skkn sử DỤNG các PHƯƠNG PHÁP dạy học TÍCH cực NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG dạy học môn GIÁO dục CÔNG dân lớp 12 - Pdf 37

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Trường THPT Nam Hà
Mã số: ...........

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC TÍCH CỰC NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
DẠY HỌC MÔN
GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12

Người thực hiện: TRẦN THỊ THANH HẰNG
Lĩnh vực nghiên cứu:
- Quản lý giáo dục



- Phương pháp dạy học bộ môn: .....GDCD....
- Lĩnh vực khác:

Có đính kèm:
 Mô hình

 Phần mềm



.............................................. 

 Phim ảnh

trung học phổ thông”
+ “Lồng ghép giáo dục pháp luật trong giảng dạy môn giáo dục công dân lớp 10”
+ “Khai thác và vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ở một số bài học môn
GDCD lớp 10”



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNTT

: công nghệ thông tin

CNXH

: chủ nghĩa xã hội

GDCD

: giáo dục công dân

GDCT

: giáo dục chính trị

GV

: giáo viên

HS



UBND

: ủy ban nhân dân


1
SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC NHẰM NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Bước vào thế kỷ 21 - thế kỷ mà tri thức và kĩ năng của con người được coi như là
yếu tố quyết định sự phát triển xã hội, nền giáo dục phải đào tạo ra những con người
thông minh, có trí tuệ phát triển, giàu tính sáng tạo và tính nhân văn. Nghị quyết hội nghị
lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VII về tiếp tục đổi
mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã nhận định: "Con người được đào tạo thường thiếu
năng động, chậm thích nghi với nền kinh tế xã hội đang đổi mới" [14; 2]. Từ đó đã nêu
rõ một trong những quan điểm chỉ đạo để đổi mới sự nghiệp giáo dục là phải: "phát triển
giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con
người có kiến thức văn hoá khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo
và có tính kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu CNXH, sống lành mạnh, đáp ứng
nhu cầu phát triển đất nước những năm 90 và chuẩn bị cho tương lai"[14; 3]. Để thực
hiện được những mục tiêu trên, đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) ở trường THPT
là một trong những nhiệm vụ cấp bách mà Đảng và nhà nước ta quan tâm. Nghị quyết
Ban chấp hành Trung ương II khoá VIII nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp
giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng
tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến, phương tiện hiện đại
vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học
sinh...” [15; 11].
Trong những năm qua, việc giảng dạy môn GDCD ở các trường THPT của
cả nước nói chung, và dạy học chương trình GDCD lớp 12 Công dân với pháp luật

chọn lựa các kết quả trả lời của HS hoặc dùng để thu thập và chọn lựa các phương
án giải quyết vấn đề liên quan đến nội dung bài học.
Phương pháp động não đúng như tên gọi của nó, thích hợp với các hoạt động
dạy học hướng đến mục đích phát triển ở người học những phẩm chất hoạt động
độc lập, đặc biệt là khả năng sáng tạo. Mặt khác, kết quả của hoạt động động não
là những ý tưởng, các giải pháp mới mẻ của người học được hình thành, thông qua
đó, GV có thể thu thập được nhiều điều bổ ích.
Ưu điểm của phương pháp động não:
Với phương pháp động não, GV dể dàng soạn thảo câu hỏi và dể thực hiện,
không tốn kém, đồng thời huy động được tối đa trí tuệ của tập thể trong quá trình
tìm kiếm thông tin để trả lời. Tạo được không khí sôi nổi nhờ quá trình tham gia
phản hồi một cách tích cực của người học để cải tạo không khí học tập trầm lặng,
buồn tẻ.
Nhược điểm:
Có thể mất nhiều thời gian nếu lớp học đông, các ý kiến trả lời có thể tản
mạn hoặc lạc đề. Hiệu quả của phương pháp mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp ý
tưởng chứ chưa bồi dưỡng được năng lực tư duy phân tích, chứng minh, tổng hợp
của học sinh.
- Phương pháp xử lý tình huống (phương pháp nghiên cứu trường hợp điển
hình)
Phương pháp xử lý tình huống là một phương pháp dạy học, trong đó HS tự
lực nghiên cứu một tình huống cụ thể trong thực tiễn và giải quyết vấn đề do tình
huống đặt ra dưới sự hướng dẫn của GV.
Tình huống là một hoàn cảnh thực tế, câu chuyện có thật hoặc được hư cấu,
mô phỏng theo tình huống thường xảy ra trong thực tiễn có chứa đựng những mâu
thuẫn, xung đột. Người học sau khi tiếp nhận phải đưa ra một số quyết định trên cơ
sở cân nhắc các phương pháp giải quyết khác nhau.
Ưu điểm của phương pháp tình huống:




6
Kiến thức mà HS thu nhận được không chỉ là kết quả của hoạt động riêng
biệt của cá nhân mà thu nhận được thông qua quá trình cọ xát hợp tác, vì thế kiến
thức của HS sẽ giảm bớt tính chủ quan, phiến diện và tăng tính khách quan khoa
học.
Kiến thức trở nên sâu sắc bền vững, dễ nhớ và nhớ nhanh do được giao lưu,
học hỏi giữa các thành viên trong nhóm.
Giúp HS phát triển năng lực giao tiếp thông qua sự cộng tác làm việc trong
nhóm, giúp HS phát triển năng lực giao tiếp như biết lắng nghe, chấp nhận và phê
phán ý kiến của người khác, biết trình bày và bảo vệ ý kiến của mình trong nhóm.
Tăng cường sự tự tin cho HS. HS được liên kết với nhau qua giao tiếp xã
hội, các em sẽ mạnh dạn hơn và ít sợ mắc sai lầm.
Nhược điểm:
Dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm đòi hỏi nhiều thời gian. Thời
gian 45 phút của một tiết học cũng là trở ngại gây khó khăn trên con đường đạt
được thành công cho công việc nhóm.
Thảo luận nhóm nhưng chưa được luyện tập sẽ dễ gây ra hỗn loạn. Thí dụ có
thể xẩy ra một HS phụ trách nhóm theo kiểu độc đoán, các thành viên trong nhóm
không làm bài mà quan tâm đến vấn đề khác. Giữa các nhóm có thể phát sinh sự
đối địch và giận dữ.
Sự thụ động hoặc hăng hái quá mức của các nhóm sẽ gây khó khăn cho sự
điều khiển của GV.
- Phương pháp đóng vai
Đóng vai là một PPDH, trong đó GV tổ chức cho người học thực hành, “làm
thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là PPDH
nhằm giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một sự kiện
cụ thể mà người học vừa thực hiện hoặc quan sát. Việc “diễn” không phải là phần
chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận và rút ra nội dung
bài học sau phần diễn ấy.

cần phải suy luận, không mất nhiều thời gian. Các câu hỏi thường không khó hiểu,


8
HS không phải chuẩn bị trước ở nhà, những kiến thức đó đã có sẵn trong trí óc, HS
chỉ cần tái hiện lại và trả lời theo những yêu cầu của câu hỏi.
- Vấn đáp giải thích – minh họa: Nhằm mục đích làm sáng tỏ, chứng minh
một nội dung tri thức nào đó. Thực hiện dạng này, GV lần lượt nêu ra những câu
hỏi kèm theo những ví dụ minh họa để HS dể hiểu, dể nhớ. Phương pháp này đặc
biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của các phương tiện và thiết bị dạy học.
- Vấn đáp tìm tòi: Đây là dạng vấn đáp phổ biến trong dạy học GDCD và
đòi hỏi cao nhất tính chủ động, sáng tạo của HS. Với dạng vấn đáp này, GV dùng
một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lí để hướng dẫn HS từng bước phát hiện ra
bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện tượng đang nghiên cứu, tìm hiểu. Với
phương pháp này, GV là người tổ chức, hướng dẫn để HS tự lực phát hiện kiến
thức mới, qua đó HS được rèn luyện phương pháp tư duy, kỹ năng trong nhận thức
và có được niềm vui của sự khám phá.
Ưu điểm của phương pháp vấn đáp:
Phương pháp vấn đáp đã khắc phục được điểm yếu của phương pháp thuyết
trình nhờ có sự tương tác giữa GV và HS thông qua việc truyền thụ và lĩnh hội.
Việc cùng tham gia giải quyết các vấn đề giữa GV và HS đã khắc phục được lối
truyền thụ một chiều của phương pháp thuyết trình.
Kích thích được tư duy năng động, sáng tạo của HS nhờ quá trình tự lực tìm
ra bản chất vấn đề dưới sự gợi ý, hướng dẫn của GV.
GV dể dàng đánh giá được năng lực nhận thức và mức độ tiếp thu tri thức
của HS. Đó là thông tin quan trọng để GV điều chỉnh PPDH của mình.
Rèn luyện cho HS một số thao tác tư duy lôgic như: phân tích, tổng hợp,
khái quát, chứng minh, diễn giải...
Nhược điểm:
Phương pháp này phụ thuộc nhiều vào năng lực và thái độ của HS. Bên cạnh

Nhược điểm:
Để vận dụng tốt PPDH nêu vấn đề còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ,
năng lực vận dụng phương pháp của GV cũng như trình độ nhận thức của HS. Bên


10
cạnh đó, khi sử dụng phương pháp này, GV sẽ cần nhiều thời gian trong quá trình
chuẩn bị bài giảng và triển khai bài giảng trên lớp.
c. Tính tất yếu khách quan của việc sử dụng các phương pháp dạy học
tích cực trong dạy học môn giáo dục công dân lớp 12
- Cơ sở triết học
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, bản chất con người là tổng hòa
những mối quan hệ xã hội, bản chất ấy được hình thành và thể hiện ở những con
người hiện thực. Là những con người cụ thể sống trong điều kiện cụ thể, những
mặt khác nhau tạo nên bản chất con người, ngoài ra tất cả các mối quan hệ xã hội
đều góp phần hình thành nên bản chất con người. Trong các yếu tố hình thành nên
bản chất con người, giáo dục có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi vì sự nhận thức
của con người là sự nhận thức có tính tích cực, năng động, sáng tạo trên cơ sở thực
tiễn. Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm
cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn
bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát
triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo
dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động
trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ
ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy,
các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất.
GDCD là một môn học có đặc điểm tri thức mang tính khái quát hóa, trừu
tượng hóa cao. Chương trình GDCD tập trung khá nhiều nội dung liên quan đến
các phân môn khác, chứa đựng kiến thức của các môn khoa học khác nhau. Vì vậy
trong quá trình giảng dạy môn GDCD lớp 12, GV cần phải biết sử dụng các PPDH

và phát triển kỹ năng. Đó là yêu cầu đặt ra cho ngành Giáo dục nói chung và cho
môn GDCD nói riêng. Người GV trong quá trình dạy học phải làm thế nào để có
thể khơi dậy những điểm mạnh vốn có của HS lớp 12, đó là sự ham học hỏi, muốn
khám phá bản thân và thế giới, tính độc lập, chủ động và sáng tạo.
- Định hướng đổi mới nội dung và phương pháp dạy học


12
Định hướng đổi mới PPDH đã được đặt ra từ cuộc cải cách giáo dục lần thứ
tư của thế kỷ trước (1980), nhưng cho đến nay, việc sử dụng các PPDH tích cực
vẫn chưa có sự thay đổi, chuyển biến nhiều, phổ biến vẫn là những PPDH truyền
thống với cách dạy thầy đọc, trò chép, thầy giảng, trò nghe. Và chính cách dạy đó
đã tạo ra một bộ phận không nhỏ học sinh thụ động, kém năng động, sáng tạo, có
tính ỷ lại, thiếu kỹ năng giải quyết những vấn đề thực tiễn.
Chính vì lẽ đó, có thể nói, đổi mới PPDH là xu hướng chung của giáo dục
hiện nay. Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong
Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1 - 1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII
(12 - 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (2005), được cụ thể hóa trong
các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 15 (4 - 1999). Luật
Giáo dục, điều 28, khoản 2, 2005 chỉ rõ: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm
việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh". [8, 17]
2. Cơ sở thực tiễn của việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực
trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT Nam Hà, Thành phố Biên
Hòa, Tỉnh Đồng Nai
Trong mục tiêu giáo dục chung nhằm đào tạo những công dân phát triển
toàn diện, trường THPT Nam Hà luôn chú trọng giáo dục học sinh không chỉ giỏi
về tri thức mà còn phải nâng cao trình độ nhận thức, luôn biết gắn trách nhiệm của

Tiến hành thực nghiệm các PPDH tích cực trong dạy học chương trình
GDCD lớp 12 nhằm khẳng định tính đúng đắn và hiệu quả của việc sử dụng các
PPDH tích cực trong dạy học bộ môn GDCD ở trường THPT hiện nay. Kết quả
thực nghiệm là cơ sở để khẳng định tính khả thi của việc sử dụng các PPDH tích
cực trong dạy học môn GDCD lớp 12, qua đó khẳng định được tính ưu việt khi sử
dụng PPDH tích cực so với các PPDH khác.
- Nội dung thực nghiệm.
Thiết kế giáo án:
Bài 4: Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống
xã hội (tiết 1)
I. Mục tiêu bài học:
1. Về kiến thức:
- Hiểu được khái niệm, nội dung quyền bình đẳng của công dân trong lĩnh vực
hôn nhân và gia đình.
- Nêu được trách nhiệm của Nhà nước đối với việc bảo đảm cho công dân
thực hiện quyền bình đẳng trong hôn nhân và gia đình.
2. Về kỹ năng:
Biết thực hiện và nhận xét việc thực hiện quyền bình đẳng của công dân trong
các lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
3. Về thái độ:
Có ý thức tôn trọng các quyền bình đẳng của công dân trong lĩnh vực hôn
nhân và gia đình.
II. Phương tiện dạy học:
- Sách giáo khoa, sách giáo viên GDCD 12.


15
- Sách tham khảo: Tình huống GDCD 12; Bài tập trắc nghiệm GDCD 12; Đề
kiểm tra theo chuẩn kiến thức, kĩ năng GDCD 12.
- Hiến pháp năm 1992.

16
thoại, vấn đáp, khái quát lại kiến thức hôn nhân và gia đình:
cũ:
Hỏi: Hôn nhân là gì? Hôn nhân
đánh dấu bằng sự kiện nào? Mục đích
của hôn nhân?
(Là sự liên kết đặc biệt giữa 1 nam
và 1 nữ trên cơ sở tự nguyện, bình
đẳng được nhà nước thừa nhận nhằm
chung sống lâu dài và xây dựng gia
đình hạnh phúc. Hôn nhân được đánh
dấu bằng sự kiện kết hôn)

Bình đẳng trong hôn nhân và gia đình

Hỏi: Sau hôn nhân phát sinh mối được hiểu là bình đẳng về quyền và
quan hệ giữa các thành viên như thế nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa các
nào?

thành viên trong gia đình trên cơ sở

Hỏi: Trong hôn nhân và gia đình, nguyên tắc dân chủ, công bằng, tôn
bình đẳng được hiểu như thế nào?

trọng lẫn nhau, không phân biệt đối xử

HS phát biểu, GV chốt ý và kết trong các mối quan hệ ở phạm vi gia
luận:

đình và xã hội.

được HP nước ta qui định từ 1946. giữ gìn danh dự, nhân phẩm, uy tín…
Hiện nay, sự bình đẳng giữa vợ và

- Trong quan hệ tài sản: Vợ, chồng

chồng còn tồn tại bất cập gì? (về cả có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong
quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân)
HS trả lời, GV chuẩn kiến thức:

sở hữu tài sản chung, thể hiện ở quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền
định đoạt….

GV sử dụng phương pháp thảo luận
nhóm, nêu vấn đề, tình huống, đóng
vai:
GV chia lớp làm 2 nhóm:
Nhóm 1: Tình trạng bạo lực trong gia
đình mà nạn nhân thường là phụ nữ và


18
trẻ em là vấn đề đang được quan tâm ở
nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Theo em, đây có phải là biểu hiện của
bất bình đẳng không?
Nhóm 2: Một người chồng do quan
niệm vợ mình không đi làm, chỉ ở nhà
làm công việc nội trợ, không thể quyết
định được việc lớn, nên khi bán xe ô tô

2. Cha mẹ xúi giục con cái làm
điều trái PL, đạo đức.
GV nhận xét về phần đóng vai của
HS, chốt ý và rút ra kết luận:
GV yêu cầu HS giải quyết tình huống:
Trong thực tế, em đã nghe kể hoặc
thấy trường hợp nào cha mẹ ngược đãi
hoặc xúi giục, ép buộc con làm việc
trái đạo đức, trái pháp luật chưa? Nếu
rơi vào hoàn cảnh đó, theo em phải
làm gì?
GV giảng và kết luận: Các thành viên
trong gia đình có quyền được hưởng sự
chăm sóc, giúp đỡ nhau và có nghĩa vụ
quan tâm, chăm lo đời sống chung của
gia đình.
Hỏi: Bình đẳng trong mối quan hệ
giữa ông bà và cháu thể hiện như thế
nào?

* Bình đẳng giữa ông bà và cháu:
- Ông bà có nghĩa vụ thương yêu,
chăm sóc, nêu gương cho các cháu.
- Các cháu có bổn phận thương
yêu, phụng dưỡng ông bà.

GV sử dụng PP đàm thoại, động
não:
Hỏi: Hiện nay, mối quan hệ giữa
anh chị em trong gia đình còn có tồn

nhiều hoạt động cho HS, đồng thời tạo được sự hứng thú, ham muốn học tập của
HS. PP đóng vai giúp HS phát hiện ra những năng khiếu của bản thân, bộc lộ khả
năng sáng tạo; PP tình huống kết hợp với thảo luận nhóm, vấn đáp... giúp HS hình
dung ra những quan hệ xã hội, quan hệ pháp luật phức tạp, từ đó đặt mình vào
những tình huống cụ thể để có cách ứng xử phù hợp với lợi ích cộng đồng. Việc
kết hợp nhuần nhuyễn các PP không chỉ đem lại cho các em quá trình lĩnh hội tri
thức một cách chủ động mà còn góp phần hình thành kỹ năng hợp tác, làm việc
nhóm, kỹ năng giải quyết vấn đề và rèn luyện tính tự học, phát huy được tiềm năng
sáng tạo từ HS. Đồng thời, người GV sẽ “nhàn nhã” hơn so với việc dạy học theo
PP truyền thống.
Ngoài ra, để chứng minh cho tính đúng đắn và hiệu quả của việc sử dụng các
PPDH tích cực vào dạy học môn GDCD, tác giả cũng đã tổ chức cho GV môn
GDCD cùng trường dự giờ những tiết thực nghiệm. Qua các tiết dự giờ thực
nghiệm đó, các GV đã rút ra kết luận rằng: việc sử dụng các PPDH tích cực một
cách linh hoạt trong tiết học cùng với việc trang bị đầy đủ các phương tiện, thiết bị
dạy học cần thiết thì hiệu quả sẽ cao hơn rất nhiều, đồng thời tạo cho HS sự hứng
thú, say mê môn học vốn khô khan này.
Với những kết quả trên, tác giả có thể khẳng định rằng, việc sử dụng các
PPDH tích cực trong chương trình GDCD lớp 12 ở trường THPT Nam Hà là hoàn
toàn có khả năng thực hiện và vận dụng thường xuyên, đồng thời có thể vận dụng
vào quá trình dạy học bộ môn GDCD ở các trường THPT hiện nay. Như vậy, mục
đích của thực nghiệm đã đạt được và giả thuyết khoa học nêu ra đã được kiểm
nghiệm.



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status