Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5 - Pdf 43

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

******************

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIÊN PHÁP RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN
MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 5

Người thực hiện: Lương Thị Thoa
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác:Trường Tiểu học Điện Biên 2
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2017


MỤC LỤC


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Tiếng Việt là tiếng phổ thông của dân tộc Việt Nam. Trong nhà trường Tiểu
học. Môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho
học sinh các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong môi
trường hoạt động, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy.
Trong chương trình Tiểu học , Tiếng Việt được chia thành các phân môn,
mỗi phân môn có nhiệm vụ rèn luyện cho học sinh những kĩ năng nhất định.
Phân môn Tập làm văn là phân môn mang tính tổng hợp cao nhất, nó có vai trò
rèn cho học sinh cả bốn kĩ năng, trong đó quan trong là các kĩ năng nghe, nói,

miêu tả cho các em là rất cần thiết. Học sinh học tốt văn miêu tả sẽ là điều kiện
thuận lợi để các em học tốt các môn học khác ở Tiểu học và tạo đà cho các em
học tiếp lên các lớp trên. Để góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất
1


lượng dạy học trong nhà trường nói chung, nâng cao chất lượng phân môn Tập
làm văn cho học sinh lớp 5 nói riêng, tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn
kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp Năm”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này tôi mong muốn được đóng góp một phần công sức
của mình vào công tác giáo dục của nhà trường. Trước hết là góp phần nâng cao
chất lượng phân môn Tập làm văn cho lớp tôi trực tiếp giảng dạy. Sau đó, mục
tiêu quan trọng hơn là góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt
của trường Tiểu học Điện Biên 2.
3. Đối tượng nghiên cứu
Kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 5.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Điều tra phân loại đối tượng học sinh .
- Phương pháp nghiên cứu xây dưng cơ sở lí thuyết.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Tập làm văn là một phân môn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng hợp
các kiến thức, kĩ năng từ Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu,... để
viết nên một bài Tập làm văn. Tập làm văn là phân môn học sáng tạo chứ không
phải sao chép,…Là phân môn học tổng hợp kiến thức của các môn học khác và
kiến thức của cuộc sống, là phân môn tổng hợp các kĩ năng (kĩ năng sống, kĩ
năng giao tiếp, kĩ năng sử dụng ngôn ngữ, kĩ năng trình bày và tạo lập văn
bản,...)

giảng dạy còn rất hạn chế khi làm bài Tập làm văn.Qua khảo sát chất lương đầu
năm học của môn Tiếng Việt bài viết Tập làm văn được thống kê với kết quả
như sau:
Lớp 5A3: 42 học sinh
Hoàn thành
Tốt

Khảo
sát
chất
lương
đầu
năm

Hoàn thành

Lớp 5A4: 46 học sinh
Chưa
hoàn thành

Hoàn thành
Tốt

Hoàn thành

Chưa
hoàn thành

Số
lượng


Tỉ lệ
%

6

14,3

28

66,7

8

19

5

10,8

29

63

12

26,2

Từ thực trạng trên, tôi đã tìm hiểu kĩ thực tế bài khảo sát chất lượng của học
sinh. Đa số bài viết của các em còn bị điểm thấp là do các nguyên nhân sau:

em lòng yêu quý Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra
rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thông, viết thạo Tiếng Việt và phát huy
hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ.
3. Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp Năm
Để hướng dẫn học sinh lớp Năm viết văn miêu tả có hiệu quả tôi đã tiến
hành một số biện pháp như sau:
3.1. Điều tra phân loại học sinh
Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành điều tra, phân loại, nắm chắc từng
đối tượng học sinh: năng khiếu, tiếp thu được, tiếp thu chậm. Nắm chắc được
đối tượng học sinh, tôi đã đề ra được những biện pháp dạy học phù hợp với từng
đối tượng học sinh. Đồng thời, tạo điều kiện tốt nhất góp phần giúp học sinh
chưa biết làm văn miêu tả, có thể vận dụng làm được một bài văn hoàn chỉnh.
3.2. Hướng dẫn học sinh đọc sách, nâng cao năng lực cảm thụ văn học, tích
luỹ tư liệu văn học.
- Tôi đã hướng dẫn học sinh đọc sách không phải chỉ để biết cốt truyện
mà phải ngẫm nghĩ nội dung, bố cục, ý nghĩa của tác phẩm, cách viết của tác
giả để giúp các em cảm thụ sâu tác phẩm, học được cái gì trong cách viết của
tac giả.
- Hướng dẫn học sinh biết cách tích luỹ dần các tư liệu văn học bằng cách
có cuốn sỗ tay văn học khi đọc những bài thơ, bài văn có đoạn miêu tả hay hoặc
những từ ngữ gợi tả hay, hình ảnh sinh động thì ghi lại. Tích luỹ vốn văn học,
ghi chép các câu văn, câu thơ, câu ca dao hay không phải là để học vẹt, để bê
nguyên xi vào bài văn mà là để tham khảo, làm giàu thêm vốn ngôn ngữ, vận
dụng sáng tạo trong bài viết của mình.Việc hướng dẫn học sinh đọc sách, nâng
cao năng lực cảm thụ văn học, tích luỹ dần các tư liệu văn học đã đóng góp một
phần vào việc viết văn hay của học sinh.
3.3. Hướng dẫn các em làm giàu vốn từ ngữ.
- Giáo viên cần có biện pháp làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh qua từng
bài đọc, từng bài tập ở các môn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ- câu cùng chủ
điểm. Tạo cho học sinh thói quen quan sát, đánh giá, nhìn nhận một sự vật, một

Hãy chọn từ thích hợp điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau: “Tiếng
chim... báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Ông mặt trời... nhô lên sau luỹ tre xanh.
Khói bếp nhà ai... bay trong gió. Đàn gà con... gọi nhau,...theo chân mẹ. Đường
làng đã... người qua lại.”
Ví dụ 2: Hãy chọn từ ngữ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống để được các
câu văn có hình ảnh so sánh phù hợp nhất (tiếng chuông, chùm sao, thuỷ tinh,
dải lụa, giọng bà tiên).
- Hoa xoan nở từng chùm trông giống như... ( những chùm sao )
- Nắng cứ như...xối xuống mặt đất.
( thuỷ tinh )
- Giọng bà trầm ấm ngân nga như...
( tiếng chuông )
Ở ví dụ 1 và ví dụ 2, cho số từ nhiều hơn số chỗ trống cần điền, buộc HS
phải suy nghĩ kĩ hơn khi chọn từ.
3.4. Bồi dưỡng tình cảm, mĩ cảm.
Việc bồi dưỡng tình cảm, mĩ cảm rất cần thiết để học sinh viết được bài văn
hay, nếu không có tình cảm đúng thì khó có thể viết được bài văn hay. Tả một
hàng cây bên đường nếu học sinh không yêu hàng cây ấy, chưa thấy đó là kết
quả của bao nhiêu công sức thì bài văn tả hàng cây không có hồn. Nếu các em
5


yêu hàng cây ấy thì khi quan sát các em sẽ thấy nhiều nét đẹp. Các em sẽ vui
mừng khi thấy hàng cây nảy nhiều chồi non, cành lá xum xuê…Đối với giáo
viên khi dạy các bài văn, bài thơ miêu tả về cảnh đẹp quê hương, đất nước và
con người cần phải hướng dẫn, phân tích tỉ mỉ cách tả, cách sử dụng tà ngữ, hình
ảnh… để tăng vốn hiểu biết cho các em; để các em biết nhìn cái đẹp, các em sẽ
thêm yêu quê hương, đất nước, yêu những danh lam thắng cảnh.
3.5. Cá thể hoá hoạt động dạy học
- Tôi luôn quan tâm đến đối tượng học sinh tiếp thu chậm đồng thời vẫn

Ví dụ: Đề bài ở tuần 4 lớp 5
Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong
công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy.

6


Khi xác định yêu cầu trọng tâm của đề bài, giáo viên phải làm sao giúp học
sinh hiểu được rằng việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định nội
dung bài viết:
Với đề bài trên, ẩn chứa 3 yêu cầu sau:
a. Yêu cầu về thể loại của đề là: Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”).
b. Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm từ
“cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”.
c. Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong công viên….).
Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như đề
bài “Tả một cơn mưa” chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài này,
giáo viên cần giúp học sinh tự xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của bài viết.
Chẳng hạn “Tả một cơn mưa khi em đang trên đường đi học”...
Việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu hẹp nên
các em có được ý cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan, chung chung,...
3.7. Hướng dẫn học sinh biết cách quan sát, tìm ý, sắp xếp, diễn đạt ý.
Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người để
giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy (Tiếng Việt 4 tập
1, trang 140), tức là lấy câu văn để biểu hiện các đặc tính, chân tướng sự vật,
giúp người đọc như được nhìn tận mắt, sờ tận tay vào sự vật miêu tả. Vì vậy, khi
dạy văn miêu tả, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh quan sát và miêu tả
theo các trình tự hợp lý :
a. Tả theo trình tự không gian:
Quan sát toàn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ

Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây
cảm xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả
sau. Khi miêu tả đồ vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ
nên tả những điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau
của đối tượng.
Ví dụ 1:
“ Bà tôi ngồi cạnh tôi chải đầu. Tóc bà đen và dày kì lạ, phủ kín cả hai vai,
xoã xuống ngực, xuống đầu gối. Một tay khẽ nâng mớ tóc lên và ướm trên tay,
bà đưa một cách khó khăn chiếc lược thưa bằng gỗ vào mớ tóc dày.
Giọng bà trầm bỗng, ngân nga như tiếng chuông. Nó khắc sâu vào trí nhớ
tôi dễ dàng, và như những đoá hoa, cũng dịu dàng, rực rỡ, đầy nhựa sống. Khi
bà mỉm cười, hai con ngươi đen sẫm nở ra long lanh, dịu hiền khó tả,...” (Bà Tôi
- Tiếng Việt 5 tập 1).
Tác giả đã quan sát và tập trung tả mái tóc, giọng nói rồi đến ánh mắt, mái
tóc “dày kì lạ”.
Ví dụ 2:
“Sầu riêng là loại trái quý ở miền Nam. Hương vị của nó hết sức đặc biệt,
mùi thơm đậm, bay rất xa... Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm... Hoa đậu từng
chùm màu trắng ngà. Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi về dáng cây kì
lạ này. Thân nó khẳng khiu, cao vút, cành ngay thẳng đuột...” (Sầu riêng - Tiếng
Việt 4).
Tác giả đã tả nét đặc sắc nhất của quả, hoa và dáng cây sầu riêng. Ngoài
các trình tự miêu tả trên, giáo viên cần hướng dẫn và rèn luyện cho học sinh kĩ
năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác,...) để quan
sát, cảm nhận sự vật, hiện tượng miêu tả.
Ví dụ 3:
Phân tích bài “Mưa rào” (Tiếng Việt 5- Tập 1- Trang 33) ta thấy tác giả đã
quan sát bằng các giác quan như sau:
- Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy mưa rơi.
- Xúc giác: Gió bỗng thấy mát lạnh, nhuốm hơi nước.

+ Em sẽ cố gắng làm những điều thật tốt để tình bạn của chúng em mãi
mãi bền lâu.
+ Những ngày bạn nghỉ học, em cảm thấy rất nhớ.
+ Bạn có nước da trắng hồng, mịn màng.
+ Bạn hay phát biểu và hiểu bài rất nhanh nên được thầy, cô và các
bạn khen ngợi.
+ Bạn rất hay cười.
+ Mái tóc bạn không đen như tóc em mà hoe vàng.
+ Bằng tuổi với em nhưng bạn cao hơn em một cái đầu.
+ Nga viết chữ rất đẹp nên bạn luôn được côkhen ngợi.
+ Mỗi khi bạn cười, hai lúm đồng tiền trên má hiện rõ trên khuôn mặt dễ
thương.
+ Bạn không gây gỗ, xích mích với ai bao giờ.
+ Thầy, cô thường lấy bạn để làm gương.
Sau khi tìm ý, cho các em chọn và sắp xếp ý thành các đoạn mở bài, thân
bài, kết bài phù hợp.
Ví dụ:
*Đoạn mở bài
Em và bạn Thu Nga chơi với nhau từ năm lớp Một. Chúng em rất thân
nhau. Mỗi lúc rãnh rỗi, em thường nô đùa với bạn.
* Đoạn thân bài
9


Bằng tuổi em nhưng bạn cao hơn em một cái đầu. Bạn có nước da trắng
hồng, mịn màng. Bạn rất hay cười, mỗi khi bạn cười, hai lúm đồng tiền trên má
hiện rõ trên khuôn mặt dễ thương. Thu Nga có đôi mắt to rất hợp với hàng lông
mi dài, cong. Đôi mắt bạn luôn ánh lên vẻ hồn nhiên, trong sáng. Mái tóc bạn
không đen như tóc em mà hoe vàng. Nga viết chữ rất đẹp, bạn luôn được cô
khen ngợi là cô bé có đôi bàn tay “diệu kì.”Cô thường lấy bạn ra làm gương

Khi các em đã biết viết câu văn đúng ngữ pháp. Tôi nâng cao lên một
bước hướng dẫn các em viết câu văn hay, vì diễn đạt câu văn không có hình ảnh
và không có sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa..thì câu văn trở nên
khô khan, tẻ nhạt khó thu hút người đọc do đó trong các tiết luyên từ và câu tôi
hướng dẫn kĩ các em luyện tập qua các bài tập rèn kĩ năng viết đoạn văn. Tôi
luôn gợi ý các em lập ý trước khi viết thành lời văn cụ thể.
Ví dụ1: Bài tập 3 trang 88 Tiếng Việt 5 tập 1
10


Tôi gợi ý như sau:
+ Em chọn từ ngữ nào trong mẫu chuyện trên?
+ Quê em có hình ảnh gì đẹp? ( học sinh kể: dòng sông, lũy tre, con đê,
cảnh đồng…)
+ Em hãy đặt câu có sử dụng biên pháp so sánh, nhân hóa và phải biết bộc
lộ tình cảm của mình về quê hương trong câu văn.
Ví dụ 2: Miêu tả mái tóc của một bạn:
+ Với học sinh chậm tôi giúp các em viết câu đúngngữ pháp: Tóc bạn
Loan đen nhánh.
+ Với học sinh có năng khiêu tôi hướng dẫn các em viết câu có hình ảnh:
Loan có mái tóc đen nhánh, óng ả, xoã ngang vai mà không thể lẫn lộn với bất
cứ bạn nào trong lớp được.
3.9. Chấm bài và trả bài viết
Chương trình Tập làm văn lớp 5 có 3 tiết trả bài tả cảnh, 3 tiết trả bài tả
người, 4 tiết trả bài kể chuyện, đồ vật, cây cối, con vật. Ta nhận thấy rằng có
chấm bài chu đáo thì mới có tiết trả bài đạt hiệu quả.
a. Chấm bài
Khi chấm bài Tập làm văn cho học sinh, mỗi bài tôi đọc qua một lượt để có
cái nhìn chung về bố cục, về diễn đạt của học sinh, xem thử học sinh đã làm bài
đúng thể loại, nội dung và trọng tâm bài viết chưa. Tôi ghi ra sổ chấm bài những

như vậy sẽ giúp cho việc sửa chữa lỗi sát hợp và kịp thời uốn nắn kĩ năng diễn
đạt cho lớp. Tuy nhiên, sửa như vậy sẽ dẫn đến tình trạng nhàm chán trong HS
vì tiết trả bài nào cũng sửa chữa những lỗi đó.
- Riêng tôi, ngay từ đầu năm học đã lên kế hoạch sửa lỗi diễn đạt cho lớp,
mỗi tiết trả bài viết tập trung sửa chữa cho một hoặc hai loại lỗi nào đó một cách
bền vững, tức là cần có trọng tâm sửa lỗi cho từng tiết.
Bước 1: Tham gia chữa lỗi chung cho cả lớp:
Ví dụ:
Tiết trả bài viết số 1(tả cảnh, tuần 5) : Trọng tâm sửa lỗi là dùng từ, đặt
câu và thực trạng viết câu.
Bước 2: Học sinh đọc lại bài làm của mình, chú ý những chỗ mực đỏ ghi
lời khen, chê của cô giáo. ( Ví dụ : câu hay, đoạn hay, hoặc lỗi dùng từ, lỗi viết
câu, lỗi chính tả…)
Bước 3: Học sinh tự chữa bài vào vở tập làm văn.
Hoạt động 3: Đọc tham khảo một số đoạn, hoặc vài bài văn hay của một số em
cho cả lớp nghe để học tập và rút kinh nghiệm.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Qua những biện pháp tôi đã áp dụng được nêu ở trên, đến giữa học kì 2
năm học 2016 – 2017 các em đã nắm được một số kĩ năng nhất định để học có
hiệu quả phân môn Tập làm văn. Cả lớp đều ham thích môn học, không sợ sệt
khi đến tiết Tập làm văn như đầu năm học nữa. Bài làm của các em đa số đã có
tiến bộ, học sinh nắm được cách sắp xếp ý, bố cục chặt chẽ, dùng từ chính xác,
viết câu văn trôi chảy, mạch lạc, bước đầu có hình ảnh, cảm xúc, hiểu và vận
dụng khá tốt các biện pháp tu từ trong các bài tập làm văn của mình. Các em
cảm thụ được bài văn, đọc bài trôi chảy, hiểu đúng nội dung bài, nhất là rất tự tin
khi đến tiết học Tập làm văn.
Năm học 2016- 2017: Sĩ số lớp là 42 học sinh & 46 học sinh
Diễn biến chất lượng phân môn Tập làm văn (Điểm kiểm tra)
Lớp 5A3: 42 học sinh

lượng
%

Hoàn thành
Số
lượng

Tỉ lệ
%

Chưa
hoàn thành
Số
Tỉ lệ
lượng
%

10

23,8

25

59,5

7

16,7

10


7

15,3

12


Giữa
HK2

21

50

21

50

0

0

18

39,1

28

60,9

rèn kĩ năng viết bài văn cho các em. Bởi trả bài là tiết học mà giáo viên
dành nhiều thời gian để sửa lỗi cho học sinh, giúp học sinh điều chỉnh
những sai sót mắc phải trong bài viết để bài viết sau sẽ hoàn chỉnh hơn,
hấp dẫn hơn.
- Giáo viên phải không ngừng học hỏi, sáng tạo trong giảng dạy, đem hết
khả năng và niềm đam mê, lòng nhiệt tình cho công tác thì mới có được những
kết quả như mong muốn.
- Không phải ai sinh ra cũng mang sẵn trong mình một tâm hồn văn
chương mà khả năng ấy phải được bồi đáp dần qua năm tháng, qua trang sách và
những bài giảng hàng ngày của thày cô. Muốn có được khả năng ấy của mỗi học
sinh thì chính mỗi giáo viên phải định hướng, gợi mở cho các em phương pháp
học tập như những cây non được ươm trồng cần bàn tay con người chăm sóc,
vun xới thì nó sẽ trở nên tươi tốt. Với học sinh lớp 5, các em không thể vừa bắt
tay vào viết văn đã có được những dòng văn hay mà văn hay là kết quả của một
quá trình rèn luyện liên tục, bền bỉ, dẻo dai. Văn hay không thể có được ở những
học trò lơi là đèn sách. Với tinh thần đó, việc rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho
13


học sinh lớp 5 vừa nhằm mục đích nâng cao năng lực viết văn vừa nhằm nâng
cao ý thức tự rèn luyện của học sinh. Đó chính là động lực thúc đẩy tôi nghiên
cứu sáng kiến kinh nghiệm này.
Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến xậy dựng của các cấp lãnh đạo,
quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp lớp 5.
2.Kiến nghị
Với những kết quả ban đầu thu được sau một thời gian áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm “Một số phương pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh
lớp Năm”, tôi đề nghị Nhà trường tổ chức khảo nghiệm và có ý kiến góp ý, chỉ
đạo để tôi tiếp tục hoàn chỉnh đề tài, góp phần nâng cao chất lượng dạy học
Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng cho học sinh lớp Năm.


Nhà XBGD

2

Sách giáo khoa, sách giáo
viên Tiếng Việt Lớp 4

Nguyễn Minh Thuyết
( chủ biên)

Nhà XBGD

3

Luyện viết văn miêu tả ở
Tiểu học tập 1,2

Vũ Khắc Tuân

Nhà XBGD

15


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN


2007 - 2008

B

2012 - 2013

A

2015 - 2016

Một vài biện pháp tạo hứng thú
1.

học tập cho học sinh trong giờ
luyện từ và câu lớp 5.

2.

Sở giáo dục

học tập cho học sinh trong giờ

và đào tạo
TH.

Một số biện pháp tạo hứng thú học
tập cho học sinh trong giờ luyện từ
và câu lớp 5.

4.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status