TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) ĐẾN QUAN HỆ LAO ĐỘNG TRONG NGÀNH DỆT MAY Ở VIỆT NAM. - Pdf 41

Lời nói đầu
Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) hiện được coi như là
Hiệp định thương mại tự do “ thế hệ mới ” đầy tham vọng với những tiêu chuẩn
cao, là một thỏa thuận khu vực mở rộng, linh hoạt và toàn diện. Mục tiêu chính là
mở cửa thị trường mạnh và tham gia sâu vào các bên, loại bỏ các loại thuế quan
cho hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên,… TPP được xem
là cơ hội mà Việt Nam không thể bỏ qua. Quy mô của TPP tạo ra những lợi ích to
lớn cho nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt đối với ngành dệt may – trong nhiều năm
qua vốn là ngành xuất khẩu chủ lực của nước ta. Hiệp định TPP sẽ tác động nhiều
đến các vấn đề của ngành dệt may, trong đó có quan hệ lao động. Vì vậy, em đã
chọn đề tài “ Phân tích tác động của Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương
(TPP) tới Quan hệ lao động trong ngành dệt may ở Việt Nam”.


CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI XUYÊN THÁI
BÌNH DƯƠNG (TPP)
1.1.

Giới thiệu khái quát về Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương

Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (tên tiếng Anh: Trans- Pacific
Partnership Agreement - viết tắt là TPP) là một hiệp định, thỏa thuận thương mại
tự do giữa 12 quốc gia với mục đích hội nhập nền kinh tế khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương. Hiệp định này được ký kết ngày 3/6/2005, có hiệu lực từ 28/5/2006
giữa 4 nước Singapore, Chile, New Zealand, Brunei. Tháng 9/2008, Hoa Kỳ tỏ ý
định muốn đàm phán để tham gia TPP. Sau đó, tháng 11/2008, các nước khác là Úc,
Peru, Việt Nam cũng thể hiện ý định tương tự. Đến tháng 10/2010, Malaysia chính
thức thông báo ý định tham gia đàm phán TPP.
Ngày 13/11/2010, Việt Nam tuyên bố tham gia vào TPP với tư cách thành viên
đầy đủ. Và đến ngày 04/02/2016 Việt Nam chính thức ký kết TPP và TPP sẽ bắt
đầu có hiệu lực 2 năm sau đó.

- Nến tảng hội nhập khu vực: TPP được định hình như một nền tảng cho hội
nhập kinh tế khu vực và nhắm đến cả những nền kinh tế khác trong khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương.
1.3.

Nội dung của Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP)

1.3.1. Thương mại hàng hóa

Các Bên tham gia TPP nhất trí xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan và các hàng rào
phi thuế quan đối với hàng hóa công nghiệp và xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan
cũng như các chính sách mang tính hạn chế khác đối với hàng hóa nông
nghiệp.Ngoài ra, các Bên nhất trí không áp dụng các hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu
và các loại thuế không phù hợp với WTO, bao gồm cả đối với hàng tân trang - việc
này được cho là sẽ thúc đẩy việc tái chế tất cả các bộ phận để chuyển thành các sản
phẩm mới.Đối với hàng nông nghiệp, các Bên sẽ xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan
và các chính sách mang tính hạn chế khác để gia tăng thương mại hàng nông
nghiệp trong khu vực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao an ninh lương thực và
hỗ trợ việc làm cho người nông dân và chủ trại nuôi gia súc của các nước TPP.
1.3.2. Dệt may
Các Bên tham gia TPP nhất trí xóa bỏ thuế quan đối với hàng dệt may – ngành
công nghiệp đóng vai trò quan trọng vào tăng trưởng kinh tế tại một số thị trường
của các nước TPP.Hầu hết thuế quan sẽ được xóa bỏ ngay lập tức, mặt dù thuế quan
đối với một số mặt hàng nhạy cảm sẽ được xóa bỏ với lộ trình dài hơn do các Bên
thống nhất.Chương Dệt may cũng bao gồm các quy tắc xuất xứ cụ thể yêu cầu việc
sử dụng sợi và vải từ khu vực TPP - điều này sẽ thúc đẩy việc thiết lập các chuỗi
cung ứng và đầu tư khu vực trong lĩnh vực này, cùng với cơ chế “nguồn cung thiếu


hụt” cho phép việc sử dụng một số loại sợi và vải nhất định không có sẵn trong khu

yêu cầu lưu chuyển hoặc tiếp cận. Thông qua và duy trì các luật bảo vệ người tiêu
dùng liên quan đến các hoạt động thương mại gian lận và lừa bịp trực tuyến và đảm
bảo rằng sự riêng tư và sự bảo vệ người tiêu dùng khác sẽ có hiệu lực tại các thị
trường TPP.Các Thành viên cũng được yêu cầu phải có các biện pháp để chấm dứt
các tin nhắn thương mại điện tử được gửi đi không do yêu cầu.
1.3.7. Doanh nghiệp nhà nước (SOEs)
Các Thành viên nhất trí bảo đảm rằng các SOEs của mình sẽ tiến hành các hoạt
động thương mại trên cơ sở tính toán thương mại, trừ trường hợp không phù hợp
với nhiệm vụ mà các SOEs đó đang phải thực hiện để cung cấp các dịch vụ công.
Bảo đảm rằng các SOEs hoặc đơn vị độc quyền sẵn có không có những hoạt động


phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp, hàng hóa, dịch vụ của các Thành viên
khác. Trao cho tòa án quyền tài phán đối với các hoạt động thương mại của các
SOEs nước ngoài và bảo đảm rằng các cơ quan hành chính quản lý cả các SOEs và
doanh nghiệp tư nhân cũng làm như vậy một cách công bằng. Sẽ không tạo ra
những ảnh hưởng tiêu cực đối với lợi ích của các Thành viên TPP khác khi cung
cấp hỗ trợ phi thương mại cho các SOEs, hay làm tổn hại đến ngành trong nước của
Thành viên khác thông qua việc cung cấp các hỗ trợ phi thương mại cho SOEs sản
xuất và bán hàng hóa trên lãnh thổ của SOE khác đó.
1.3.8. Lao động
Tất cả các Thành viên TPP đều là thành viên của Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO) và thừa nhận mối liên hệ giữa quyền của người lao động với thương
mại.Trong TPP, các Thành viên đồng ý thông qua và duy trì trong luật và thông lệ
của mình các quyền cơ bản của người lao động như được thừa nhận trong Tuyên bố
1998 của ILO, đó là quyền tự do liên kết và quyền thương lượng tập thể; xóa bỏ lao
động cưỡng bức; xóa bỏ lao động trẻ em và cấm các hình thức lao động trẻ em tồi
tệ nhất; và loại bỏ sự phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp.Các Thành viên
cũng đồng ý có luật quy định mức lương tối thiểu, số giờ làm việc, an toàn và sức
khỏe nghề nghiệp. Những cam kết này áp dụng cả với các khu chế xuất.

2.1.

Giới thiệu tổng quan về ngành dệt may ở Việt Nam.

Ngành dệt may Việt Nam trong nhiều năm qua luôn là một trong những ngành
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Với sự phát triển của công nghệ kĩ thuật, đội ngũ
lao động có tay nghề ngày càng chiếm tỉ lệ lớn và sự ưu đãi từ các chính sách nhà
nước, ngành dệt may đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, vừa tạo ra giá trị
hàng hòa, vừa đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Theo số liệu
của Tổng cục hải quan, năm 2015 giá trị xuất khẩu dệt may đạt 22,81 tỷ USD, tăng
9,1% so với năm 2014. Đây là tốc độ tăng trưởng đáng ngưỡng mộ đối với mặt
hàng có gái trị xuất khẩu lớn thứ hai cả nước.
Ngành dệt may Việt Nam có năng lực sản xuất cao, ngành hiện có hơn 6000
doanh nghiệp, sử dụng khoảng hơn 2,5 triệu lao động. Sản phẩm may đạt 4 tỷ đơn
vị, các sản phẩm khắc như bông xơ 8000 tấn, sợi 900 nghìn tấn, vải 1.5 tỷ m2. Năng
lực xuất khẩu của ngành dệt may cũng rất đáng nể, riêng tỏng năm 2014 kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may đạt 20,9 tỷ USD, chiếm 14% tổng kim ngạch xuất khẩu cả
nước, là mặt hàng xuất khẩu số một trong nhiều năm.
Hiện Việt Nam là quốc gia được đánh giá có năng lực cạnh tranh cao tại chuỗi
cung ứng dệt may toàn cầu. Và chọn Việt Nam làm trung tâm sản xuất hàng dệt
may xuất khẩu đang là đích đến cảu nhiều nhà đầu tư trong lĩnh vực này. Ngành dệt
may cso nhiều cơ hội để bứt phá với tốc độ tăng trưởng nahnh và ổn định như hiện
nay, ngành dệt may không chỉ đóng vai trò quan trọng mà còn đảm bảo cân bằng
thương mại của Việt Nam.

2.2.

Tác động tích cực của hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương
(TPP) đến quan hệ lao động trong ngành dệt may ở Việt Nam.


Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), Việt Nam tiếp tục các cam kết cải
cách pháp luật, thiết chế và thực hành quan hệ lao động theo hướng tôn trọng đầy
đủ các nguyên tắc và quyền cơ bản trong ILO với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành
quốc gia thu nhập cao hơn mức trung bình thông qua con đường tăng trưởng toàn
diện.
Với việc gia nhập các FTA, đặc biệt là TPP và AEC, Việt Nam là một trong số ít
các nước trên thế giới có vị thế rất tốt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng
cường cải cách cần thiết cho sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Việc gia nhập TPP sẽ
tạo thuận lợi cho người lao động và DN ngành dệt may đề ra các giải pháp để xử lý
các vấn đề trong quan hệ lao động, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
của người lao động. Tuy nhiên, để hưởng lợi đầy đủ từ những hợp tác này, Việt


Nam sẽ phải tiến hành những cải cách quan trọng và rộng khắp với quan điểm
nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách cơ bản về lao động, đặc biệt là hệ
thống quan hệ lao động...
Thứ hai, nâng cao vai trò của công đoàn, vai trò của người lao động và vai trò
của người sử dụng lao động
QHLĐ trong cơ chế thị trường có những nguyên tắc khác với QHLĐ trong nền
kinh tế kế hoạch hóa. Do đó, vai trò của tổ chức công đoàn ở cơ sở phải là tổ chức
thực sự, đại diện cho người lao động và đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người lao động trong quan hệ với người sử dụng lao động. Vai trò của công
đoàn, vai trò của người lao động và vai trò của người sử dụng lao động đều phải
điều chỉnh đổi mới cho phù hợp với nguyên tắc của QHLĐ trong cơ chế thị trường.
Trong các nước tham gia TPP, Việt Nam có QHLĐ với hình thức khác biệt nhất với
các nước khác nên khi tham gia sân chơi chung thì chúng ta phải thay đổi nhiều
nhất. Do đó, khi tham gia TPP thì các bên chủ sử dụng lao động, người lao động và
công đoàn đều phải có sự điều chỉnh. Điều đầu tiên là Nhà nước cần phải điều
chỉnh từ nhận thức, điều chỉnh luật pháp, điều chỉnh cơ chế thiết chế, tiếp đến là sự
điều chỉnh của hai chủ thể chính trong QHLĐ là người lao động và người sử dụng

phát huy vai trò của tổ chức đại diện người lao động, vẫn để xảy ra các cuộc đình
công bất hợp pháp.Tuy nhiên, nếu tổ chức đại diện cho người lao động mà do
người lao động bầu ra sẽ đảm bảo được việc thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình,
giúp người lao động có thể nói lên tiếng nói của họ, tránh vầ giảm được các mâu
thuẫn xung đột xảy ra tại nơi làm việc.
Thứ tư, thiết lập mối quan hệ hài hòa, ổn định,tiến bộ giữa doanh nghiệp với
người lao động giúp doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh thị trường trong bối cảnh
hội nhập
Hài hòa, ổn định và tiến bộ là ba thành tố không thể thiếu, là mục tiêu mà chúng ta
hướng tới trong xây dựng quan hệ lao động hiện nay.
Hài hòa trong quan hệ lao động là sự cân đối giữa các yếu tố về quyền lợi, nghĩa vụ
của các bên, đặc biệt là về lợi ích kinh tế.
Ổn định trong quan hệ lao động là việc làm, thu nhập, thời gian làm việc của người
lao động ổn định; không có biến động đáng kể về sản xuất, kinh doanh, hợp đồng
đặt hàng, số lượng, cơ cấu công nhân của doanh nghiệp. Đó là duy trì trạng thái cân
bằng về lợi ích, về quyền lực và sức mạnh của các chủ thể trong quan hệ lao động
nhằm tăng cường sự hợp tác, giảm thiểu xung đột và tạo thế bình ổn trong quan hệ
lao động.
Tiến bộ là sự vận động trong quan hệ lao động phát triển theo hướng đi lên, ngày
càng tốt hơn trước.
Việc kí kết HIệp định TPP là sự thúc đẩy mạnh mẽ trong thiết lập mối quan hệ giữa
daonh nghiệp và người lao động ngành dệt may. Nó đề cao vai trò của người lao
động cũng như doanh nghiệp, chỉ khi người lao động được almf việc trong một môi
trường tốt, quan hệ giữa người lao động với doanh nghiệp ít xảy ra mẫu thuẫn thì
mới đạt được năng suất và hiệu quả cao, từ đó doanh nghiệp sẽ có doanh thu và lợi
nhuận cao, như vậy tổng giá trị sản xuất của ngành cũng tăng lên đáng kể.
2.3.

Tác động tiêu cực của hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương
(TPP) đến quan hệ lao động trong ngành dệt may ở Việt Nam.

Việt Nam hoặc có thể tự chủ cho tổ chức của mình. Đặc biệt, người sử dụng
lao động không được phép can thiệp vào hoạt động của tổ chức tự chủ này…
- Theo các chuyên gia kinh tế, khi chính thức tham gia TPP các ngành nghề
nói trên sẽ được hưởng lợi do sản phẩm xuất khẩu tăng mạnh, có thể tạo
thêm hàng triệu cơ hội việc làm mới. Tuy nhiên, có thể tạo ra những thách
thức lớn về quan hệ lao động vì đây luôn là những ngành có độ nhạy cảm
cao về quan hệ lao động. Hơn nữa, quá trình hội nhập sẽ thúc đẩy tự do di


chuyển lao động, từ đó tạo nên môi trường cạnh tranh gay gắt, dẫn đến một
bộ phận không nhỏ người lao động sẽ bị thất nghiệp…
- Môi trường hoạt động công đoàn có nhiều biến đổi: Quan hệ lao động và
đình công có thể diễn biến phức tạp hơn trong giai đoạn đầu của quá trình
phát triển thị trường lao động và hội nhập quốc tế sâu rộng, đặc biệt là khi
Việt Nam gia nhập TPP.
- Việc Việt Nam gia nhập TPP và thực hiện các cam kết quốc tế, sẽ có tác động
trực tiếp và gián tiếp làm tăng thêm sự thiếu ổn định của quan hệ lao động
trong thời gian trước mắt. Mâu thuẫn giữa bên sử dụng và bên cung ứng sức
lao động, và tranh chấp trong quan hệ lao động có xu hướng tăng cả về quy
mô và tính phức tạp, đặc biệt là tranh chấp lao động tập thể có thể dễ dẫn tới
ngừng việc tập thể và đình công … của người lao động. Bên cạnh đó, có thể
xuất hiện thêm các yếu tố gia tăng tính phức tạp trong tranh chấp lao động,
đình công, lãn công, ngừng việc tạm thời của người lao động... Theo các cam
kết trong TPP, có thể việc tổ chức đình công cũng như phạm vi đình công sẽ
mở rộng đáng kể


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM CẢI THIỆN QUAN
HỆ LAO ĐỘNG TRONG NGÀNH DỆT MAY Ở VIỆT NAM DƯỚI TÁC
ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG


3.2. Một số khuyến nghị
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm phù hợp với quy định và nghĩa vụ
theo Hiệp định thương mai xuyên Thái Bình Dương TPP
- Sớm xây dựng chương trình hành động thực thi TPP
- Nắm vững cam kết TPP bảo đảm thực hiện chính xác, tránh tranh chấp với
các nhà đầu tư hoặc các nước khác
- Đào tạo đội ngũ cán bộ có chuyên môn và có kiến thức về hội nhập quốc tế
đặc biệt là kinh tế quốc tế
- Tiếp tục thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính tạo môi trường kinh doanh và
đầu tư thuận lợi
- Tăng cương công tác tuyên truyền
- Thay đổi tư duy kinh doanh trong bối cảnh mới
- Chủ động xây dựng kế hoạch kinh doanh cho giai đoạn trung và dài hạn
- Nâng cao năng lực cạnh tranh
- Tăng cường liên kết chủ động tìm hướng hợp tác với các đối tác nước ngoài,
tham gia vào dây truyền cung ứng toàn cầu.

Thứ nhất, tăng cường quản lý thị trường lao động (cung – cầu), quản lý nguồn
nhân lực về đào tạo và việc làm, hệ thống cập nhật di chuyển, biến động lao
động. Thứ hai, đột phá về chính sách tiền lương, trả lương cao xứng đáng với
trình độ chuyên môn nghiệp vụ của lao động chất lượng cao, phù hợp với giá cả
sức lao động. Thứ ba, quan tâm tạo dựng môi trường làm việc, xây dựng các
quy định, văn hóa của DN. Thứ tư, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực của các
trường đại học, cao đẳng, kết nối cung cầu giữa hệ thống giáo dục và đào tạo
nghề và người sử dụng lao động. Công tác đào tạo nguồn nhân lực cần phải gắn
kết chặt chẽ với nhu cầu của DN.
Thứ năm, hoàn thiện hệ thống dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường
lao động của Quốc gia và các tỉnh, thành phố có khoa học, có hệ thống tổ chức
và phối hợp giữa cơ quan quản lý đào tạo – việc làm với các đơn vị dịch vụ việc


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Các nguyên lý quan hệ lao động, Tiến sĩ Nguyễn Duy Phúc – Nhà xuất bản Lao
động xã hội, Hà Nội, 2012.
2. Giáo trình Quan hệ lao động, Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Tiệp – Trường đại học
Lao động xã hội – Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội, 2008.
3. Quan hệ lao động trong doanh nghiệp nhỏ và vừa, Tiến sĩ Nguyễn Duy Phúc –
Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội, 2012.
4. Bộ Luật lao động năm 2012.
5. Luật Công đoàn năm 2012.
6. Quan hệ lao động và hội nhập kinh tế quốc tế, Phó Giáo sư Tiến sĩ Lê Thanh HàNhà xuất bản Lao động xã hội, 2008.
7. http://luanvan.co/luan-van/khoa-luan-nhung-co-hoi-va-thach-thuc-doi-voi-vietnam-khi-tham-gia-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-xuyen-thai-binh-duong-tpp-61786/
8. http://phapluatxahoi.vn/kinh-doanh/thach-thuc-trong-doi-moi-quan-he-lao-dong111268
9. http://www.trithuccongluan.com.vn/kinh-te/3035-thap-thom-quan-he-lao-dongthoi-tpp.html
10. http://vnubw.org.vn/tin-tuc/t2330/thoi-co-va-thach-thuc-doi-voi-to-chuc-congdoan-khi-viet-nam-tham-gia-tpp.html
11.https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p_%C4%91%E1%BB%8Bnh_
%C4%90%E1%BB%91i_t%C3%A1c_xuy%C3%AAn_Th%C3%A1i_B
%C3%ACnh_D%C6%B0%C6%A1ng


Phụ lục
2.1. Một số hình ảnh về đình công ngành dệt may

Hơn 1500 công nhân công ty TNHH may Việt Pacific (phường Mỗ Lao, Hà Đông,
Hà Nội) đội mưa đình công đòi quyền lợi ngày 18 và 19/3/2015


Ngày 13/11, hơn 900 công nhân nhà máy may mặc của Công ty TNHH MLB
Tenegry (đóng tại thị trấn Yên Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An) đã đồng loạt
đình công để đòi quyền lợi cá nhân


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status