà phong lan được mệnh
danh là nữ hoàng của các loài hoa!
Nhờ quá trình sưu tầm các loài lan đẹp, lạ mắt và các kỹ thuật lai tạo ra các
thứ lan mới, số loài hoa lan hiện nay trên thế giới có thể đã lên đến 100 ngàn loài.
Vì thế, trong thời gian gần đây, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, thú chơi lan đã
trở thành thông dụng và có điều kiện hơn, không phân biệt địa vị, tuổi tác, hoàn
cảnh kinh tế. Số người chơi và yêu chuộng hoa lan ngày càng tăng, hay nói cách
khác, nhu cầu sử dụng các chủng loại lan đã và đang tăng. Hoa lan hiện đang được
trồng và kinh doanh với 3 kiểu dáng: hoa cắt cành, cây đã thành thục trong chậu
treo hay bám trên giá thể và cây lan con từ 10 - 15 cm.
Trầm trắng (Dendrobium nestor var alba) là một loài lan bản địa vô cùng
quý giá của Việt Nam. Chúng không chỉ quý bởi vẻ đẹp, hương sắc hay độ bền hoa
mà còn quý bởi sự khan hiếm nguồn cây trong tự nhiên. Sự săn lùng và khai thác
bừa bãi đã làm chúng dần suy kiệt trong tự nhiên hơn nữa trên thị trường thì rất ít ỏi
và giá thành rất cao dẫn đến tình trạng phá rừng bừa bãi, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến môi trường tự nhiên của nhiều loài. Để khắc phục những vấn đề trên, chúng tôi
đã tiến hành đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy trình nhân nhanh in vitro giống
lan hoàng thảo Trầm trắng (Dendrobium nestor var alba)”.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 1


Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện quy trình

nhân nhanh giống lan Trầm trắng trong điều kiện in vitro, góp phần bảo vệ, lưu giữ
giống lan quý và giải quyết khó khăn về nguồn cung ứng giống cây cho thị trường.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 2


Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Nguồn gốc, phân bố, phân loại và giá trị của phong lan.
Cây hoa lan được biết đến đầu tiên ở phương Đông. Theo tác giả
Bretchacidor thì từ đời vua Thần Nông (2800 TCN) ở Trung Quốc, loài lan rừng đã
được dùng làm thuốc chữa bệnh. Sau đó cùng với vẻ đẹp và hương thơm của nó kết
hợp với công dụng chữa bệnh nên loài này đã có mặt ở châu Âu. Tại đây, người ta
đã tiến hành nghiên cứu khá công phu và tỉ mỉ. Pharatus (376-285 TCN) được coi là
cha đẻ của ngành lan học, vì ông là người đầu tiên dùng từ Orchids để chỉ một loài
hoa lan củ tròn. Sau đó là Linne (1707 - 1778) và Robiet Bron (1773 - 1858) là
những người đầu tiên phân biệt rõ ràng họ lan và các họ thực vật khác. Còn người
đặt nền tảng cho môn học về hoa lan là Joanlind (1779 - 1885). Năm 1836, ông
công bố tài liệu (A Tabuler View of the Tribes of Orchidea) để sắp xếp loài và chi
thuộc họ lan. Tên của họ lan do ông đưa ra được dùng đến ngày nay (dẫn theo Trần
Hợp, 1990).
Ở Việt Nam, dấu vết những nghiên cứu về lan ở buổi đầu không rõ rệt lắm, có
lẽ người đầu tiên khảo sát về lan là nhà truyền giáo Bồ Đào Nha Joanisde Loureiro, ông
đã mô tả cây lan Việt Nam trong cuốn “Flora de cochin chinesis” (1789).
Năm 1972, Phạm Hoàng Hộ trong bộ “Cây cỏ Việt Nam” (quyển II) đã mô
tả kèm hình vẽ 289 loài lan gặp ở Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ, 1993).
Năm 1992, Gunnar Seidenfaden người Đan Mạch đã phát hành cuốn “Hoa

Neottioideae

Vandoideae

Cả 6 họ phụ này đều phổ biến rộng rãi trên trái đất. Họ lan của Việt Nam
cũng khá phong phú. Theo thống kê sơ bộ gần đây ở nước ta có khoảng 152 chi và
897 loài. Đây là một thế mạnh tự nhiên, làm cơ sở cho phát triển ngành trồng lan
nước nhà. Mặc dù vậy, việc phân loại thực vật nói chung và lan nói riêng là hết sức
phức tạp, cho đến nay chưa có các khóa phân loại cho các đơn vị dưới loài, trong
khi đó việc làm này lại hết sức quan trọng, nhất là trong công tác chọn giống cây
trồng (Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997).
Về giá trị của cây phong lan, trước hết phải kể đến giá trị trên phương diện
thẩm mỹ và kinh tế.
Hoa lan được nhiều người yêu thích, bởi lẽ đây là loài hoa có cấu trúc rất kiêu
kỳ và phức tạp, những trạm trổ rất tinh vi, đặc biệt ở bộ phận môi. Màu sắc của hoa
được pha trộn một cách hài hòa, cân đối, lắm khi lại hiện lên những nét tương phản rõ
rệt, hay chìm lắng và cuốn hút. Khác với các loài ký sinh thông thường có tác động
hủy hoại ký chủ, đa số các loài lan có lối sống phụ sinh chỉ xem cây chủ làm giá thể.
Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà ông cha ta đã dùng cây lan biểu hiện cho người
quân tử “Mai, Lan, Cúc, Trúc”, một đạo đức cao quý của dân tộc Việt Nam.
Về mặt kinh tế, người ta đã thống kê, ở các nước xuất khẩu hoa lớn như Thái
Lan, Đài Loan, Hà Lan, Úc, Nhật Bản,…doanh thu từ lan đạt vài trăm triệu USD/
năm. Còn ở Việt Nam, theo các chuyên gia về lan, nghề trồng lan sẽ đem lại một lợi
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 4


nhuận không nhỏ cho người dân. Theo tính toán của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, nếu trồng phong lan cắt cành loài Dendrobium và Mokara, mỗi ha đất

Page 5


hành gồm nhiều mô mềm chứa đầy dịch nhầy, phía ngoài có lớp biểu bì với vách tế
bào dày, nhẵn bóng bảo vệ để tránh sự mất nước do sức nóng của mặt trời. Đa số
các củ giả hành có màu xanh nên nó cùng với lá làm nhiệm vụ quang hợp (Trần
Hợp, 2000).
Thân của các đại diện trong chi Hoàng thảo đều phân đốt, hình trụ, hình con
suốt, hình chùy hoặc hình trứng, có chiều dài thay đổi từ 2 - 3cm đến 120cm hoặc
đôi khi hơn, kích thước phổ biến là 20 - 50cm. Lát cắt ngang thân có thể là hình
tròn, bầu dục, đôi khi hình 3 cạnh nhưng được gọi chung theo kích thước ngang này
là chiều dày, thay đổi từ 0,3 - 1,5cm nhưng đa số hay gặp là khoảng từ 0,5 - 1 cm.
Thân có thể mảnh (sect. Grastidium, sect. Trongyle), đôi khi dẹt bên (sect. Aporum,
sect. Oxystophyllum) hoặc là dày mập lên (sect. Chrysotoxae, sect. Dendrobium,
sect. Superbientia). Phần dày mập lên của thân gồm một vài lóng ở sát gốc (sect.
Crumenatae) hoặc ở sát đỉnh (sect. Bolbidium) còn đa số ở giữa thân đều dần lên
đến đỉnh và xuống phía gốc. Đôi khi phần dày lên theo hình con suốt có 4 gờ sắc
(sect. Chrysotoxae, sect. Dendrobium, sect. Crumenatae). Cá biệt ở vài loài chỉ có
các mấu dày lên, còn lóng thì hầu như không làm thân có tràng hạt (sect. Pendulum)
hoặc sự dày lên là dần dần độc lập làm thành dạng đùi gà nối tiếp (D.nobile,
D.wardianum). Phần tận cùng là gốc, nơi xuất phát của rễ thường là nhỏ mảnh
nhưng cũng không ít trường hợp phình to ra.
1.2.3. Lá
Lá mọc thành hai dãy so le nhau, không có cuống mà chỉ có bẹ ôm thân, ít
khi không có bẹ (sect. Bolbidium, sect. Chrysotoxae). Lá phân bố suốt dọc thân
nhưng ở nhiều đại diện lá tập trung 2 - 4 chiếc ở đỉnh thân (sect. Chrysotoxae),
cũng có khi phần đỉnh thân chỉ có hoa mà không có lá (D. acinaciforme, D.
dalatense). Lá thường tồn tại khi cây ra hoa nhưng ở nhiều loài lá rụng trước khi
hoa nở. Số lượng lá thay đổi nhiều có khi chỉ còn 3 - 5 lá, vài loài chỉ còn 1 - 2 lá.
Lá thường cứng, dạng da bóng, ít khi nạc và mềm (sect. Grastidium), bề mặt

lòng máng, đỉnh cột lõm để chứa khối phấn, hai mép đỉnh cột có 2 răng cột, phủ lên
đỉnh cột là nắp bao phấn.
Ở gốc cột có mỏ, thường là một phần phụ dạng màng nhô ra nhằm ngăn cách
bao phấn với nhụy. Chỗ thấp hất phía dưới cột là chân cột, thường hình tam giác
thuôn và có tuyến mật. Bao phấn hình mũ, bề mặt thường nhẵn hoặc có nhũ mịn,
đôi khi có lông nạc bao phủ. Khối phấn hình chùy, không có chuôi, số lượng là 4

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 7


xếp thành 2 cặp. Bầu hạ thường nhỏ và thon dần xuống cuống hoa, ranh giới giữa
bầu và cuống hoa không rõ rệt, bầu 3 ô và có rất nhiều noãn.
1.2.5. Quả
Quả nang thường hình chùy hoặc hình con suốt, chứa rất nhiều hạt nằm xen
lẫn những sợi lông mảnh. Khi quả già gặp trời ẩm sợi này sẽ hút nước và trương
lên, phá vỡ vỏ quả giải phóng hạt ra ngoài. Hạt rất nhỏ hầu như không trọng lượng,
bao quanh hạt là lớp màng dạng mắt võng, trong suốt chứa đầy không khí dễ dàng
bay cùng hạt trong không khí nhờ gió.
1.3. Đặc điểm sinh thái học chi lan Hoàng thảo
Hoàng thảo (Dendrobium) là một thế giới vô cùng phức tạp, ngay sự ra hoa
cũng thuộc loại khác nhau, được phân chia thành 2 nhóm: một nhóm gồm các loài
Dendrobuim ra hoa vào đầu mùa mưa do quá trình khô hạn trong mùa nắng, nhóm
khác ra hoa vào dịp tết và hiện chưa được biết chắc chắn là do ảnh hưởng của quang
chu kỳ, nhiệt độ hay cả hai yếu tố.
Chi Dendrobium gồm nhiều loài thích nghi với các điều kiện sinh thái khác
nhau. Có thể tạm chia chúng làm 2 nhóm chính: nhóm ưa lạnh và nhóm ưa nóng.
Yêu cầu ngoại cảnh của 2 nhóm này như sau:
1.3.1. Nhiệt độ

với độ che sáng 30% dưới đất và 40% ở trên cao với cường độ ánh sáng từ 1500030000 lux rất thích hợp cho sự phát triển của Dendrobium ( Trần Duy Quý, 2005).
Ngoài ra, thời gian chiếu của ánh sáng trong ngày là điều kiện quyết định sự
ra hoa của một số loài chịu ảnh hưởng của quang chu kỳ như: Giả hạc, Long tu,
Kim điệp chỉ ra hoa với điều kiện ánh sáng có thời gian chiếu ít hơn 10h trong ngày.
Tuy nhiên, một giả thiết khác cần được nghiên cứu là có thể các loài này ra hoa do
sự lạnh kéo dài vào tháng 12. Loài lan Thạch hộc chỉ cần bị lạnh trong vài giờ, cây
sẽ trổ hoa sau 1 tuần lễ.
1.3.4. Giá thể
Dendrobium yêu cầu chậu trồng phải thật thoáng và không úng nước. Tuy
nhiên, do bản năng sinh học và cấu trúc thực vật với giả hành có thân, các loài
Dendrobium cần giá thể hơi ẩm nhưng không được úng làm thối giả hành. Vì thế
một số loài có thể phát triển trên các giá thể là xơ dừa hay quả dừa, dùng như một
cái chậu chứa sẵn giá thể. Tuy nhiên nếu giá thể là xơ dừa phải hạn chế số lần tưới
nước, nếu chậu là quả dừa nguyên phải cưa phần đáy, nếu không cây bị thối vì quá
ẩm. Cũng có thể trồng cây lan Dendrobium với căn hành cách đáy chậu khoảng
3cm, rồi rải thật thoáng xung quanh căn hành là một số rễ bèo lục bình được phơi
sạch. Với cách trồng này thì kích thước chậu và cây phải thật tương xứng. Tuy
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 9


nhiên, giá thể than và gạch nung vẫn tỏ ra hiệu quả nhất đối với các loài
Dendrobium.
Dendrobium là một giống lan rất nhạy cảm khi sống trên giá thể không thích
thích hợp cho việc phát triển của lan và biểu hiện một số cây con sẽ được mọc trên
ngọn thân của các giả hành. Khi có điều này xảy ra cần phải tiến hành thay chậu, vì
chắc chắn các giá thể trong chậu đã không còn tác dụng. Hiện tượng này là do giá
thể đã bị quá ẩm, lắng cặn xuống đáy chậu tạo thành một lớp mùn úng nước, chính
lớp mùn này là điều kiện sinh sống thuận lợi của côn trùng phá hoại bộ rễ cây lan.

cánh hoa hơi nhọn và dài, thường cụp không mở căng hết, trông buồn buồn. Thơm
đặc trưng mùi giả hạc rừng.
Thời gian nở hoa: tháng 3 âm lịch, độ bền: 20 ngày.

Hình 1: Lan trầm trắng ( sưu tầm).
Hiện nay trên thị trường trong nước và ngoài nước, lan Dendrobium nestor var
alba có thể coi là một loài quý hiếm, có giá trị thẩm mỹ và giá trị kinh tế cao.
1.5. Tình hình sản xuất hoa lan ở Việt Nam và trên thế giới
1.5.1. Tình hình sản xuất hoa lan trên thế giới
Hoa lan (Orchidaceace) là một trong những đỉnh cao của sự tiến hóa của các
loài cây có hoa. Hoa lan được con người biết đến từ rất sớm. Ở châu Á, người
Trung Quốc biết thưởng thức và chăm sóc hoa lan sớm hơn nhiều so với người châu
Âu. Tuy nhiên, để biến hoa lan thành mặt hàng có giá trị xuất khẩu thì người châu
Âu mới là những người đi tiên phong. Từ khi con người biết ứng dụng những thành
tựu khoa học kỹ thuật, ngành trồng lan có những bước tiến bộ nhảy vọt. Đầu tiên,
phương pháp cộng sinh nấm để gây sự nảy mầm được Noel Bernad thực hiện năm
1904, nhưng cho đến khi phương pháp gieo hạt không cộng sinh trong phòng thí
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 11


nghiệm được Knudson nghiên cứu năm 1922, ngành trồng lan mới thật sự có những
chuyển biến rõ rệt. Sau đó, phương pháp cấy mô lan đa thân đã gây lạc quan cho tất
cả các nhà trồng lan trên thế giới (dẫn theo Nguyễn Công Nghiệp, 2002). Phương
pháp này có thể nhân giống lan với tốc độ rất cao: 4 triệu cây con/năm, với các vốn
ban đầu chỉ là một chồi non, được Morel khám phá. Lúc này, ngành trồng lan có
những chuyển biến với nhịp độ chưa từng thấy để đi sâu vào lĩnh vực thương mại
(dẫn theo Nguyễn Công Nghiệp, 2002).
Ngày nay, với sự tiến bộ vượt bậc của ngành thực vật học, chính phủ Pháp

năm và xuất đi 50 nước trên thế giới. Hiện nay, Thái Lan là nước đứng đầu thế giới về
xuất khẩu hoa lan, đạt 110 triệu USD trong năm 2003. Thái Lan có 18 phòng nuôi cấy
mô hoa lan thương mại hoạt động ở Băng Cốc và các vùng phụ cận. Hàng năm, nước
này sản xuất 31,6 triệu cây con trong đó Dendrobium chiếm 80%, Mokara 5%, còn lại
là các loài lan khác.
Đài Loan: Chú trọng đầu tư nhiều vào nuôi trồng Phalaenopsis và chọn tạo
nhiều giống mới, đem lại doanh thu hàng năm trên 9,3 tỷ Đài tệ. Hiện nay, đã tạo ra
được một số giống lan quý có khả năng cắt hoa và trồng trong chậu.
Trung Quốc: Là nước có truyền thống tuyển chọn và tạo các giống lan
kiếm. Họ sử dụng các phương pháp lai hữu tính thu quả, sau đó gieo và tuyển chọn
các loài hoa đáp ứng được màu sắc, kiểu dáng rồi sử dụng kỹ thuật nhân giống in
vitro và in vivo để tạo ra một số lượng lớn các cây, sau đó cho ra hoa đồng loạt tạo
ra sản phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế cao, giá từ 5 - 10 USD/cành.
Ở Singapore, nghề trồng lan xuất khẩu trên quy mô lớn bắt đầu từ năm
1987. Nhà nước đã thấy rõ tiềm năng xuất khẩu loại Lan này trên thị trường thế giới
nên đã mở rộng trang trại trồng hoa lan. Hiện nay, Singapore chiếm 12% thị trường
kinh doanh phong lan trên thế giới.
Nhật Bản: Đã đầu tư 6,6 triệu USD cho Thái Lan để mở rộng cơ sở sản
xuất với công suất 10 triệu cây hoa mỗi năm và hiện nay Nhật Bản cũng là khách
hàng lớn nhất của Singapore với khả năng tiêu thụ 60% số cây lan nước này.
1.5.2. Tình hình nghiên cứu, sản xuất và phát triển phong lan ở Việt Nam
Trước những năm 1986, nghề trồng hoa của Việt Nam chỉ tập trung ở một
vài làng nghề ở Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Lạt và một vài tỉnh
miền Tây Nam Bộ. Diện tích trồng hoa của Việt Nam theo số liệu thống kê năm
1993 chỉ chiếm 0,02% tổng diện tích đất nông nghiệp (khoảng 1.585 ha). Trong đó,
diện tích trồng hoa lan chiếm 10%.
Trong những năm gần đây, do sự phát triển chung của nền kinh tế, đời
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 13

đưa ra thị trường phục vụ người chơi. Hải Phòng xây dựng khu Nông nghiệp công
nghệ cao (Mỹ Đức, An Lão) với mục tiêu cụ thể: sản xuất 300000 cây giống hoa lan
bằng công nghệ của Viện Sinh học nông nghiệp – Học viện Nông nghiệp Việt Nam
và của Hiệp hội hoa Thái Lan (Xây dựng khu Nông – Lâm nghiệp công nghệ cao tại
trung tâm phát triển lâm nghiệp Hải Phòng (2003)). Tất cả những chính sách đầu tư
trên đã đem lại hiệu quả to lớn thúc đẩy ngành sản xuất lan công nghiệp phát triển
và thu được nhiều thành tựu, đáp ứng nhu cầu trong nước và một phần được xuất ra
thị trường quốc tế đem lại nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia và thu nhập lớn cho
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 14


người trồng, người kinh doanh và người đầu tư vào lĩnh vực này.
Khác với lan công nghiệp, lan bản địa (lan rừng) lại chỉ phát triển nhỏ lẻ và
được nuôi trồng ở quy mô hộ gia đình, tập trung chủ yếu ở Hà Nội và một số vùng
phụ cận.
Xã Đông La - Hoài Đức - Hà Nội những năm gần đây trở nên nổi tiếng với
nghề trồng lan, đây được coi là trung tâm nuôi trồng phong lan rừng lớn nhất miền
Bắc. Đến nay cả xã đã có 52 hộ trồng lan, trong đó có hơn 30 hộ có diện tích vườn
lan từ 500 đến 1000m2, tập trung nhiều nhất ở thôn Đông Lao và Đồng Nhân với
những vườn lan như Huyền Chân, Trường Uyên, Thực Hà, Tiền Hảo,... Theo lãnh
đạo xã Đông La, nghề trồng lan đã đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế của địa
phương, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Trung bình mỗi năm, trừ
chi phí, một hộ trồng lan cũng có lãi hàng trăm triệu đồng, gấp nhiều lần nghề nông
nghiệp khác.
Bên cạnh Đông La, một số địa phương như Gia Lâm, Đông Anh (Hà Nội),
Văn Giang (Hưng Yên), Mộc Châu (Sơn La), Phổ Yên (Thái Nguyên) cũng đang có
nhiều hộ gia đình tập trung đầu tư vào sản xuất và nuôi trồng phong lan bản địa, tuy
nhiên quy mô diện tích các vườn lan này khá nhỏ, chỉ từ 300 - 500m2. Số lượng loài

không tạo được sự chủ động cho nhà sản xuất.
Để có thể đáp ứng nhu cầu nội địa, tiến vào thị trường phong lan thế giới,
ngoài việc khắc phục những khó khăn trên, ngành công nghiệp hoa lan của Việt
Nam còn phải quan tâm rất nhiều đến vấn đề về tạo giống, công nghệ sản xuất, canh
tác, công nghệ sau thu hoạch, đóng gói, kiểm dịch và đầu tư mở rộng cơ sở hạ tầng
cho sản xuất loài hoa này.
1.6. Các phương pháp nhân giống lan Hoàng Thảo.
1.6.1. Phương pháp truyền thống.
1.6.1.1. Phương pháp nhân giống hữu tính.
Phương pháp nhân giống hữu tính là phương pháp nhân giống bằng hạt.
* Những ưu điểm của phương pháp nhân giống bằng hạt.
- Kỹ thuật đơn giản, dễ làm.
- Hệ số nhân giống cao.
- Tuổi thọ của cây trồng bằng hạt thường cao.
- Cây trồng bằng hạt thường có khả năng thích ứng rộng với điều kiện ngoại cảnh.
* Những nhược điểm của phương pháp nhân giống bằng hạt
- Cây giống trồng từ hạt thường khó giữ được những đặc tính của cây mẹ.
- Cây giống trồng từ hạt thường ra hoa kết quả muộn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 16



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status